Làng cổ Bích La

Thảo luận trong 'Triệu Phong' bắt đầu bởi mr Mai, 19/7/10.

  1. mr Mai Cần thuê một <3 thế chấp cả cuộc đời

    Làng cổ Bích La- Quảng Trị[FLOATRIGHT][IMG][/FLOATRIGHT]
    - vùng đất “Địa linh,nhân kiệt”, “lò đúc hiền tài,nôi sinh sĩ tử”!
    - quê hương Tổng bí thư Lê Duẫn và nhiều nhân tài khác của đất nước.


    Trong khu miếu thờ cổ kính tại làng Bích La đông (xã Triệu Đông tỉnh Quảng Trị) có một số bản Thần phả, Sắc phong từ đầu triều Nguyễn được dân làng lưu giữ cẩn thận. Tuy nhiên đây là những cổ vật bằng chữ Hán nên cũng ít người biết tường tận. Năm 2005, ông Lê Nguyễn Lưu, nhà nghiên cứu Hán nôm ở Huế đã đọc và dịch bản Thần phả : ”Quảng Trị tỉnh, Triệu phong phủ, Bích La xã, khai khẩn tôn thần sự trạng”, đây là cứ liệu lịch sử quý hiếmgiúp cho hậu thế biết thêm về nguồn gốc hình thành ngôi làng cổ kính nổi tiếng này.
    Phiên âm: Hoan châu Hoa Duệ nhân, cẩn thực trung hậu, tinh thông binh pháp. Lê triều Thống Nguyên niên gian, hoạn cư Chánh Chưởng Trung Tể. Thì nhân Mạc Đăng Dung tiếm quyền, cô tiên lĩnh mệnh Lê triều cai trị Tân Bình Thuận hóa đẳng xứ, hãn ngự Chiêm Thành. Chiêu mộ dân khẩn hoang điền, lập tổng xã, định thổ tù. Duy thời tùy tòng thập tứ hộ: Cai tổng bá Lê Cảnh Sắc, Lê Văn Tài, Lê Bá Hỉ, Lê Phúc Thiện, Lê Đức Dũng, Dương Đình Cống, Nguyễn Thọ Bình, Lê Thế Toản, Lê Trọng Mưu, Trần Hửu Dực, Phan Định, Phạm Xuân Dương, Hồ Tất, Đặng Xương. Cử Thuận Hóa y xứ kiến lập xã hiệu, danh viết Hoa An xã (ngụy Huệ cải Hoa La, kim triều cải Bích La, phân vi tứ giáp: Đông, Trung, Nam, Hậu) Cập kỳ thu phục cố cương, ứng nghĩa luận công, ích kỳ tri lược, tầm phụng tứ Ích Trí đại tự, phong Doãn Lộc hầu. Cáo lão quy nông, gia tặng viết Chí Đức Đại thần.
    Kị: Chính nguyệt sơ tứ nhật. Bản xã tộc hội trí Hà Dương Hoa châu thổ nhất khoảnh tục xích nhất mẫu dĩ cung kị lạp hương hỏa chi nhu.
    Mộ táng tại bản xã Hà Dương xứ Cồn Đua chi địa, tọa Giáp sơn Canh hướng. Thiên sơn hoàn củng, thủy thủy lai triều. Vạn đại anh hùng, tử tử tôn tôn kế kế thừa thừa vinh hoa phú quý.
    Dịch nghĩa: Ngài người xã Hoa Duệ, xứ Hoan Châu, tính cẩn thận, thành thật và trung hậu, thông thạo phép dùng binh. Khoản niên hiệu Thống Nguyên nhà Lê, ngài làm Chánh Chưởng Trung Tể. Bấy giờ, Mạc Đăng Dung lộng quyền, cho nên ngài vâng mệnh triều Lê vào cai quản xứ Tân Bình- Thuận Hóa để phòng chống Chiêm Thành. Ngài chiêu mộ dân lưu tán, khai khẩn ruộng hoang, lập thành tổng xã, dẹp yên địa phương. Đi theo Ngài có 14 hộ: Cai tổng bá Lê Cảnh Sắc, Lê Văn Tài, Lê Bá Hỉ, Lê Phúc Thiện, Lê Đức Dũng, Dương Đình Cống, Nguyễn Thọ Bình, Lê Thế Toản, Lê Trọng Mưu, Trần Hửu Dực, Phan Định, Phạm Xuân Dương, Hồ Tất, Đặng Xương.
    Tại nơi đây của xứ Thuận Hóa, ngài lập xã hiệu, đặt tên là xã Hoa An (thời Ngụy Huệ đổi gọi là Hoa La, đến triều hiện nay đổi là Bích La, chia làm bốn giáp: Đông, Tây, Nam, Hậu) Kịp đến khi thu lại đất cũ, xét công lao ứng nghĩa, khôn ngoan mưu lược, Ngài được ban tặng hai chữ lớn “Ích Tri”, phong tước Doãn Lộc hầu, vì cớ già cả xin về làm ruộng được gia tặng “Chí đức đại thần”.
    Giỗ ngày mồng 4 tháng Giêng. Các họ trong xã nhóm họp, lấy một mẫu đất bồi xứ Hà Dương sung làm nhu phí giỗ chạp.
    Mộ chôn tại đất Cồn Đua xứ Hà Dương trong xã, tọa Giáp, hướng Canh, núi non quanh quất, sông nước chầu về, anh hùng muôn thuở, con con cháu cháu giàu sang nối truyền không dứt. (Lê Nguyễn Lưu đọc và dịch).
    Thần phả không ghi niên đại nhưng có thể xác định di bản này được lập đầu triều nhà Nguyễn nhiều khả năng là dưới triều vua Thiệu Trị. Căn cứ vào Thần phả thì quan Chánh Chưởng Trung Tể dưới triều vua Lê Chiêu Tôn niên hiệu Thống Nguyên (1522- 1527) là hậu duệ dòng học Lê Mậu phát sinh từ đầu đời nhà Lê (Hậu Lê) ở xã Hoa Duệ, tổng Mỹ Duệ, huyện Hoa Xuyên tỉnh Nghệ An (Nay là xã Cẩm Duệ thuộc huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh). Hiện ở xã Cẩm Duệ còn di tích lịch sử văn hóa của tỉnh Hà Tĩnh là Tháp Cẩm Duệ, một công trình kiến trúc bằng đá có quy mô lớn được xây dựng từ thời vua Lê Lợi là nơi nhà vua cấp đất để xây mộ phần cho quan thái giám Lê Am (Lê Mậu Am) quê Cẩm Duệ được phong tặng “Thần tổ Tiền đô Thái giám Huyền quan, Bản hửu Lê tướng công Triệu cơ Thận đức Anh tranh Hiển Ứng Đại vương, tước Gia tăng Đoan tức Trung Đẳng Thần”. Vì vậy Tháp Cẩm Duệ còn được gọi là “Am Tháp”.
    Trong khuôn viên Am Tháp còn có mộ phần 2 người em ruột của Lê Am cũng là những vỏ quan có công lớn dưới triều Lê Lợi. Lê Am còn được phong là Phúc thần đương cảnh Thành hoàng làng Phương Cai (Mỹ Duệ). Hàng năm đến ngày 26 tháng 6 âm lịch dân Mỹ Duệ vẫn đến Am Tháp cúng tế Lê Am. Cẩm Duệ chính là nơi nguồn gốc phát sinh dòng họ Lê Mậu[Theo tài liệu của Sở Văn hóa- Thông tin- Bảo tàng Hà Tỉnh thì đã từng có 3 danh nhân họ Lê ở Bích La- Quảng Trị về thăm Cẩm Duệ, dâng hương tại Am Tháp. Đó là:
