Các vị hoạn quan nổi tiếng (của Việt Nam và Trung Hoa)

Thảo luận trong 'Lịch sử - Nhân văn' bắt đầu bởi Trầm Tích, 9/8/08.

  1. Trầm Tích Thành viên tích cực

    Trước tiên là các vị đến từ Trung Quốc

    1. Triệu Cao: Hoạn quan thời nhà Tần. Triệu Cao bắt đầu được tin dùng sau vụ Kinh Kha âm mưu hành thích vua Tần. Nhờ Triệu Cao nhắc về cây kiếm đang đeo bên mình, Tần Thuỷ Hoàng mới đánh trả được Kinh Kha và may mắn thoát chết. Khi Tần Thuỷ Hoàng băng hà ở Sa Khâu trên đường tuần du miền Đông Nam, Triệu Cao đã cùng với thừa tướng Lý Tư thông mưu lập con thứ Hồ Hợi (Tần Nhị Thế) và bức tử thái tử Phù Tô. Về sau Triệu Cao lại tiếp tục giết Lý Tư và nhiều đại thần, một mình độc chiếm quyền hành. Tới khi quân khởi nghĩa của Lưu Bang đánh tới kinh thành, Triệu Cao bức tử Nhị Thế, lập Tử Anh để có cơ sở thương lượng. Tuy nhiên, cuối cùng Triệu Cao lại bị chính Tử Anh giết chết. Có thể nói việc để cho quyền lực nằm trong tay một kẻ độc ác và bất tài như Triệu Cao chính là một trong những nguyên nhân khiến vương triều nhà Tần hùng mạnh là thế mà chỉ duy trì được trong có 15 năm.

    2. Thập thường thị: Mười viên hoạn quan dưới triều hai vua Hoàn Đế, Linh Đế thời Đông Hán, đứng đầu là Trương Nhượng. Việc điều hành quốc gia bắt đầu rơi vào tay tầng lớp hoạn quan sau khi Hoàn Đế phải dựa vào nhóm này để trừ khử quyền thần Lương Ký. Trong thời gian nắm quyền, hoạn quan đã phát động hai đợt thanh trừng lớn, qua đó bức hại và loại trừ hầu hết các bậc trung thần hoặc những người không cùng phe cánh. Lịch sử gọi sự kiện này là “hoạ đảng cố”. Triều đình Đông Hán thời kỳ này trở nên vô cùng hủ bại, việc mua quan bán tước được định giá công khai. Dù sau này, thập thường thị có bị Viên Thiệu tiêu diệt nhưng triều Đông Hán không thể phục hồi được nữa. Nước Trung Quốc rơi vào loạn lạc, chiến tranh và chia cắt đưới thời Tam Quốc trong gần 100 năm còn nhà Hán thì bị nhà Nguỵ thay thế.

    3. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan dưới triều Đường Huyền Tông. Là một sủng thần, Cao Lực Sĩ dựa thế hoàng để để tác oai tác phúc với các quan trong triều. Nhà thơ Lý Bạch, do có hiềm kích cá nhân với Cao Lực Sĩ, cũng bị y dèm pha phải từ quan. Khi An Lộc Sơn nổi loạn tấn công kinh đô Trường An, Cao Lực Sĩ theo xa giá của Huyền Tông bỏ thành chạy trốn. Đến gò Mã Ngôi, trước nguy cơ xảy ra binh biến, Cao Lực Sĩ đã giết Dương Quý Phi trấn an quân đội.

    4. Cừu Sĩ Lương: Hoạn quan dưới triều Đường Văn Tông. Nhà Đường trong suốt mười đời vua cuối cùng kể từ Đức Tông đến Chiêu Tông đều bị thế lực hoạn quan chi phối. Hoạn quan không chỉ thao túng triều chính mà còn giết vua và định việc phế lập. Đường Văn Tông dựa vào Cừu Sĩ Lương để giết tên hoạn quan đứng đầu triều đình lúc đó là Vương Thủ Trừng. Trừ khử được Thủ Trừng rồi, Văn Tông lai định trừ tiếp Cừu Sĩ Lương, vì chung quy y cũng là một hoạn quan, lại đang nắm binh quyền. Văn Tông phối hợp cùng một số đại thần thân tín, lập mưu lừa Cừu Sĩ Lương vào vườn thượng uyển, phục binh sẵn để giết. Sự việc bại lộ, Cừu Sĩ Lương cùng hoạn quan nhốt vua vào nội cung làm con tin, rồi cho quân truy bắt và giết toàn bộ những người dự mưu, tổng cộng trên một ngàn người. Đây là sự kiện “Cam lộ chi biến” nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Sau biến cố này, Văn Tông hoàn toàn bị đặt dưới sự giám sát của hoạn quan. Nhà Đường tiếp tục lún sâu hơn vào sự suy tàn và cuối cùng bị diệt vong.

