Vài nét về con người Hải Lăng và quyết tâm xây dựng Hải Lăng trong thời kỳ đổi mới!

Discussion in 'Hải Lăng' started by duonghoa90, Apr 2, 2011.

  1. duonghoa90 Thành viên

    1. Vài nét về mảnh đất và con người Hải Lăng:

    Vào thời nhà Lê năm 1466, vua Thánh Tông đặt dải đất của Châu Thuận và Châu Hoá thành 2 phủ là: phủ Tân Bình và phủ Triệu Phong thuộc xứ Thuận Hoá. Phủ Triệu Phong gồm có 6 huyện là: Vũ Xương, Đan Điền, Kim Trà, Tư Vang, Điện Bàn và An Nhơn; sau đó huyện An Nhơn được đổi thành Hải Lăng. Từ đây tên gọi Hải Lăng ra đời và gồm có 48 xã.
    Năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hoá. Huyện Hải Lăng vẫn giữ nguyên tên gọi và gồm có 5 tổng.
    Năm 1801, Nguyễn Ánh lấy phủ Triệu Phong lập ra dinh Quảng Trị gồm có 3 huyện: Đăng Xương, Hải Lăng và Minh Linh. Vào thời Gia Long cho đến năm 1827, vua Minh Mạng nối ngôi, dinh lỵ Quảng Trị đóng tại làng Thạch Hãn (Hải Trí-Hải Lăng).
    Năm 1852, Tự Đức đổi huyện Hải Lăng thành phủ Hải Lăng, gồm có các tổng là: An Thái, An Thơ, Văn Vận, Cu Hoan và An Nhơn.
    Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, phủ Hải Lăng đổi thành huyện Hải Lăng, giải thể cấp tổng lập lại cấp xã.
    Thời Mỹ - Diệm chiếm đóng, huyện Hải Lăng đổi thành quận Hải Lăng gồm 22 xã, quận lỵ đóng tại Diên Sanh.
    Năm 1975, quê hương giải phóng, quận Hải lăng đổi thành huyện Hải Lăng, gồm có 22 xã, huyện lỵ đóng tại Diên Sanh.
    Đầu năm 1977 huyện Hải Lăng và huyện Triệu Phong hợp nhất lại thành huyện Triệu - Hải thuộc tỉnh Bình Trị Thiên. Huyện lỵ Triệu - Hải đóng tại thị trấn Quảng Trị.
    Thág 7-1989, tỉnh Quảng Trị được lập lại. Ngày 01/5/1990, huyện Hải Lăng được chia tách ra từ huyện Triệu - Hải và trở lại tên gọi ban đầu, huyện lỵ đóng tại thị trấn Hải Lăng, gồm có 21 xã, thị trấn (tháng 3/2008 xã Hải Lệ sát nhập thị xã Quảng Trị).
    Hải Lăng là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Trị, diện tích tự nhiên 42.692,53 ha, dân số 86.840 nghìn người, có 20 xã, thị trấn, 86 làng, 6 khóm, 102 thôn, 53 HTX, 35 tập đoàn sản xuất.
    Hệ thống sông ngòi phân bổ đều khắp trong huyện: Sông Nhùng, Ô Lâu, Ô Giang bắt nguồn từ đồi núi cao đổ về đồng bằng nối với sông Vĩnh Định. Hải Lăng có bờ biển dài 12 km, chạy theo hướng Bắc-Nam; có biển Mỹ Thuỷ. Hải Lăng là một trong những vựa thóc lớn của tỉnh Quảng Trị.
    Toàn huyện có 75 di tích lịch sử văn hoá và cách mạng được xếp hạng, trong đó, có 2 di tích cấp quốc gia đó là: Đình làng Câu Nhi (Hải Tân) và điểm vụ thảm sát Mỹ Thuỷ; Hai di tích Chàm ở Hải Xuân, Hải Ba; Miếu Ngô Văn Sở ở Hải Vĩnh; Phú Long là nơi diễn ra Hội nghị đại biểu Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị (6/1937), nơi thành lập một trong những Chi bộ ra đời đầu tiên của Đảng bộ huyện Hải Lăng và cũng là căn cứ cách mạng trong thời kỳ dành chính quyền tháng 8/1945; ngã ba Long Hưng ghi lại chiến công của một đại đội quân giải phóng chiến đấu ngoan cường đẩy lùi hàng chục đợt tấn công của Mỹ-Nguỵ trong hơn 81 ngày đêm chúng tái chiếm huyện Hải Lăng và Thành Cổ Quảng Trị năm 1972.