    1- Tham tri bộ Lễ Tiến sĩ Lê Bá Thoại (ngày17/3/1901- năm Thành Thái thứ 13)
    2- Thượng thư bộ Lễ, Phó bảng Lê Trinh ( 9/7/1905- Thành Thái năm thứ 17).
    3- Tổng Bí thư Lê Duẫn ( ngày 4/4/1979).
    Năm Lê Chiêu Tôn lên ngôi (1522) cũng là năm Mạc Đăng Dung đã thâu tóm quyền lực, vua Lê chỉ là bù nhìn. Quan Chánh Chưởng Trung Tể “họ Lê (Thần phả không nói rõ tên húy, hiện Ngài được biết dưới 2 tên: theo sách khảo cứu Tháp Cẩm Duệ do Sở Văn hóa Thông tin Bảo tàng Hà Tỉnh biên soạn năm 2003 thì quan Chánh Chưởng Trung Tể có tên họ đầy đủ là “Lê Mậu Tài”, song ở Bích La thường gọi tên Ngài là“Lê Mậu Doãn”do tuớc của Ngài là “Doãn Lộc hầu”) cũng vì không muốn cộng tác với Mạc Đăng Dung, Ngài đã lĩnh mệnh vua vào cai quản xử Tân Bình –Thuận Hóa vùng đất biên cương phía Nam giáp giới Chiêm Thành lúc này còn là vùng đất bất an chưa được khai phá. Ngài cùng 14 hộ bộ tướng cùng bầu đoàn thê tử nam tiến, dọc đừong Ngài chiêu tập thêm lưu dân vào nam lập nghiệp.
    Đến năm 1527 Ngài chọn vùng đất xứ Hà Dương phía nam sông Thạch Hãn làm nơi định cư khai khẩn đất hoang lập nên ngôi làng đặt tên là xã Hoa An, thời Tây Sơn đổi tên Hoa La, đến đời vua Thiệu Trị đổi tên là Bích La có 4 giáp: Đông, Tây, Nam, Hậu. (nay thuộc xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị gồm các thôn Bích La Đông, Bích La Trung, Bích La Nam và thôn Nại Cửu). Như vậy làng Bích La hình thành từ năm 1527, ba thập kỷ trước năm Nguyễn Hoàng- Chúa Tiên vào nam, đóng dinh ở Ái Tử- huyện Triệu Phong- Quảng Trị (1558). Từ ngày chúa Nguyễn mở mang vùng đất phía nam Ngài cùng các bộ tướng đã thần phục nhà Nguyễn. Ngài được xét công trạng phong tước Doãn Lộc hầu, “Chí đức đại thần”. Ngài qua đời ngay 4 tháng Giêng (không rõ năm) an táng xây lăng tại Cồn Đua (Cồn Đu) thuộc Bích La.
    Để tôn vinh Ngài Khai khẩn tôn thần và ghi dấu hình thành làng cổ Bích La, dân làng đã xây dựng khu miếu linh thiêng có tường thành bao bọc. Cổng vào khu miếu phía trên có dòng chữ “Sơn thủy Bích La tân”, hai bên có hai câu đối: Địa chung linh khí truyền thiên cổ- Thế xuất anh tài diễn ức niên. Tạm dịch: Non nước Bích La- Đất anh linh có từ ngàn xưa- Đời sinh hào kiệt thời nào cũng có. Bên trong có 11 ngôi miếu: thờ các vị Thần sông, núi, Thần Hoàng, Thần sấm sét, Thần Nông, Thần Dân an, Vật Lợi…Đặc biệt có ngôi miếu thờ Ngài Khai khẩn tôn thần. Bài vị Ngài ghi dòng chữ: Bổn thổ khai khẩn cai tri Phó tướng Doãn Lộc hầu linh tế Dục Bảo Trung Hưng Linh Phò tôn thần. Bên cạnh có miếu thờ 2 vị tiến sĩ đầu tiên của làng là Tiến sĩ Lê Cảnh Diệu và Tiến sĩ Lê Cảnh Phiên. Sách Ô châu cận lục từng ca ngợi: Hoa La là đất văn Nho.
    Qua ngót 500 năm tồn tại, Bích La nổi tiếng là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, ”lò đúc hiền tài- nôi sinh sĩ tử”. Dòng họ Lê ở Bích La gồm 4 nhánh: Lê Mậu, Lê Cảnh (Lê Công) Lê Văn (Lê Hửu) Lê Bá hiện có 4 nhà thờ họ riêng biệt. Mỗi nhánh họ Lê đều tự hào với những danh nhân nổi tiếng của dòng họ mình:
    Lê Mậu có ông Lê Mậu Hiến đứng đầu phong trào đòi dân sinh dân chủ, giảm sưu thuế cho dân thời chống Pháp, tiến sĩ sử học Lê Mậu Hãn được phong danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”;
    Lê Văn có cụ Chánh vệ úy Lê Văn Thống (ông nội TBT Lê Duẩn), Đề đốc Lê Văn Tặng (bác ruột TBT Lê Duẫn) có 6 vị đổ học vị Tiến sĩ, rồi đến cậu học trò Lê Văn Nhuận sau này là Tổng bí thư Lê Duẫn…;
    Lê Cảnh có 2 vị đổ tiến sĩ đầu tiên được làng lập miếu thờ: Lê Cảnh Diệu, Lê Cảnh Phiên, đời Tự Đức có Phó bảng Lê Trinh (nhà thơ Bích Phong- con trai trưởng ông Lê Cảnh Chính, một đại quan triều Minh Mạng) đi sứ Trung Quốc được vua nhà Thanh ban áo mũ Tiến sĩ và danh hiệu Lưỡng quốc Tham mưu, dưới triều Thành Thái- Duy Tận ông sung chức Phụ chính đại thần, Thượng thư bộ Lễ hàm Vinh lộc đại phu, Hiệp biện đại học sĩ, từng được vua Duy Tân ca ngợi: Ngủ triều danh túc, nhất đại biểu nghi (năm triều nức tiếng, một tấm gương sáng cho đời) sau khi qua đời (1909) được truy phong Vệ Nghĩa Tử;
    Lê Bá có tiến sĩ Lê Bá Thoại dưới triều Tự Đức giữ chức tham tri Bộ Lại nổi tiếng là người ngay thẳng dám vạch tội gian thần, danh nhân văn hóa Lê Bá Đảng…Các hậu duệ Lê tộc ở Bích La ngày nay đang viết tiếp truyền thống hiếu học yêu nước của ông cha: Tiến sĩ Sinh học Lê Thị Diệu Muội (con gái TBT Lê Duẫn), tiến sĩ Kinh tế Lê Hồng Tâm (cháu nội đời thứ tư của Phó bảng Thượng thư Lê Trinh), PGS- Tiến Sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn Lê Thanh Bình (Lê Cảnh), Tiến sĩ Toán học Lê Bá Long …
    Một nét đẹp truyền thống còn lưu giữ ở Bích La là phiên Chợ Đình Bích La họp hàng năm vào nữa đêm rạng sáng ngày mồng 3 Tết Nguyên đán hàng năm thu hút đông đảo dân làng và du khách về dự lễ hội. Lễ hội chợ Đình Bích La là dịp để dân làng tưởng nhớ công lao Khai khẩn tôn thần Doãn Lộc hầu (kỵ ngày 4 tháng Giêng) và 14 bộ tướng đi đầu mở mang cơ nghiệp làng Bích La thịnh vượng ngày nay.