    5. Trịnh Hoà: Hoạn quan dưới triều Minh Thành Tổ. Ông tên thật là Mã Tam Bảo, tín đồ Hồi giáo sống tại Vân Nam. Do thông minh tháo vát, Trịnh Hoà được Minh Thành Tổ yêu mến và tin dùng. Ông là nhà hàng hải nổi tiếng nhất của Trung Quốc. Từ năm 1405 đến năm 1433, Trịnh Hoà đã bảy lần chỉ huy hạm đội đi chu du qua vùng biển Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, ghé thăm hơn 30 quốc gia, xa nhất là Somalia thuộc châu Phi. Dựa trên một số thư tịch và bằng chứng lịch sử, cựu thuyền trưởng tầu ngầm người Anh là Gavin Menzies gần đây đã đưa ra một giả thuyết là chính các đô đốc dưới quyền Trịnh Hoà, trong chuyến đi thứ sáu, đã phát hiện ra mũi Hảo Vọng, châu Mỹ, châu Nam Cực, châu Úc và Bắc Cực.

    6. Vương Chấn: Hoạn quan dưới triều vua Minh Anh Tông. Xuất thân là một tên lưu manh, Vương Chấn tình nguyện xin hoạn vào cung làm thái giám để tránh bị phạt xung quân do phạm tội. Anh Tông hủ bại, không màng gì đến việc nước nên Vương Chấn có cơ hội nắm đại quyền về quân sự và chính trị. Năm 1450, y ép nhà vua thân chinh đem nửa triệu quân đi đánh bộ lạc Ngoã Lạt tại vùng Hà Bắc. Do không biết cách dùng binh, Vương Chấn thua trận tại Thổ Mộc Bảo. Vua Anh Tông bị bắt, 25 vạn quân bị giết, Vương Chấn cũng bị các tướng làm binh biến giết chết.

    7. Lưu Cẩn: Hoạn quan dưới triều vua Minh Vũ Tông. Do hầu hạ Vũ Tông từ lúc còn chưa lên ngôi nên Lưu Cẩn rất được nhà vua quý chuộng, phong làm Tư lễ giám, chuyên phê duyệt sớ của các quan tấu trình. Với chức quan đó, Lưu Cẩn giả mệnh hoàng đế tự ý định đoạt mọi công việc trong nước. Dân gian khi đó gọi Lưu Cẩn là “Hoàng đế đứng”, ám chỉ quyền lực của y, để phân biệt với “Hoàng đế ngồi” là Vũ Tông. Lưu Cẩn nắm quyền trong hơn năm năm thì bị một số quan lại phối hợp lật đổ.

    8. Nguỵ Trung Hiền: Hoạn quan dưới triều vua Minh Hy Tông. Mặc dù có cái tên thì rõ hay nhưng họ Nguỵ là một kẻ vô cùng gian hiểm. Đứng đầu cơ quan đặc vụ, y kéo bè kết đảng, mua quan bán tước, làm đủ chuyện xấu xa. Những kẻ hùa theo họ Nguỵ được gọi là “Yêm đảng” (Yêm: thiến, hoạn). Yêm Đảng có vây cánh khắp trong cả nước, tiến hành công kích, hãm hại rất nhiều trung thần. Quyền lực của bản thân Nguỵ Trung Hiền cũng rất lớn, mọi người phải đối đãi với hắn như hoàng đế. Chỉ tới sau khi Hy Tông chết, vua kế tiếp là Sùng Trinh mới trừ khử được y.

    9. Lý Liên Anh: Hoạn quan thời Từ Hy Thái Hậu nhà Thanh. Là đại thái giám được Từ Hy tin cẩn, Lý Liên Anh có quyền sinh quyền sát rất lớn. Từ vương tôn, quý tộc cho đến quan lại trong triều không ai dám làm phật ý hắn. Theo lệnh Từ Hy, Lý Liên Anh đã cho giam lỏng vua Quang Tự vì ông này có ý định cùng với một số nhà cải cách như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu cải tổ lại chính quyền, trái với quan điểm lãnh đạo đất nước của Từ Hy Thái Hậu.
    Sử gia nổi tiếng Trung Quốc Tư Mã Thiên thời Tây Hán từng bị khép tội “phủ hình” (hoạn).


