Quảng Trị-- Và những gì phải nhớ...

Discussion in 'Hình ảnh về Quảng Trị' started by thinhchua, Apr 15, 2009.

  1. thinhchua Thành viên

    <Trong bài viết này thiếu 1 số hình ảnh, xin các bạn bổ xung nha :d>
    Quảng Trị là một vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa. Một thời nơi đây được xem là “ Chiến địa”, “trấn biên”, phên dậu”. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quảng Trị là mãnh đất anh hùng, là nơi đụng đầu lịch sử giữa hai thế lực -cách mạng và phản cách mạng , nơi chứng kiến nổi đau đất nước bị chia cắt dằng dặc suốt một phần tư thế kỷ. Mảnh đất và con người Quảng Trị có biết bao niềm tự hào và sự khâm phục. Con người nơi đây anh hùng, bất khuất và những tên đất, tên làng, tên núi, tên sông rất đổi thân quen mà giàu chất sử thi, rất đổi bình dị mà có sức lay động lòng người.
    Quảng Trị giàu tiềm năng văn hóa - du lịch, với một hệ thống di tích lịch sử - văn hóa đồ sộ và độc đáo, nhiều danh thắng đẹp nổi tiếng và hấp dẫn: Đôi bờ Hiền Lương, Địa đạo Vịnh Mốc, Thành cổ Quảng Trị, Đường 9- Khe Sanh, đường Hồ Chí Minh huyền thoại; Tổ Đình Sắc Tứ, Nhà thờ La Vang; Bãi tắm Cửa Tùng, Cửa Việt; Rừng nguyên sinh Rú Lịch, Trằm Trà Lộc, Đakrông...
    Với thế mạnh thiên nhiên ban tặng, nằm ở vị trí đầu cầu về phía Việt Nam trên tuyến hành lang Đông - Tây nối với các nước Lào, Thái Lan, Myanma...,Quảng Trị là điểm giữa của “Con đường di sản Miền Trung” và “Con đường huyền thoại”. Chính các yếu tố này là điều kiện thuận lợi mời gọi du khách trong nước cũng như quốc tế đến với những điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn và kỳ bí trên dải đất miền Trung huyền thoại.

    1. DI TÍCH LỊCH SỬ: NHÀ TÙ LAO BẢO VÀ SÂN BAY TÀ CƠN – KHE SANH

    Trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược đã để lại trên mảnh đất Quảng Trị hàng loạt di tích lịch sử được xếp hạng Quốc gia trong đó có cụm di tích Nhà đày Lao Bảo và sân bay Tà Cơn – Khe Sanh.
    Nằm trên tuyến Đường 9, Di tích nhà đày Lao Bảo cách Cửa khẩu Lao Bảo khỏang 3 km về phía Đông Nam trên địa bàn thôn Duy Tân, thị trấn Lao Bảo. Nơi đây nguyên là vùng rừng núi chập chùng, hiểm trở, xa dân cư, thường biết đến là chốn “rừng thiêng, nước độc”. Khi đặt được ách thống trị lên xứ Trung Kỳ, thực dân Pháp chọn Lao Bảo Nhà đày Lao Bảo được chính quyền thực dân Pháp bắt tay vào xây
    dựng từ năm 1908. Lúc mới lập, nhà đày Lao Bảo mới chỉ có 2 dãy nhà gian bằng gỗ, lợp ngói, tường cốt tre trét toóc xi ( vôi cát trộn rơm) để giam giữ tù thường phạm và những người yêu nước chống Pháp theo các phong trào Cần Vương, Văn Thân.