    Trúc Diệp Thanh
    Hà Nội mùa Hạ năm Canh Dần (5- 2010)
    p/s: tác giả bút danh là TDT, còn ngoài đời là luật gia- nhà báo Lê Ngân (cháu nội Phó bảng Lê Trinh) Email: trucdiepthanh30@yahoo.com.vn
    Nguồn: sachhiem
    NTT, Next, Thai3 others thích bài này.
  2. huyenanh Thành viên

    Chà bài viết về nơi miềng sinh ra và lớn lên.
  3. NTT Thành viên

    Ko có nơi nào đẹp như quê mình :)
  4. Anh.Hieu Thành viên

    upppp lên cho mọi người biết thêm về Làng Cổ Bích La nào.......
  5. tuaans Thành viên

    Một cuộc bút chiến

    Mở đầu là bài "Địa Linh sinh nhân kiệt" của Ngọc quang trên An ninh thủ đô.
    -----------------------------------
    [IMG]
    Dòng họ Lê Văn có 6 tiến sĩ
    Làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, quê hương của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn là vùng đất địa linh nhân kiệt. Trưởng làng Bích La Đông - ông Lê Văn San, thắp hương tổ tiên và các vị thần, tiến sĩ được làng thờ phụng. Nén hương đầu tiên tưởng nhớ công đức người khai khẩn, Phó tướng Lê Mậu Doãn.