    Văn hoá văn nghệ có nhạc cổ truyền Phú Hải và các trò chơi dân gian khác; văn hoá ẩm thực có bánh ướt làng Phương Lang, rượu gạo Kim Long, nước mắm Mỹ Thuỷ, canh ám làng Lam Thuỷ, cháo bột làng Diên Sanh…
    Hải Lăng còn là quê hương của các danh nhân lịch sử và văn hoá như: Đặng Dung, Tiến sĩ Bùi Dục Tài, Nguyễn Đức Hoan, Nguyễn Văn Hiển, Nguyễn Trừng,..
    2. Truyền thống đấu tranh của Đảng bộ và nhân dân Hải Lăng:
    Ngay từ giữa năm 1930, quân và dân Hải Lăng một lòng, một dạ trung kiên với sự nghiệp cách mạng vẽ vang của Đảng, đã xây dựng và mở rộng lực lượng, bước vào cuộc chiến đấu, mặt đối mặt với quân thù, góp phần cùng cả tỉnh, cả nước từng bước giành thắng lợi trong các cao trào cách mạng 1930-1931; 1936-1939 và dành chính quyền trong toàn phủ vào ngày 23/8/1945.
    Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Quân và dân Hải Lăng đã đem hết tinh thần, lực lượng đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến, giải phóng quê hương vào ngày 07/5/1954. Vượt qua 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng rất anh dũng, kiên cường, cùng với cả dân tộc, quân và dân Hải Lăng tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu mới chống đế quốc Mỹ xâm lược. Là huyện phía Nam tỉnh Quảng Trị, đã trở thành một trong những chiến trường nóng bỏng. Hải Lăng mở đầu phong trào diệt ác phá kềm trong toàn tỉnh từ những năm 1959-1963, dành quyền làm chủ, mở rộng vùng giải phóng 1964-1965. Trong muôn vàn cuộc chiến đấu và chiến thắng, có chiến công tiêu biểu của 8 dũng sĩ Phường Sắn, đã anh dũng chiến đấu đẫy lùi 01 tiểu đoàn địch có xe tăng đại bác yểm trợ, đánh bại các cuộc hành quân càn quét của Mỹ - Nguỵ bảo vệ quê hương.
    Xuân Mậu Thân 1968, hoà cùng tiếng súng của cả miền Nam, quân và dân Hải Lăng phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh, bộ đội chủ lực thọc sâu đánh mạnh vào cứ điểm La Vang, quận lỵ Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và hầu hết các đồn bốt của địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của chúng. Rồi những năm 1969-1970, 1971, địch tăng cường lực lượng liên tiếp càn quét vùng giải phóng, quân và dân Hải Lăng vẫn kiên cường, đánh địch, giữ vững các tuyến hành lang quan trọng của tỉnh, của quân khu; đồng thời góp phần cùng với các đơn vị bộ đội chủ lực, quân và dân toàn tỉnh đập tan cuộc hành quân của Mỹ nguỵ lên đường 9 Nam Lào.