    Sau năm 1930, phong trào cách mạng chống Pháp ngày càng lan rộng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nổ ra khắp nơi. Thực dân Pháp thực hiện các cuộc đàn áp, khủng bố trắng ở Trung Kỳ đã bắt giam nhiều người yêu nước và chiến sĩ cộng sản. Giữa năm 1934, thực dân Pháp đã cho xây thêm 3 dãy nhà giam kiên cố bằng bê tông cốt thép với đầy đủ hệ thống hầm ngầm, cổng sắt, cửa sắt. Ngoài ra trong khu vực nhà đày Lao Bảo còn có nhà hành xác, nhà tra trấn, hỏi cung (nằm ở góc Đông - Nam), nhà cai ngục, trại lính (ở góc Tây - Bắc) nhà dây thép (Bưu Điện), xưởng mộc, xưởng thêu, xưởng rèn.
    Chế độ lao dịch khổ sai áp dụng cho tù nhân nơi đây rất khắc nghiệt. Người tù bị bắt làm đủ thứ việc từ đập đá mở đường 9, làm cầu cống, chặt cây, đắn gỗ đến làm vườn trồng rau, làm thợ mộc, làm đồ mây tre, đồ thêu… cốt để thu nhiều lợi nhuận cho bọn chủ ngục, đã thế tù nhân còn bị đánh đập,. tra tấn tàn bạo trong các lần hỏi cung.
    Để chống lại chế độ hà khắc của nhà tù thực dân, nơi đây đã từng nổ ra những cuộc đấu tranh quyết liệt dưới mọi hình thức của tù nhân với bọn cai ngục nhằm bảo vệ quyền sống tối thiểu của con người và nêu cao nghĩa khí của những người yêu nước, khí tiết của người Cộng sản.
    Tồn tại trong vòng 63 năm nhưng có thể nói Nhà đày Lao Bảo là một trong những nhà tù lớn ở Đông Dương. Tại đây thực dân Pháp đã dùng những hình phạt dã man thời Trung cổ như gông, cùm, xiềng xích cùng với chế độ cai trị hà khắc tàn bạo nhất để đàn áp và giết hại các chiến sĩ yêu nước và cộng sản.
    Theo số liệu thống kê chưa được đầy đủ từ khi lập nhà tù Lao Bảo cho đến tháng 3/1945, đã có hàng ngàn tù nhân bị thực dân Pháp giam giữ tại đây, trong đó có trên 350 là tù nhân chính trị bị lưu đày, nhiều đảng viên Cộng sản đã anh dũng hy sinh trước những đòn tra tấn dã man của kẻ thù. Đồng chí Tố Hữu đã từng viết : “Cùng với Sơn La, Buôn Mê Thuột, Côn Đảo… nhà đày Lao Bảo là một nhà tù nổi tiếng ác độc, được xây dựng ở vùng rừng núi heo hút, đầy muỗi sốt rét ác tính, ở miền Tây Quảng Trị, thực tế đã là mồ chôn hàng nghìn người cách mạng bất khuất. Song với tinh thần “biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng”, nhà đày Lao Bảo đã trở thành nơi nung nấu lòng yêu nước thiết tha, rèn luyện ý chí kiên cường của các chiến sĩ Cộng sản”.
    Đến với Di tích Nhà đày Lao Bảo, qua những chứng tích còn lưu giữ và tôn tạo lại cho ta thấy rõ tội ác mà chính quyền thực dân Pháp đã từng gieo rắc lên đất nước ta; Càng thấy rõ hơn phẩm chất và khí tiết của những người yêu nước, những chiến sĩ cộng sản đã một lòng, một dạ trung kiên bất khuất đấu tranh anh dũng, chịu đựng tất cả để vượt qua và sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp độc lập tự do của Tổ quốc.
    Trải qua hai cuộc chiến tranh , nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, nhà tù đã bị hư hại nặng nề. Năm 1995, ngành Văn hóa – Thông tin đã cho mở đường, dựng một đài chứng tích nằm cạnh lao C, một đàn âm hồn để tưởng niệm những người đã hy sinh, nhà bia tưởng niệm Hồ Bá Kiện - người chỉ huy cuộc bạo động năm 1915. Đến năm 2000, trong chương trình tôn tạo di tích, một cụm tượng đài tương đối quy mô đã được đầu tư xây dựng cùng với việc quy hoạch lại khuôn viên, xây nhà đón tiếp, tổ chức trưng bày bổ sung. Hiện nay di tích đang ngày càng phát huy tác dụng tốt trong việc góp phần giáo dục truyền thống và đạo đức cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
    Rời Lao Bảo theo Quốc lộ 9 về hướng Đông khoảng 20 km du khách đến cụm di tích sân bay Tà Cơn – Khe Sanh.
    Sân bay Tà Cơn là tên gọi để chỉ một cụm cứ điểm quân sự chiến lược của quân đội Mỹ trong những năm 1966-1968, nằm trong tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Địa danh này từng gắn với nhiều sự tích liên quan đến chiến dịch giải phóng Khe Sanh năm 1968. Hiện nay di tích nằm trên địa phận thôn Hòa Thành, xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa; cách huyện lỵ Hướng Hóa khoảng 3 km về hướng Đông - Bắc. Di tích đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng quốc gia theo Quyết định số 236/QĐ-BVHTT ngày 12/12/1986.