    Nhận lệnh triều Hậu Lê, năm 1527 Phó tướng Lê Mậu Doãn vào Thuận Hoá khai khẩn đất hoang, lập nên xứ Hoa An, tức là làng Bích La Đông ngày nay. Bích La Đông là làng quê duy nhất Việt Nam có miếu thờ tiến sĩ và những người có công với nước. Miếu thờ nằm sát đình làng. Ngoài bia ghi danh Phó tướng Lê Mậu Doãn, miếu còn thờ nhiều vị tiến sĩ, trong đó có Tiến sĩ Lê Cảnh Diệu và Tiến sĩ Lê Cảnh Phiên, những người con đầu tiên của làng thi đỗ học vị cao nhất. Từ xưa, Dương Văn An đã ngợi ca truyền thống hiếu học của Bích La trong sách Ô châu cận lục: “Hoa La là đất văn nho”.

    Chỉ tính riêng họ tộc Lê Văn của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã có 6 tiến sĩ. Người đầu tiên của họ tộc Lê Văn thi đỗ đạt cao là Tiến sĩ Lê Văn Nhượng, Tiến sĩ Lê Văn Chân, Tiến sĩ Lê Văn Nhiếp. Khoa thi cuối của triều Nguyễn có ông Lê Văn Tăng, bác ruột của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, đỗ Phó bảng và ông Lê Văn Lương đỗ Tiến sĩ...

    [IMG]
    Thế hệ trẻ làng Bích La Đông quyết không hổ danh với cha ông

    Lớn lên trên mảnh đất có truyền thống hiếu học nên cậu học trò Lê Văn Nhuận (tên khai sinh của đồng chí Lê Duẩn) sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, thoát ly quê nhà từ tuổi hai mươi, tham gia Hội Thanh niên cách mạng năm 1928 và năm 1930 đồng chí Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi trở thành người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đã là lãnh đạo cao nhất của Đảng, dù bận rộn với trăm ngàn công việc, nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn luôn nặng tình thiết tha với quê hương, sắp xếp thời gian để về thăm quê nội Bích La Đông.

    Yêu nước
    Có một nghĩa cử cao đẹp, thanh liêm của những người đi trước mà dân làng Bích La Đông đến hôm nay vẫn còn tự hào. Đó là, sau khi đỗ đạt, có chức tước cao, được các triều đình ban cho nhiều ruộng đất, của cải nhưng các vị quan người làng Bích La Đông không một ai lấy làm của riêng, đều sung vào của công. Dân làng còn lưu truyền câu chuyện công minh của một vị quan là người con của làng. Tham tri Lê Bá Thoại, đỗ tiến sĩ dưới thời nhà Nguyễn, giữ đến chức Thượng thư Bộ hình. Trước bá quan văn võ triều đình, ông thẳng thắn vạch thói kiêu căng, hách dịch của một quận công, rồi xin từ quan, về nhà làm ruộng, trọn đời chu toàn nhân phẩm.

    Học giỏi, thi đỗ đạt cao, người làng Bích La Đông còn có truyền thống trung quân, ái quốc. Ông Lê Đăng Doanh, một người con của làng làm quan dưới thời vua Nguyễn, là người văn võ song toàn, từng làm Chính chủ khảo nhiều kỳ thi Hương. Ông từng được phong “Hiệp biện đại học sĩ ” dưới triều vua Thiệu Trị. Do có công dạy dỗ bốn đời vua liên tiếp nên khi mất ông được vua ban tặng nghi lễ cao nhất: “Nhất lão nghi hình thiên hạ tắc/ Tứ triều thạc phụ đế vương tôn”. Hai câu đối này đến bây giờ con cháu của làng Bích La Đông vẫn thuộc lòng.

    Từ khi đất nước thống nhất đến nay, làng Bích La Đông đã có thêm hàng chục tiến sĩ, giáo sư hàng đầu. Họ có mặt khắp năm châu bốn biển, đó là Tiến sĩ Toán học Lê Bá Long, Tiến sĩ Sinh học Lê Thị Diệu Muội (con gái cố Tổng Bí thư Lê Duẩn), Tiến sĩ Hoá học Nguyễn Từ, Hoạ sĩ lừng danh thế giới Lê Bá Đảng đang ở châu Âu, Tiến sĩ Nguyễn Giang Thạch ở châu Úc… Những người này đã đóng góp nhiều công sức trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước.

    Huyền tích con rùa
    Hơn ai hết, dân làng nhận thức được một điều, một làng quê cũng như một con người sẽ chẳng còn là mình khi ngủ quên với dĩ vãng vàng son. Thế hệ học trò làng Bích La Đông hôm nay luôn nung nấu ý chí sống phải có ý nghĩa để không hổ danh với quá khứ nổi tiếng của làng do cha ông mình dày công tạo lập. Các bậc phụ huynh trong làng dù nghèo đến đâu cũng ráng nuôi con ăn học.