    Tiếp theo là các vị hoạn quan nổi tiếng của Việt Nam: Việt Nam ít có các thái giám làm loạn triều chính như bên Tàu, trái lại, tuy không nhiều nhưng 3 vị danh thần khá nổi tiếng xuất thân từ hàng yêm hoạn

    1. Thái Úy Lý Thường Kiệt: tên thật là Ngô Tuấn, con ông Ngô An Ngữ và bà họ Hàn. Được vua ban Quốc tính đổi thành Lý Thường Kiệt. Là một vị tướng tài ba, nổi tiếng với những chiến thắng trước quân Chiêm và Tống. Được phong Thái úy. Bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà (được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta) tương truyền là của ông.

    (Đọc ông ni lại nhớ hồi ở Huế, bọn nhóc ăn rồi cứ đố "Lý Thuờng Kiệt sinh năm mô?"... Lại còn cả chuyện "tranh luận" với TN Lý Thường Kiệt có thật là hoạn quan hay không, N. thì khăng khăng không nhưng mình thì lại cứ bảo là có, trong bài "Các hoạn quan trong cung đình xưa" cũng có đề cập chuyện ni, lại cả mẹ kể cũng có... Hix...)

    2. Người hoạn quan thứ hai cũng rất tiếng tăm là Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc làm quan dưới đời vua Lê Hiển Tông, đã cùng Phạm Đình Trọng dẹp yên hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Danh Phương, khi về hưu được phong làm Quốc lão. Về sau ông đem đại quân đánh vào Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan rồi trấn thủ Thuận Hóa (vùng đt t Qung Bình đếnđèo Hải Vân), đưc phong tước Vip Qun Công, chấm dứt một giai đoạn phân tranh Nam – Bắc kéo dài hơn 200 năm.

    (Nỏ biết ông ni:d)

    3. Lê Văn Duyệt: Ông này là 1 trong những khai quốc công thần của Gia Long, từng nhiều lần đánh nhau với quân tây Sơn. Dưới Thời nhà nguyễn ông giữ chức vụ gần như đứng đầu các quan và từng làm tổng đốc Hà Nội. Dưới thời vua Minh mạng ông có 1 số hành vi kiêu ngạo nên bị vua Minh Mạng ghét. Lúc ông chết người con nuôi là Lê Văn khôi khởi nghĩa chống nhà Nguyễn bị thất bại. Ông dù chết rồi nhưng vẫn bị kể tội rồi san phẳng mộ. Sau dưới thời tự đức ông lại được phục hồi danh dự và tước vị. Lê Văn Duyệt tuy cũng xuất thân hoạn quan nhưng ông bản chất là người ái nam ái nữ chứ không phải tự thiến để thành quan thị như Việt Quốc công Lý Thường Kiệt hay Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc. Hiện nay tại Bà Chiểu, Gia Định vẫn là một đền thờ ông được dân chúng chiêm bái gọi là Lăng Ông.

    (Hix... Không hiểu sao không ưa nổi ông ni, từ cái hồi đọc chuyện về triều Nguyễn, hơ:()

    \^o^/ thích bài này.
  2. Trầm Tích Thành viên tích cực

    Ở Việt Nam, hoạn quan được ghi nhận là có từ thời nhà Lý, đến triều Nguyễn, hoạn quan được chia làm năm trật:

    - Quản vụ Thái giám và Điển sự Thái giám.
    - Kiểm sự Thái giám và Phụng nghi Thái giám.
    - Thừa vụ và Điển nô Thái giám.
    - Cung sự và Hộ nô Thái giám.
    - Cung phụng và Thừa biện Thái giám.


    Việc kén chọn hoạn quan ưu tiên tuyển những trẻ em "ái nam ái nữ" do lệnh của triều đình. Người dân nào sinh con có khuyết tật đó được quan sở tại tới khám xét rồi làm sớ tâu lên. Cha mẹ đứa bé sẽ nuôi con đến lúc 13 tuổi, sau đó Bộ Lễ sẽ đưa vào cung tập sự hoạn quan. Làng nào có hoạn quan tiến cử được miễn binh lính, phu phen tạp dịch và cả sưu thuế. Nếu không có đủ số trẻ ái nam ái nữ, thanh niên nào tự nguyện thiến bộ phận sinh dục sẽ được tuyển chọn. Tuy nhiên, thái giám Việt Nam chỉ là một số nhỏ không được trọng vọng lại chỉ được làm những việc lặt vặt chưa thành hẳn một tầng lớp có ảnh hưởng như Trung Hoa. Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, thái giám không được dự vào phẩm hàm hay quan chức triều đình và chỉ được hầu hạ trong cung mà thôi, cũng có thể nhà vua không muốn xảy ra việc hoạn quan chuyên quyền như Trung Hoa hay vì đố kỵ với Tả quân Lê Văn Duyệt trong vụ nổi loạn thành Phiên An. Tấm bia khắc là toàn văn bản dụ này nay vẫn còn trong Văn Miếu, Huế. Thái giám cũng có riêng một nghĩa trang trong khuôn viên chùa Từ Hiếu, cách Huế khoảng 1 km theo hướng tây nam và vì thế chùa này còn được gọi là chùa Thái Giám.