    Ở vào vị trí gần biên giới lại án ngự quốc lộ 9 nối từ Đông Hà (Việt Nam) đến Savannakhẹt (Lào), Khe Sanh có một vị thế chiến lược khá lợi hại về quân sự không chỉ trên chiến trường Quảng Trị mà còn cả miền Nam và cả khu vực Đông Dương.
    Tướng Oét môlen tư lệnh quân đội Mỹ tại miền Nam coi việc thiếp lập ở Khe Sanh một tập đoàn cứ điểm quân sự như là một cái “ chốt cứng” có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng ngự, ngăn chặn ở phía Tây - Bắc chiến trường Trị Thiên; một “cái neo” về phía Tây cho hệ thống phòng thủ chiến lược ở Nam Khu phi quân sự; biến Khe Sanh thành một căn cứ tuần tra để ngăn chặn đối phương từ Lào sang và cũng là căn cứ cho các hoạt động biệt kích nhằm “quấy nhiễu đối phương” dọc biên giới Việt – Lào; đồng thời, sử dụng Khe Sanh thành một bàn đạp cho các cuộc hành quân càn quét trên bộ, xây dựng ở đây một sân bay cho các máy bay trinh sát kiểm tra, tìm diệt bộ đội chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam, chỉ điểm cho các họat động đánh phá, ngăn chặn và cắt đứt các tuyến đường Hồ Chí Minh.
    Cùng một loạt căn cứ được xây dựng theo trục đường số 9 từ Đông Hà lên Khe Sanh, cụm cứ điểm sân bay Tà Cơn được coi là một trong những khu trung tâm được xây dựng rất quy mô chạy dài 2 km, rộng 1 km, gồm nhiều tiểu cứ điểm với công sự kiên cố, dày đặc và một sân bay cỡ lớn làm nơi cất, hạ cánh cho các loại máy bay vận tải quân sự hạng nặng như C130, C123, máy bay trực thăng chở quân và trực thăng vũ trang. Bên cạnh đó một loạt căn cứ quân sự được xây dựng trên các hướng, các điểm cao xung quanh như: Căn cứ biệt kích ở Làng Vây, điểm cao 689, 682, 845, 832, 1009 (Động Tri ) với khoảng 6.000 quân.
    Với cách bố trí như vậy, sân bay Tà Cơn cùng các cao điểm kế cận đã hình thành nên một thế phòng ngự liên hoàn, cơ động được Mỹ - Ngụy coi là một vị trí “cứng” nhất trong cả hệ thống tập đoàn cứ điểm Khe Sanh.
    Thế nhưng trước sức mạnh tiến công giải phóng Khe Sanh của Quân đội nhân dân Việt Nam, Tà Cơn đã trở thành chiếc ghế điện đối với liên quân Mỹ - Ngụy. Ngày 26/6/1968, quân Mỹ buộc phải mở đường máu rút khỏi Khe Sanh.
    Chiến thắng Tà Cơn góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta ở mặt trận đường 9 Khe Sanh, đánh dấu sự bế tắc của Mỹ - Ngụy trong thế phòng ngự chiến lược đồng thời thể hiện rõ trình độ phát triển cao của quân giải phóng về chỉ đạo chiến lược, chiến thuật và tiến hành các chiến dịch tiến công quy mô lớn, dài ngày, hợp đồng binh chủng chặt chẽ có hiệu quả. Tà Cơn - Đường 9 – Khe Sanh thực sự trở thành những địa danh gắn liền với những chiến công đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với thắng lợi ở mặt trận Đường 9 Khe Sanh, quân và dân ta đã làm nên một sự tích phi thường là đánh bại một lực lượng đồn trú tinh nhuệ, hiện đại đông hơn mình gấp nhiều lần, điều đó chứng tỏ sức mạnh, tài nghệ và ý chí của quân và dân ta là vô địch trong đó thể hiện nổi bật trí tuệ, tài thao lược Việt Nam đã vượt lên trên đối phương. Đồng thời thấy rõ sự bế tắc trong chiến thuật, chiến lược của một đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại nhưng phi nghĩa của kẻ thù xâm lược. Thắng lợi này còn chứng minh lòng quả cảm, trí thông minh, dám chấp nhận hy sinh, gian khổ; sự cống hiến đáng tự hào cho cuộc kháng chiến vĩ đại của Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị nói chung, của quân và dân Hướng Hóa nói riêng, đánh dấu một bước phát triển mới trong phong trào cách mạng giải phóng quê hương.
    Sau chiến tranh, căn cứ Tà Cơn dần dần bị phá hoại trước thời gian và con người. Từ năm 1998, công cuộc trùng tu, tôn tạo được bắt đầu. Hiện nay trong khuôn viên di tích đã có một nhà bảo tàng về Đường 9 – Khe Sanh; một số hầm hào, công sự được phục dựng lại cùng với các hiện vật thể khối lớn như máy bay lên thẳng, đại bác, xác xe tăng, máy bay, bom đạn các loại… được trưng bày để phục vụ nhu cầu tham quan du lịch của khách tham quan trong và ngoài nước.
    Cùng với di tích nhà đày Lao Bảo, sân bay Tà Cơn Khe Sanh đang trở thành một điểm di tích thu hút ngày càng đông du khách đến tham quan trong tuyến du lịch DMZ; là những địa chỉ không thể bỏ qua cho những quý khách xa gần đến với lễ hội “Nhịp cầu xuyên Á” lần thứ hai sẽ được tổ chức trong tháng bảy năm nay và trong các dịp tổ chức lễ hội định kỳ về sau.