    Trưởng làng Bích La Đông - Lê Văn San cho biết: “Người làng Bích La Đông làm nông nghiệp, không giàu nhanh như buôn bán thương nghiệp. Nhưng dân làng luôn tự hào về truyền thống của cha ông nên họ luôn vượt qua được mọi khó khăn gian khổ. Làm sao để cho con em mình được ăn no, học giỏi là điều dân làng quan tâm nhất”. Nhiều gia đình trong làng đã đầu tư cho con em mình học hành có chiều sâu, mua máy vi tính kết nối internet. Hiện tại cả làng nông nghiệp này có hơn 100 máy vi tính phục vụ việc học hành cho các em.

    Nhiều người nói rằng, học sinh làng Bích La Đông học giỏi, thi đỗ đạt cao vì đình làng nằm trên lưng một con rùa. Tương truyền rằng, mỗi năm, con rùa thức giấc một lần để kiểm tra con cháu của làng trong năm qua học hành, ăn ở như thế nào.

    Nhưng trong ký ức của người dân Bích La Đông, có một lần con rùa không thức dậy, nên năm ấy trong làng gặp nhiều chuyện không may. Sợ rùa thiêng ngủ quên, các lão làng nghĩ ra diệu kế, hàng năm, vào sáng mồng 3 Tết Âm lịch, tất cả dân làng tập trung về đình làng dùng chiêng trống, mõ khua vang và họp chợ đầu năm, để đánh thức rùa dậy đón Tết cùng bà con.

    Đây là phiên chợ đầu năm độc đáo nhất Việt Nam, mỗi năm chỉ họp một lần từ 3h đến 6h mùng 3 Tết. Không phải người đi chợ nào cũng mua, bán, mà chủ yếu đến chợ để chào hỏi nhau, chúc nhau năm mới gặp nhiều điều may mắn.

    Các cô tú, cậu tú cũng thức dậy sớm để có mặt tại phiên chợ thức rùa cầu may. Bà con đến chợ vui các trò chơi dân gian là chủ yếu. Những thứ được bày bán trong phiên chợ đầu năm chỉ có hoa trái đầu mùa hái từ vườn nhà. Khi chợ đã vãn, con rùa làm bằng gỗ được kéo lên từ dưới hồ nước trước đình làng bơi nổi trên mặt nước để du khách chiêm ngưỡng, mong năm mới vạn sự cát tường.
    Ngọc Quanghttp://www.anninhthudo.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=67410&ChannelID=92
  6. tuaans Thành viên

    Một cuộc bút chiến (tiếp theo)
    ----------------------------------
    Có làng tiến sĩ Bích La Đông không hay người đời đã mặc áo gấm cho lịch sử? (Khải Mông)

    Khi đọc Phóng sự “Địa linh sinh nhân kiệt” của tác giả Ngọc Quang trên báo An ninh Thủ đô ra ngày Thứ Bảy, 30-01-2010 (http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=67410&ChannelID=92) rất thích thú khi biết thêm thông tin về làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, là vùng đất địa linh nhân kiệt, là làng Tiến sĩ, “Lò sinh quan, nôi sinh sĩ tử”… Bài báo cho biết:

    “Miếu thờ nằm sát đình làng. Ngoài bia ghi danh Phó tướng Lê Mậu Doãn, miếu còn thờ nhiều vị tiến sĩ, trong đó có Tiến sĩ Lê Cảnh Diệu và Tiến sĩ Lê Cảnh Phiên, những người con đầu tiên của làng thi đỗ học vị cao nhất…
    [IMG]
    Chỉ tính riêng họ tộc Lê Văn làng Bích La Đông đã có 6 tiến sĩ. Người đầu tiên của họ tộc Lê Văn thi đỗ đạt cao là Tiến sĩ Lê Văn Nhượng, Tiến sĩ Lê Văn Chân, Tiến sĩ Lê Văn Nhiếp. Khoa thi cuối của triều Nguyễn có ông Lê Văn Tăng, bác ruột của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, đỗ Phó bảng và ông Lê Văn Lương đỗ Tiến sĩ...

    (…) Dân làng còn lưu truyền câu chuyện công minh của một vị quan là người con của làng. Tham tri Lê Bá Thoại, đỗ tiến sĩ dưới thời nhà Nguyễn, giữ đến chức Thượng thư Bộ hình. Trước bá quan văn võ triều đình, ông thẳng thắn vạch thói kiêu căng, hách dịch của một quận công, rồi xin từ quan, về nhà làm ruộng, trọn đời chu toàn nhân phẩm.

    Học giỏi, thi đỗ đạt cao, người làng Bích La Đông còn có truyền thống trung quân, ái quốc. Ông Lê Đăng Doanh, một người con của làng làm quan dưới thời vua Nguyễn, là người văn võ song toàn, từng làm Chính chủ khảo nhiều kỳ thi Hương. Ông từng được phong “Hiệp biện đại học sĩ ” dưới triều vua Thiệu Trị. Do có công dạy dỗ bốn đời vua liên tiếp nên khi mất ông được vua ban tặng nghi lễ cao nhất: “Nhất lão nghi hình thiên hạ tắc/ Tứ triều thạc phụ đế vương tôn”. Hai câu đối này đến bây giờ con cháu của làng Bích La Đông vẫn thuộc lòng”
    .