    Trong một số thời kỳ, nước Việt phải đem cống sang Tàu một số người tài giỏi, sau đó bị trở thành hoạn quan. Theo Hoàng Minh thông ký, một hoạn quan người Việt là Nguyễn An đã vẽ kiểu tu tạo thành Bắc Kinh bao gồm 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng nhà trạm. Ông làm quan trải năm đời vua triều Minh là: Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông, và Cảnh Tông, tính tình liêm khiết rất đáng kính trọng.
  3. [W]ind Thành viên chăm ngoan

    Lý Thừong Kiệt mà hoạn quan á :d
    ông Ngụy Trung hiền thì coi phim Thiên Hạ mới thú, cái đoạn ông ý bị tước quan. Cái bỏ trong cái bình sứ gọi là gì nhờ.. Thiên Căn thfi phải :(
  4. \^o^/ Thành Viên Danh Dự

    Hơ, đọc bài ni của babe mới biết Lý Thường Kiệt là hoạn quan tề! Đọc xong thấy chưa tin lắm, lên Google search thử thì tìm được thêm những thông tin thú vị sau:
    Như vậy Lý Thường Kiệt tên thật là Quách Thường Kiệt chứ có phải là Ngô Tuấn như babe nói mô hè?:-?
    Trầm Tích thích bài này.
  5. Trầm Tích Thành viên tích cực

    Hix... Theo như sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" của Babe thì tên Ngô Tuấn mà... Hix... Cho thằng ku Bông mượn mà chưa đòi được chứ nếu không thì đem lên tận nhà cho chị iu coi;));))

    Babe cũng search và nó ra nì...
    Ông Quách Thường Kiệt của chị với Ngô Tuấn của Babe có quê quán với năm sinh cũng khác nhau luôn:-?:-?:-?... Chỉ được cái sau ni đều là Lý Thường Kiệt;)), danh tướng thời Lý;))... :)):)):))
    Tưởng mình nhớ nhầm, lò dò đi check lại... Hơ...
  6. Adv Thành Viên Danh Dự

    Bạn nào coi: [2010] The Myth - (Thần thoại) cũng có hư cấu về ông này... Đọc cái này thấy có điểm giống!
  7. Tiêu Tương Phi Tử Thành viên


    Hờ... Tư Mã Thiên ghi trong Sử ký rành rành ra rứa... Hư cấu kiểu chi cũng từ một cái lõi chung... Không có điểm giống mới lạ... :d
  8. Adv Thành Viên Danh Dự

    Em coi chưa mà phát biểu thế.....:>
    Cả đoạn tóm tắt chỉ có:
    là giống thoai!
  9. mr Mai Cần thuê một <3 thế chấp cả cuộc đời

    Thấy hoạn quan trung quốc thâm hiểm toàn muốn chiếm ngôi thao túng quyền hành, còn hoạn quan Việt Nam thì tôi trung lo cho nước cho dân.
    nguyenlephongTrầm Tích thích bài này.
  10. Tiêu Tương Phi Tử Thành viên


    Ax... Thật sự thì em chưa coi... Nhưng mờ anh nói có điểm giống, thì em đồng ý tất nhiên có điểm giống... Chớ có nói chi nhiều mô mà bảo phát biểu rứa là phát biểu răng? Trong lịch sử nó như thế, làm phim, viết truyện, muốn lấy cái nào thì lấy tùy theo nội dung của phim hay truyện chớ..
    Đọc Sử ký Tư Mã Thiên, trong phần viết về Tần Thủy Hoàng ý, nó mô tả đoạn ni khá sinh động... Lời Triệu Cao bàn với Hồ Hợi, rồi nói với Lý Tư thế nào v.v...
  11. Nguyễn Văn Vỹ Thành viên

    Lý Thường Kiệt
    Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, ông tên thật là Ngô Tuấn (吳俊), là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập–hoàng tử trưởng của Ngô Quyền, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Có tài liệu lại nói quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay).

    Tuy nhiên, theo văn bia Đỗ Anh Vũ (được cho là soạn vào năm 1159) thì ông vốn họ Quách, tổ tiên là người ở Lũng Tây (Cam Túc, Trung Quốc). Thân phụ ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông, quê ở huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), được vua ban quốc tính, vì mới có tên là Lý Thường Kiệt. Cha của Đỗ Anh Vũ gọi Lý Thường Kiệt là cậu ruột.

    Sử sách Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát
    Trầm Tíchvõ thế anh thích bài này.

Chia sẻ trang này