    Đầu tháng 4/1972, khi các binh đoàn chủ lực, cùng với bộ đội địa phương đập nát tuyến phòng ngự kiên cố của địch ở Đông Hà, Ái Tử, thì quân và dân Hải Lăng đã tranh thủ thời cơ hợp đồng chiến đấu, đánh tan cứ điểm La Vang và các đồn bốt từ Mai Lĩnh đến Mỹ Chánh; san bằng các đồn Đa Nghi, Thi Ông, Mỹ Thủy. Trong các cuộc chiến đấu ác liệt ấy nhiều tấm gương tiêu biểu nỗi lên, quên sao được ‘Hoa Quỳnh biển”, nữ Anh hùng liệt sĩ Trần Thị Tâm, người con gái vùng biển Hải Khê; nữ Anh hùng liệt sĩ Lê Thị Tuyết, người con gái Hải Xuân, bị địch bắt tra tấn dã man, dù bị xẻo tai, cắt vú, mỗ bụng, moi gan, nhưng Chị một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng, quyết không khuất phục trước kể thù và biết bao nhiêu người con của quê hương đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Và chính sự hy sinh đó là một phần đóng góp quan trọng của quân và dân Hải Lăng cùng với quân và dân trong tỉnh chiến đấu giải phóng Quảng Trị vào ngày 01/5/1972.
    Ngày 28/6/1972, địch bắt đầu mở cuộc hành quân quy mô lớn để tái chiếm Quảng Trị. Một lần nữa, quân và dân Hải Lăng phải bước vào cuộc chiến ác liệt hơn. Nhiều trận đánh của dân quân du kích, lực lượng vũ trang huyện, bộ đội tỉnh, bộ đội chủ lực, đã diễn ra quyết liệt ở Câu Nhi, Cầu Nhùng, Bến Đá, ở Hải Xuân, Hải Vĩnh, Hải Ba, Hải Phú, Hải Thượng, v.v. Trong đó, ngã ba Long Hưng, điểm chốt phía Nam Cổ Thành Quảng Trị chỉ có đại đội của đồng chí Vũ Trung Thướng đã anh dũng chiến đấu, đẫy lùi hàng chục đợt tấn công cấp tiểu đoàn, trung đoàn thiện chiến của địch. Cũng trong những ngày ác liệt đó, thực hiện chủ trương của trên, Hải Lăng đã đưa 2 vạn dân sơ tán ra vùng giải phóng, dưới làn bom đạn, từ đây nhân dân vừa bám trụ chiến đấu giành lại vùng quê bị tạm chiếm, vừa ra sức xây dựng vùng giải phóng, củng cố sức dân và là hậu phương lớn cho tuyến đầu chống kẻ thù xâm lược. Năm 1972-1975, ba năm ấy, Thạch Hãn như một dòng sông giới tuyến mới tạm thời cho Quảng Trị, nhân dân Hải Lăng khó mà quên được trong tâm hồn mình trước cảnh hai quê, đôi bờ cách trở. Song vẫn vững chí, bền gan, tin tưởng đến ngày thắng lợi cuối cùng.
    Đầu năm 1975, cả miền Nam trong khí thế bừng bừng tiến công, bừng bừng nỗi dậy trên khắp quê hương Quảng Trị đánh tan các đội quân của địch, xoá sạch các đồn bốt, đánh sập 20 phân chi khu, 4 quận lỵ của địch ở Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh, Triệu Phong. Trước sức tấn công bất ngờ, đồng loạt của quân và dân ta, đúng 18 giờ 30' ngày 19/3/1975, huyện Hải Lăng-huyện cuối cùng của tỉnh Quảng Trị đã hoàn toàn giải phóng, góp phần cùng cả nước tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng ngày 19/3/1975, là kết quả hàng chục năm đấu tranh, gian khổ, kiên cường, thể hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập tự do".
    Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, cùng với cả nước, quân và dân Hải Lăng đã viết nên những trang sử hào hùng và oanh liệt; có 234 bà mẹ Việt Nam anh hùng; 3.599 liệt sỹ; 8.018 người có công với cách mạng, người hoạt động kháng chiến, thương binh, bệnh binh và hưởng chính sách như thương binh; nhân dân và LLVTND 15 xã, Công an huyện, Đồn Biên phòng 212 (Mỹ Thuỷ-Hải An) và 7 cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng. Đặc biệt nhân dân và LLVTND huyện Hải Lăng được Nhà nước phong tặng Danh hiệu anh hùng LLVTND (năm 1994).
    3. Xây dựng và phát triển trong thời kỳ đổi mới:
    Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và đổi mới quê hương, truyền thống đó càng được phát huy mạnh mẽ, thể hiện qua 36 năm xây dựng và phát triển, nhất là thời gian kể từ khi huyện Hải Lăng được lập lại (01/5/1990) đến nay.