    Với từ khóa “Làng Bích La Đông” tôi ra cứu trên Google được bài viết: “: Làng nổi tiếng “Nôi sinh sĩ tử” (Làng Bích La - Quảng Trị) http://www.phahe.vn/Knowledge_Detail.aspx?ContentID=5265) của tác giả Minh Tứ(được chú thích dẫn nguồn là theo báo Văn nghệ) viết như sau:

    “Qua bao biến thiên của lịch sử với gần 5 thế kỷ lập làng, người Bích La vừa chống chọi với thiên tai, vừa đấu tranh chống địch hoạ, đã hình thành nên một bề dày truyền thống tốt đẹp. Trước hết, đó là truyền thống làng có nhiều người đỗ đạt khoa bảng. Ngay tại khu miếu thờ của làng có thờ hai vị Tiến sĩ vào thời Lê, đi theo Cai tri Phó tướng Doãn Lộc Hầu: Tiến sĩ Lê Cảnh Diệu và Tiến sĩ Lê Cảnh Phiếu. Còn theo gia phả các tộc họ trong làng thì làng có nhiều người đỗ đạt tiến sĩ trở lên dưới Triều Nguyễn như Tiến sĩ Lê Mậu Cúc, Lê Thuỵ, Lê Hữu Thường... Chỉ tính riêng tộc họ Lê Văn của đồng chí Lê Duẩn, thời đó đã có 5 vị: Tiến sĩ Lê Vãn Nhượng đỗ khoa Đinh Dậu (1837); Tiến sĩ Lê Vãn Chân đỗ khoa Tân Sửu (1841); Tiến sĩ Lê Vãn Nhiếp đỗ khoa Mậu Tý (Đồng Khánh 3). Khoa cuối cùng của Triều Nguyễn có ông Lê Vãn Tặng (bác ruột của đồng chí Lê Duẩn) đỗ Phó bảng và ông Lê Vãn Lương đỗ Tiến sĩ. Nhiều người đỗ cử nhân, tú tài... làm nên bảng vàng truyền thống khoa bảng của các tộc họ trong làng, nêu gương muôn đời cho hậu thế.
    Nói đến Bích La, người ta còn nói đến mảnh đất của nhiều danh nhân, có truyền trống phò nước giúp dân. Theo Đại Nam Chính Biên liệt truyện (Nxb Thuận Hoá - 1993), ông Lê Đăng Doanh, tự là Lê Văn Doanh, người Bích La làm quan dưới thời Gia Long, là người văn võ song toàn, từng làm Chánh chủ khảo nhiều kỳ thi Hương, từng cầm quân đánh dẹp quân Xiêm ở Nam Kỳ. Khi về giữ chức Bố Chính sứ Quảng Trị thấy dân tình đói kém ông đã dâng sớ xin Vua miễn thuế cho dân và được Vua chấp nhận (năm thứ 17 triều Minh Mạng). Ông đã từng được thăng Hiệp Biện Đại học sĩ dưới triều Thiệu Trị thứ nhất (1481), có công dạy bốn đời Vua nên khi mất được Vua ban tặng nghi lễ cao nhất: Nhất lão nghi hình thiên hạ tắc/Tứ triều thạc phụ đế vương tôn”
    .

    Phải nói thực lòng rằng, ban đầu khi biết những thông tin này, tôi rất lấy làm thích thú (tuy có hơi phân vân một chút về một số chi tiết chưa rõ ràng trong hai bài viết trên và tình trạng viết bài của một số nhà báo hiện nay) và ghi vào sổ tay. Nhưng sau đó, trong quá trình nghiên cứu về giáo dục và thi cử thời phong kiến, đặc biệt qua cuốn “Các nhà khoa bảng Việt Nam” do Ngô Đức Thọ (chủ biên) với sự cộng tác của Nguyễn Thúy Nga và Nguyễn Hữu Mùi (nhà xuất bản Văn học 2006, tái bản, có bổ sung chỉnh lý), tôi đã rất bất ngờ và hụt hẫng về những thông tin qua các bài viết này!

    Trước hết, với hai vị Tiến sĩ Lê Cảnh Diệu và Tiến sĩ Lê Cảnh Phiên (hay Phiếu), được coi là những người khai khoa đỗ học vị cao nhất thì đều không có tên, mà chỉ có tên Tiến sĩ Lê Cảnh Trinh, người xã Lôi Xá, huyện Cẩm giàng nay là thôn Lai Xá, xã Đức Chính, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, thi đỗ Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484) ở thế kỷ XV; trong khi đó làng Bích La Đông được hình thành vào năm 1527, do phó tướng Lê Mậu Doãn nhận lệnh triều Hậu Lê vào xứ Thuận Hóa khẩn hoang, lập nên, lại ở thế kỷ XVI!

    Còn với 5 (hay 6) vị Tiến sĩ dòng họ Lê Văn thì Tiến sĩ Lê Vãn (hay Văn) Nhượng đỗ khoa Đinh Dậu (1837) thì vừa không có tên Tiến sĩ và vừa không có khoa thi năm Đinh Dậu (1837), mà chỉ có khoa thi năm Mậu Dần (1838) niên hiệu Minh Mệnh 19, với 20 vị Tiến sĩ và Phó bảng từ Đình nguyên Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) Nguyễn Cửu Trường (1808 – 1853), cuối cùng là Phó bảng Nguyễn Xuân Bảng (1812 - ?). Đây là khoa thi với nhiều vị danh sĩ như Hoàng giáp Phạm Văn Nghị (1805 – 1880), Tiến sĩ Đinh Nhật Thận (1814-1866), Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) tức Thần Siêu.