    2. THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ- BIỂU TƯỢNG SÁNG NGỜI CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG


    Thành cổ Quảng Trị nằm giữa trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn chừng 200m về phía Nam.
    Đứng soi mình xuống dòng sông Thạch Hãn hiền hoà, Thành cổ Quảng Trị uy nghi, trầm mặc, sáng ngời biểu tượng chủ nghĩa anh hùng cách mạng với khát vọng tự do, độc lập. Nơi đây, dưới lớp cỏ non Thành cổ, lòng đất đã thấm đẫm máu của hàng ngàn chiến sĩ và đồng bào Quảng Trị.
    Để trấn giữ phía bắc kinh đô Phú Xuân, năm 1809 Gia Long thứ 8 quyết định dời Dinh từ phường Tiền Kiên, huyện Đăng Xương (Triệu Giang, Triệu Phong ngày nay) đến xây dựng trên một khu đất cao tại xã Thạch Hãn- Hải Lăng (ngày nay thuộc thị xã Quảng Trị). Từ thành có thể đi vào Nam hay ra Bắc bằng đường sông, đường bộ, đường biển đều thuận tiện. Với vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự, Thành Cổ vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945.
    Thành lúc đầu, được đắp bằng đất, đến năm 1837, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành cổ Quảng trị có dạng hình vuông với chu vi tường thành dài 2160m, thành cao 3m, dưới chân dày 13,5m, đỉnh dày 0,72m. Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn gốc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài.
    Thành có 4 cửa nằm chính giữa 4 mặt thành: Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây vòm cuốn, vòm làm bằng gổ lim. Mỗi cửa có chiều rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói âm dương. Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính.
    Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các họa tiết: rồng, mây, hoa, lá...
    Nơi đây thường để Vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì Thành cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn... Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam
    cầm các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người yêu nước.
    Hơn 160 năm tồn tại dưới thời quân chủ và thực dân, Thành cổ là trung tâm chính trị của Quảng Trị. Dưới thời tạm chiếm Mỹ - ngụy biến Thành Cổ thành khu quân sự, làm kho tàng quân đội và trung tâm chỉ huy chiến dịch toàn tỉnh, đồng thời mở thêm nhà giam để đàn áp phong trào cách mạng. Vì vậy, nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh chống Mỹ trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 và các trận chiến đấu oai hùng của quân và dân ta. Tiêu biểu là cuộc chiến đấu ngoan cường đánh trả các đợt phản kích tái chiếm Thành Cổ của Ngụy quyền Sài Gòn trong suốt 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972.
    Chiến công giữ vững Thành Cổ Quảng Trị là khúc tráng ca bất tử, đã đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng nhất. Thành Cổ như một bảo tàng ghi nhận hy sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng. Cuộc chiến đấu anh dũng 81 ngày đếm (từ 28/6 đến 16/9/1972) bảo vệ Thành Cổ là đòn chiến lược bẻ gãy ý đồ cuồng vọng tái chiếm Quảng Trị của Mỹ ngụy, tạo thế mạnh cho ta trên bàn đàm phán Pa-ri. Ngã ba Long Hưng- chốt bảo vệ Thành Cổ phía Nam được mệnh danh là "ngã ba bom", "ngã ba lửa" mà hết đơn vị này, điều đơn vị khác quyết bám trụ đến cùng. Ngã ba cầu Ga 20 chiến sĩ án ngữ đều hy sinh anh dũng.
    Thành Cổ Quảng Trị được bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986. Năm 1994, Thành Cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.
    Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao xá, cổng tiền, hậu... Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạn thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm.
    Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế. Hiện nay Thành cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực:
    - Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam; tái tạo lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom… Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta.
    - Khu phục dựng Thành cổ nguyên sinh: ở phía Đông Bắc, thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn.
    - Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại phía Tây và Tây Nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh, hồ nước, sân chơi …
    ...:SnowAngel:.. likes this.
  2. thinhchua Thành viên

