[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cách đây gần 2000 năm, Đông Hà vốn là đất của Bộ Việt Thường nước Văn Lang dưới thời vua Hùng, sau khi bị nhà Hán thống trị lại thuộc về quận Nhật Nam. Vào giữa thế kỷ thứ 3, nước Chăm Pa sau khi dành được độc lập, phát triển ra phía Bắc vùng Hải Vân, lập nên châu Ô và châu Lý. Phía bắc là các châu: Ma Linh, Địa Lý và Bố Chánh. Đông Hà về phía Bắc sông Hiếu thuộc đất Ma Linh và Nam sông Hiếu thuộc Nam Châu Ô của Chăm Pa. Sông Đàng Vòng chạy vòng theo phía Bắc phường Đông Giang, xã Cam An, nơi có phế tích tháp Chàm được phát hiện ở cồn Giàng vào năm 1987 gồm nhiều mẫu tượng Linga, Yôni, tượng bò Thần Năng Đinh… là dẫn chứng. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sau khi người Chàm rút ra khỏi 2 Châu Ô và Lý, các làng Việt hình thành và phát triển trên Châu Thuận từ thời Trần, Lê. Vào giữa thế kỷ thứ XVI, tại huyện Vũ Xương có 59 thôn, làng thì trên đất Đông Hà có 8 làng: Hướng Ngao (Điếu Ngao), Hạ Đô, Thượng Đô, Thượng Đô (Thượng Nghĩa), Nghĩa Đoan (Nghĩa An), An Lạc, Trung Chỉ, Thiên Áng (Đại Áng). [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thuở đó, Đông Hà là vùng đất trù phú từ nước sông đến đồng cỏ, ruộng vườn, chăn nuôi…như Dương Văn An đã ca ngợi: “có nước ở xã An Lạc ngon lành thì trâu bò béo tốt”. Hoặc thể hiện một cách thanh bình, thịnh vượng “Ông già xã An Lạc ngâm ngợi câu ca”. Một cảnh sắc thanh tú tuyệt vời của vùng nước non sông Hiếu. “Thượng Độ, Hạ Độ mặt trăng trên nước trắng ngần: thượng Độ, Hạ Độ dãy núi ngoài mấy xanh biếc”. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuối năm 1558, Nguyễn Hoàng cùng đoàn tùy tùng vào Cửa Việt, ngược qua sông Hiếu đóng dinh ở Ái Tử. Tình hình kinh tế xã hội vùng Thuận Hóa từ đó đã có nhiều biến đổi nhanh chóng. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Năm 1627, lúc chiến tranh Trịnh - Nguyễn nổ ra, các chúa Nguyễn đã chọn đất làng Lập Thạch và Trung Chỉ làm nơi đặt đại bản doanh bộ chỉ huy tiền phương của quân đội triều Nguyễn để đánh với chúa Trịnh ở đàng ngoài. Năm 1648, chúa đặt tên là trại toàn thắng. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Con đường giao thông vừa tiện cho quân sự và buôn bán qua đất Đông Hà dưới thời Nguyễn là một ưu thế mà ít nơi có được. Năm 1776, Lê Quý Đôn đến đây và ghi chép trong phủ biên tạp lục rằng: “từ xã Cam Lộ đến tuần Hiếu Giang hết một ngày. Từ Gia Độ đến ngã ba Bến Dạ một ngày. Từ Bến Dạ (tục gọi xã Gia Độ)” xuống Cửa Việt nữa ngày, lên rừng xuống biển 2 đường giống nhau. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dưới thời Trịnh chiếm đóng (1775 - 1786) và Tây Sơn (1786 - 1801). Ở Đông Hà không có biến động gì lớn ngoài những thanh niên tham gia tòng quân góp phần đánh bại quân Thanh xâm lược, bảo vệ thành quả của phong trào Tây Sơn. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vào đầu thời Nguyễn, Gia Long lập dinh Quảng Trị gồm 2 huyện Đăng Xương và Hải Lăng. Phần lớn, đất của thị xã Đông Hà thuộc về đất của huyện Đăng Xương. Phía Tây huyện Đăng Xương là đạo Cam Lộ. Phần đất của phường Đông Thanh lúc đó lại thuộc về đạo Cam Lộ. Đạo Cam Lộ đóng ở làng Nghĩa An. Thanh đạo Cam lộ bốn mặt được đắp bờ lũy. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vào nữa đầu thế kỷ thứ XIX, trên đất Đông Hà có các bến An Lạc, Đông Hà, Thượng Độ đều là những chổ thuyền bè qua lại. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vào năm 1836, khi thành lập huyện Địa Linh, huyện lỵ ở làng Kim Đâu (xã Cam Giang), phần lớn các làng ở thị xã Đông Hà lúc đó thuộc về huyện Địa Linh. Đến thời Đồng Khánh (1886 - 188, lập huyện Gio Linh và Thuận Xương (thay tên gọi Đăng Xương), đất Đông Hà thuộc về 2 huyện Thuận Xương và Cam Lộ. Đến trước cách mạng tháng tám 1945, các thôn thuộc phường Đông Thanh, Đông Giang, Phường 3 và phường 4 (làng Đông Hà, Tây Trì, Thiết Tràng) thuộc tổng An Lạc của huyện Cam Lộ. các thôn còn lại nay thuộc phường Đông Lễ và Đông Lương lại thuộc tổng An Đôn của phủ Triệu Phong (trước đó gọi là Thuận Xương)… [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tên Đông Hà dùng để gọi làm tên của thị xã có thể bắt đầu từ thập niên của thế kỷ XX. Lúc nước Pháp mở đường 9 sang Lào vào năm 1904 và đến 1923, lúc xây dựng chiếc cầu bắc qua sông Hiếu dài 154,50m để cho ôtô thông suốt Nam - Bắc trên quốc lộ 1 thì tên gọi chiếc cầu Đông Hà chính là tên của điểm dân cư nơi chiếc cầu đi qua. Đó là thị xã Đông Hà hiện nay. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Với vị trí đắc đạo của giao thông Bắc Nam/ Đông Tây với các nước trong khu vực nên từ năm 1929, thị trấn Đông Hà được phủ toàn quyền Đông Dương xác lập và từ đó đến nay nó trở thành dấu ấn đô thị Đông Hà. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đông Hà khi mới thành lập đến cách mạng tháng 8/1945 có 2 phường Đệ Nhất và Đệ Nhị, nay vị trí trung tâm của thị xã mà trục lộ chính bắt nguồn từ ngã ba giữa quốc lộ 1 và quốc lộ 9 chạy theo phía Tây của phường 1 hiện nay. Đông Hà lúc ấy là đơn vị hành chính ngang cấp huyện, là một trong những trọng điểm cai trị của thực dân Pháp ở Quảng Trị. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Năm 1968, Ngụy quyền Sài Gòn quyết định thành lập quận mới lấy tên là quận Đông Hà, quận lỵ đặt tại Đông Hà, địa giới gồm xã: Đông Hà, Đông Hòa, Đông Phong, Đông Xuân, Đông Thanh, Đông Lễ, Đông Lương. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Tháng 9/1967, chính quyền cách mạng hợp nhất 2 thị xã Quảng trị và Đông Hà thành thị xã Quảng Hà và đến năm 1973 lại tách làm 2 thị xã Đông Hà và Quảng Trị. Sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, tháng 6/1975, nhập 2 thị xã Đông Hà và Quảng Trị thành một đơn vị hành chính lấy tên là thị xã Quảng Trị, tỉnh lỵ đóng tại Đông Hà. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sau khi hợp nhất 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, tỉnh Bình - Trị -Thiên đóng tại thành phố Huế. Tháng 5 – 1976, thị xã Đông Hà được tách làm đơn vị hành chính độc lập trực thuộc tỉnh Bình Trị - Thiên. Thị xã Đông Hà lúc đó có 5 phường: phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5 và xã Quảng Tân. Xã Quảng Tân là xã mới thành lập để tiếp nhận dân cư từ miền Nam trở về quê hương sau ngày giải phóng, là khu kinh tế mới của thị xã nằm ở phía Tây Gio Linh. Đến năm 1981 xã Quảng Tân thuộc thị xã Đông Hà sát nhập toàn bộ vào xã Gio Phong thuộc huyện Triệu Hải, một bộ phận nhân dân xã Quảng Tân về lại phường 5. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng 9 – 1981, Hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) đã có quyết định mở rộng địa giới thị xã Đông Hà, tách các xã Cam An, Cam Thành, Cam Giang, Cam Thủy, Cam Hiếu, Cam Tuyền, Cam Chính, Cam Nghĩa thuộc huyện Bến Hải và tách các xã Triệu Lương, Triệu Lễ thuộc huyện Triệu Phong nhập vào thị xã Đông Hà. Thị xã Đông Hà bao gồm đất của huyện Cam Lộ và của thị xã Đông Hà hiện nay có diện tích tự nhiên 428,25 km2. Năm 1981, tỉnh Quảng Trị được tái lập trên cơ sở chia tách 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, thị xã Đông Hà được chọn làm thị xã của tỉnh Quảng Trị. [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng 10 – 1991, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định thành lập huyện Cam Lộ, tách các xã thuộc thị xã Đông Hà là Cam Chính, Cam Nghĩa, Cam Tuyền, Cam Thủy, Cam Thành, Cam Hiếu, 1 phần xã Cam Thanh và xã Cam Giang nhập vào huyện Cam Lộ. Từ đó thị xã Đông Hà giữ nguyên địa giới hành chính và có diện tích tự nhiên là 7.255,5 ha, có 60.685 nhân khẩu, gồm 7 phường: phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường Đông Thanh, phường Đông Giang và 2 xã Triệu Lương, Triệu Lễ(nay là phường Đông Lương, phường Đông Lễ). ST [/FONT]