    Về Tiến sĩ Lê Vãn (hay Văn) Chân đỗ khoa Tân Sửu (1841) thì khoa thi năm Tân Sửu (1841) niên hiệu Thiệu Trị 1 với 15 vị Tiến sĩ, Phó bảng, không có ai tên Lê Vãn (hay Văn) Chân. Trong “Các nhà khoa bảng Việt Nam” có ghi tên Tiến sĩ Lê Văn Chân nhưng là người xã Trà Lam, huyện Phù Nghĩa, tỉnh Bình Định – Nay là ấp Trà Lương, xã Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và thi đỗ Tiến sĩ vào năm Ất Mùi (1835) niên hiệu Minh Mệnh 16.
    Về Tiến sĩ Lê Vãn (hay Văn) Nhiếp đỗ khoa Mậu Tý (Đồng Khánh 3): Trong “Các nhà khoa bảng Việt Nam” không thấy ghi vua Đồng Khánh có mở khoa thi Tiến sĩ, mà chỉ có khoa thi năm Kiến Phúc 1 (1884), rồi đến khoa thi năm Thành Thái 1 (1889).

    Khoa cuối cùng của Triều Nguyễn có ông Lê Vãn (hay Văn) Tặng (hay Tăng) đỗ Phó bảng và ông Lê Vãn (hay Văn) Lương đỗ Tiến sĩ: cả hai đều không có. Riêng đối với khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn, cũng là của lịch sử hơn 800 năm khoa cử phong kiến Việt Nam chấm dứt, tôi xin dẫn cụ thể một văn bản gần với chúng ta nhất mà thế hệ những người Việt Nam đã mất gốc Hán văn (như tôi) đều có thể đọc được vì viết bằng chữ Quốc ngữ và độ tin cậy vào bậc nhất vì đó là trên báo chí Quốc ngữ đương thời (năm 1919):

    Theo Nam Phong tạp chí số 24 (tháng 6 năm 1919) cho biết, khoa thi Hội cuối cùng trong lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam là vào năm Kỷ Mùi niên hiệu Khải Định năm thứ tư (1919). Diễn biến cụ thể của khoa thi này như sau:
    Ngày thi: 1-4-1919
    Ngày ra bang trúng cách: 28-4-1919
    Ngày 15-5-1919 thi Đình
    (…) Kỳ thi này lấy đỗ 7 ông Tiến sĩ, 16 ông Phó bảng.
    Nam Phong tạp chí in đầy đủ danh sách 7 ông Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (Tiến sĩ) từ Nguyễn Phong Gi (ký lục tòa Khâm sứ; làng Nguyệt Viên, tổng Từ Quang, huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, 31 tuổi) đến Dương Thiệu Tường (Cử nhân; làng Vân Đình, tổng Phương Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, 25 tuổi). Trong số 7 ông Tiến sĩ khoa thi cuối cùng này, có 2 người Thanh Hóa, 1 người Nam Định, 1 người Hà Tĩnh, 1 người Thừa Thiên, 1 người Quảng Bình và 1 người Hà Đông. Không có ai ở Quảng Trị. Có 1 vị Tiến sĩ họ Lê, tên là Lê Văn Kỷ, 28 tổi vốn là Cử nhân Hán học, giữ chức Kinh đô thái y viện y phó; nhưng lại là người làng Cổ Ngu, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh!

    Còn 16 ông Phó bảng từ Nguyễn Xuân Đàm (Tú tài, giáo sư, Hàn lâm viện đãi chiếu; làng Đông Lãm, tổng Nga Khê, huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, 31 tuổi) đến Hoàng Yến (Tu soạn sung hình chính hội lý tòa phán sự, Cử nhân; làng Minh Hương, tổng Vĩnh Trị, huyện Hương Trà, phủ Thừa Thiên, 31 tuổi). Trong số này có 4 người ở Nghệ An, 3 người ở Thừa Thiên, 2 người ở Hà Tĩnh, 2 người ở Thanh Hóa, 2 người ở Quảng Nam, 1 người ở Quảng Trị, 1 người ở Khánh Hòa, 1 người ở Quảng Bình. Có 1 người ở Quảng Trị, họ Lê, là Phó bảng Lê Nguyên Lượng 25 tuổi vốn là Hậu bổ trường Cử nhân nhưng quê ở phường Xuân Thành, tổng An Mỹ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị!

    Tiếp theo, xin nói về “Tham tri Lê Bá Thoại, đỗ tiến sĩ dưới thời nhà Nguyễn, giữ đến chức Thượng thư Bộ hình”. Tham tri là chức quan to, tương đương hàm Thứ trưởng Thường trực hiện nay, lại đỗ Tiến sĩ – tuy có không rõ ràng vào năm nào triều Nguyễn, nhưng trong “Các nhà khoa bảng Việt Nam” cũng không thấy có tên.

    Tôi có dịp trao đổi với PGS Ngô Đức Thọ, người chủ biên cuốn “Các nhà khoa bảng Việt Nam”, rằng liệu khi làm sách những người biên soạn có lỡ may bỏ quên vài vị Tiến sĩ trong cả nước hay không? PGS Ngô Đức Thọ cho biết, những người biên soạn đã tra cứu rất cẩn thận, kỹ lưỡng, rà soát trong tất cả các thư tịch, văn bia, tài liệu khắp trong cả nước, từ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Đại Việt Sử ký tục biên, Đăng khoa lục, Lịch triều Hiến chương loại chí, Đại Nma thực lục (chính biên), Đại Nam chính biên liệt truyện, Quốc triều khoa bảng lục, Nghệ An ký, Quảng Bình khoa lục, Bắc Ninh địa dư, Từ Liêm đăng khoa lục, Vũ tộc khoa hoạn chí… nên “Các nhà khoa bảng Việt Nam” không thể bỏ sót một ai!