    Trên lĩnh vực kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2005-2010 là 10,74%. Thu nhập bình quân năm 2010 là 12,81 triệu đồng; giá trị sản xuất bình quân trên ha canh tác đạt 38,7 triệu đồng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng Nông - Lâm - Ngư: 42,9%; CN-TTCN và XD: 20,1%; các ngành dịch vụ: 37%.
    - Sản xuất nông nghiệp đạt những kết quả quan trọng. Tích cực chuyển đổi cây trồng, vật nuôi gắn với các chính sách phát triển kinh tế và ứng dụng khoa học-kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất. Hình thành các vùng chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm có quy mô; nuôi tôm trên cát có hiệu quả; mô hình nuôi đà điểu đang phát triển tốt. Công tác trồng mới, chăm sóc và bảo vệ rừng đạt được nhiều kết quả, tỷ lệ che phủ rừng đạt 46,8%.
    - Công nghiệp, TTCN phát triển khá mạnh. Quy hoạch, xây dựng và thu hút được nhiều dự án đầu tư vào Cụm Công nghiệp - làng nghề Diên Sanh, các Cụm TM-DV ở Hải Thượng, Hải Trường… Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, phong phú, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của nhân dân.
    - Xây dựng cơ sở hạ tầng đạt được những kết quả đáng kể. Nhiều công trình thiết yếu đã được đầu tư xây dựng như: Cao tầng hoá trường học; cơ sở y tế, trụ sở làm việc; các thiết chế văn hoá; bê tông hoá giao thông; kiên cố hoá kênh mương; đê bao chống lũ, đường tránh lũ, cứu nạn, cứu hộ…Hệ thống giao thông được nâng cấp và mở rộng; 100% số hộ dùng điện; Bưu chính viễn thông ngày càng mở rộng, đến nay đã có 5 bưu cục, 17 điểm bưu điện văn hoá xã, có 35.712 máy điện thoại, đạt 41 máy/100 dân.
    - Tổng thu ngân sách địa phương hàng năm tăng, cơ bản đáp ứng nhu cầu chi. Hoạt động Ngân hàng, tín dụng có nhiều đổi mới đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
    Trên lĩnh vực văn hoá- xã hội: Có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Sự nghiệp GD-ĐT được quan tâm đúng mức, cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư xây dựng, chất lượng dạy và học được nâng cao. Công tác xã hội hoá giáo dục và khuyến học ngày càng phát triển. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình khoa học công nghệ mới vào đời sống và sản xuất.
    Công tác khám chữa bệnh cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm. Đẩy mạnh công tác dân số, gia đình và trẻ em. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1% (giảm 0,08%); tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 14,5%. Hoạt động văn hoá-thông tin, thể thao và du lịch có những chuyển biến tích cực. Huyện được công nhận huyện điển hình văn hoá giai đoạn I.
    Công tác chính sách xã hội và giải quyết việc làm, giảm nghèo được thực hiện tốt. Mỗi năm tạo việc làm mới cho khoảng 800 lao động; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 24% xuống còn 12%. Có trên 95% số hộ có nhà kiên cố và bán kiên cố, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên.
    Trên lĩnh vực QP - AN: Quốc phòng - An ninh được tăng cường, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, xây dựng các cụm ATLC-SSCĐ, liên hoàn về an ninh trật tự. Tích cực xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh, đảm bảo chỉ tiêu giao quân hàng năm. Tình hình an ninh trật tự được giữ vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển KT-XH ở địa phương.
    Xây dựng hệ thống chính trị: Công tác Đảng được quan tâm chăm lo củng cố, coi trọng công tác chính trị tư tưởng; kiện toàn bộ máy tổ chức Đảng các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đến nay, Đảng bộ huyện có 57 TCCS Đảng, có 197 chi bộ trực thuộc đảng uỷ với hơn 2.683 đảng viên. Thực hiện tốt CVĐ “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và hành động, có tác dụng tích cực đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
    - Chính quyền các cấp, các ban, ngành đã phát huy vai trò, chức năng trong công tác quản lý, điều hành; sâu sát cơ sở nắm bắt tình hình để xây dựng các đề án, kế hoạch, chương trình gắn với chính sách khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện.
    - Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có những chuyển biến tích cực, gắn hoạt động với thực hiện các mục tiêu KT-XH, đổi mới phương thức hoạt động, tạo nhiều phong trào có hiệu quả đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên, đoàn viên, nâng cao vị trí của tổ chức mình trong đời sống xã hội.
    Với những thành tựu đạt được sau 36 năm, Hải Lăng đã được Thủ tướng Chính phủ tặng Huân chương Lao động hạng Ba và Huân chương Lao động hạng Hai trong thời kỳ đổi mới; huyện được công nhận huyện điễn hình văn hoá giai đoạn I; nhiều ban ngành, đoàn thể, nhiều tập thể, cá nhân được các cấp, các ngành của tỉnh và Trung ương tặng huân huy chương, bằng khen.
    5. Xây dựng Hải Lăng phát triển nhanh, toàn diện và biền vững:
    Phát huy những kết quả đạt được, Đảng bộ và nhân dân huyện Hải Lăng quyết tâm phấn đấu để xây dựng huyện phát triển nhanh, toàn diện và bền vững theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng. Trước mắt tập trung thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2011:
    Về kinh tế: Tập trung mọi nỗ lực phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14-15%, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế; thu nhập bình quân đầu người 16,11 triệu đồng; phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 8%. Cơ cấu kinh tế theo hướng: Nông-Lâm-Ngư: 39%; CN-TTCN và XD: 23,5%; các ngành dịch vụ: 37,5%; phấn đấu giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đạt 42 triệu đồng/ha.
    Tập trung mọi nguồn lực, tạo được những đột phá mới nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; quan tâm đầu tư cho công tác quy hoạch các ngành, các cụm tiểu vùng kinh tế; phát triển diện tích nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm trên cát theo hướng đầu tư thâm canh; phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá; thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án trồng rừng để đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
    Khai thác tốt tiềm năng kinh tế vùng cát; gắn sản xuất ngư nghiệp với phát triển Nông-Lâm-TTCN ngành nghề dịch vụ kết hợp. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; thực hiện tốt chương trình kiên cố giao thông nông thôn và kiên cố hoá kênh mương theo chương trình của tỉnh.
    Về văn hoá - xã hội: Phát triển văn hoá xã hội đồng bộ, cân đối với tăng trưởng kinh tế và đảm bảo môi trường. Nâng cao chất lượng GD-ĐT, chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 8%, tạo thêm nhiều việc làm. Đẩy mạnh hoạt động văn hoá - thể dục thể thao, thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng huyện điển hình văn hoá.
    Thực hiện tốt các chính sách đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng, nạn nhân chất độc da cam; giúp đỡ, động viên các gia đình chính sách vươn lên phát triển kinh tế để có đời sống ổn định. Quan tâm các đối tượng chính sách khác.
    Về Quốc phòng - An ninh: Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh, QP-AN với kinh tế-xã hội. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; chủ động nắm bắt tình hình, nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch, tích cực thực hiện phong trào toàn dân BVAN Tổ quốc.
    Về công tác xây dựng Đảng: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền; đổi mới hình thức triển khai, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; thực hiện tốt CVĐ “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
    Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cải cách hành chính, nâng cao chất lượng hoạt động, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; xây dựng chính quyền thực sự vững mạnh; kịp thời cụ thể hoá các Nghị quyết của Huyện uỷ và có các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các Nghị quyết đã đề ra.
    Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tích cực đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng hoạt động, coi trọng việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Hội, Đoàn gắn với các chương trình, nhiệm vụ chính trị của địa phương và chăm lo lợi ích thiết thực của hội viên. Xây dựng mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, góp phần quan trọng tăng cường sự nhất trí về chính trị và đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân; làm chổ dựa vững chắc cho Đảng và chính quyền. Quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội hoạt động đạt kết quả cao hơn đóng góp tích cực vào sự phát triển của huyện nhà.

Share This Page