    Xin bàn tiếp đến “ông Lê Đăng Doanh, tự là Lê Văn Doanh, người Bích La làm quan dưới thời Gia Long, là người văn võ song toàn, đã từng được thăng Hiệp Biện Đại học sĩ dưới triều Thiệu Trị thứ nhất (1481)”. Có lẽ chính xác thì phải là năm 1841, vì năm 1481 là niên hiệu Hồng Đức thứ 12 đời Lê Thánh Tông. Ông Lê Đăng Doanh lại “có công dạy bốn đời Vua”. Các tác giả đều không nói được ông Lê Đăng Doanh đã dạy dỗ những đời vua nào? Và tuy không rõ năm mất nhưng việc một quan đại thần sống từ đời vua Gia Long dạy 4 đời vua sau đó là chuyện không thể xảy ra. Vì Nếu tính 4 đời vua từ Gia Long (1802-1820), Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847) đến đời Tự Đức (1848-1883) nghĩa là trên 80 năm!

    Trong thế kỷ XX, làng Bích La Đông có hàng chục tiến sĩ, giáo sư ở cả hai chuyên ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội & nhân văn cả trong nước và quốc tế. Trong nước có PGS.NGND Lê Mậu Hãn (chuyên ngành Lịch sử Việt Nam hiện đại), Tiến sĩ Toán học Lê Bá Long, Tiến sĩ Sinh học Lê Thị Diệu Muội (con gái cố Tổng Bí thư Lê Duẩn), Tiến sĩ Hoá học Nguyễn Từ; trên thế giới có Hoạ sĩ Lê Bá Đảng (Pháp), Tiến sĩ Nguyễn Giang Thạch (Austraylia)… đó là điều chúng ta ghi nhận và đáng tự hào. Nhưng việc các vị Tiến sĩ khoa bảng Hán học như thông tin các bài báo đưa trên đây, theo thiển nghĩ của người viết bài này cần phải kiểm chứng lại. Chúng tôi không trách các tác giả viết bài, vì họ chỉ là những người ghi chép thông tin theo lời kể lại, thêm nữa với thời đại công nghiệp hóa bùng nổ thông tin như hiện nay, không có mấy ai còn thời gian mà “cạo” thông tin, giở hết sách này, tra thêm sách kia để khảo chứng. Đó là còn chưa kể đến nhiều người quen dựa dẫm vào “giáo sư Google”, mà vị “giáo sư biết tuốt” này không phải vị tiên chỉ cái gì cũng đúng.

    Viết đến đây, tôi chợt nghĩ, sẽ có người đưa lý luận rằng các vị Tiến sĩ ấy có tên trong gia phả các tộc họ, có tên trong dân gian truyền lại. Vâng, nếu nói theo dân gian thì Trạng Quỳnh cũng là Trạng, Trạng Lợn cũng là Trạng, nhưng Trạng đấy không thể nào có tên trong bia Văn Miếu (Thăng Long – Hà Nội), bia Văn Thánh (Huế) như Trạng nguyên Nguyễn Trực, Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, Tam nguyên Trần Bích San, Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, hay Đình nguyên Thám hoa Vũ Phạm Hàm được đâu ạ, mà chỉ có trong… bia miệng! Dẫu cho “Trăm năm bia đá cũng mòn, nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ” thì “bia miệng” cũng chỉ là để “mua vui cũng được một vài trống canh”, không có sức thuyết phục hơn “bia đá”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc khi điều tra điền dã tại làng Nghè, phường Nghiã Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội có được dân gian truyền lại rằng làng này có ông Nguyễn Kham đỗ Tiến sĩ, nhưng khi ông Nguyễn Vinh Phúc “tìm trong các sách Đăng khoa lục và ngay cả sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam” của nhóm Ngô Đức Thọ (Nxb Khoa học xã hội) thì không có tên” (Nguyễn Vinh Phúc: Mặt gương Tây Hồ - Nxb Trẻ 2004, trang 112). Đã từng có một thời báo chí chẳng đưa tin rầm rộ về cụ cuốn Ngọc phả của một dòng họ nào đấy, mà cuối cùng nó là bản chữ Quốc ngữ, chép tay, trên giấy kẻ ô-ly của học sinh Tiểu học đó sao?

    Những năm 1940, trên Tạp chí Tri Tân, cụ Nguyễn Văn Tố khi phê bình những cuốn sách như “Hai Bà Trưng” của Nguyễn Tế Mỹ... đã hạ bốn chữ thống thiết: “Tai lê họa táo”. Lê và táo là những cây gỗ để khắc bản in đười xưa. Ý cụ muốn nói những cuốn sách sai về cả tư tưởng lẫn tư liệu gây tai vạ cho cả cây gỗ táo, gỗ lê, bởi vì người ta mượn chúng để truyền bá những sai lầm và độc hại.

    Còn “làng tiến sĩ Bích La Đông” hiện nay, phải chăng đã được người đời khoác áo gấm cho lịch sử?/.
    Hà Nội, Nguyên tiêu năm Tân Mão 2011. http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin...-hay-nguoi-doi-da-mac-ao-gam-cho-lich-su.html
    (còn tiếp)

Chia sẻ trang này