    3. ĐƯỜNG TRƯỜNG SƠN HUYỀN THOẠI

    Trên dãy Trường Sơn hùng vĩ của đất nước công hình chữ S, con đường vinh dự được mang tên vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc - Đường Hồ Chí Minh đã trở thành một huyền thoại, còn mãi âm vang khúc trường ca của một thời: "Xẽ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai". Ngày ấy, ngày sinh nhật Bác Hồ (19/5/1959), tuyến giao liên vận tải quân sự Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ được phát lệnh mở đường. Địa điểm Khe Hó, một thung lũng phía Tây nam Vĩnh Linh- Quảng Trị được chọn làm điểm xuất phát đầu tiên của con đường lịch sử. Trải qua 16 năm chiến đấu ác liệt gian khổ, không chùn bước trước mọi khó khăn, gian khổ, cả Trường Sơn sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Lực lượng nào, đơn vị nào cũng có những sự tích anh hùng; con đường nào, địa điểm nào cũng là mãnh đất thiêng liêng rực lửa. Bộ đội đường Hồ Chí Minh đã thắng địch, "thắng trời" làm nên con đường huyền thoại- Con đường đi tới độc lập, tự do của Tổ quốc. Văn bia trên Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn khắc đậm dòng chữ: "Năm tháng sẽ trôi qua, những đóng góp của bộ đội đường Hồ Chí Minh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến vào cuộc chi viện cho các chiến trường sẽ mãi mãi được ghi vào trang sử oanh liệt của dân tộc ta, của quân đội ta như một thiên anh hùng ca bất tử..."
    Từ năm 1973, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng căn dặn, đường Trường Sơn sau này phải được mở rộng và kéo dài phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hơn 20 năm sau ngày đất nước thống nhất, huyền thoại Trường Sơn lại được tô đậm với con đường mà cả nước mong đợi. Tháng 5 năm 2000, đường Trường Sơn được phát lệnh khởi công. Con đường của thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa được bạt núi, san đèo nối dài đất nước, mở hướng khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội phía Tây của Tổ quốc. Con đường mòn huyền thoại- con đường Hồ Chí Minh oai hùng sẽ mãi mãi là niềm tự hào và kiêu hãnh.
    Dọc hai bên đường Hồ Chí Minh hiện đại, nhánh đông từ Thạch Quảng (Thanh Hoá) đến Khe Sanh (Quảng Trị), dáng dấp của con đường xuyên Việt hiện ra với 2 làn xe chạy cùng những cầu, cống, hệ thống thoát nước, chống sụt trượt được kiên cố. Trên tuyến đường phẳng lì còn tươi màu sơn đã hình thành những khu phố, những thị tứ mới với nhà cửa san sát. Hơi thở của cuộc sống hiện đại đã tràn về hai bên đường Hồ Chí Minh, cho tới những bản làng heo hút dọc dải đất phía Tây xa xôi. Trên tuyến đường thuộc tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, nhà sàn của đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô mọc lên san sát, nhiều gia đình đã bắt đầu biết mở quán bán hàng. Trước đây những vùng này đất hoang hoá, bom cày, đạn xới, đường đi khó khăn, cách trở, cơ sở hạ tầng đều thấp kém, lạc hậu. Nay được ''dải lụa Trường Sơn'' vắt qua, những công trình, những nét văn minh đã về tới gần 200 xã đặc biệt khó khăn ở vùng xâu, vùng xa của đất nước. Con đường Hồ Chí Minh công nghiệp hoá cũng sẽ là tiền đề cho việc phát huy mọi nguồn lực ở địa phương. 10 triệu ha đất trồng cây công nghiệp dọc tuyến đang được quy hoạch lại. Tỉnh Quảng Trị đang tập trung đầu tư cho khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo, xây dựng Lao Bảo trở thành phố núi trên dãy Trường Sơn hùng vĩ, cửa ngõ trên tuyến đường xuyên Á Đông - Tây. Các huyện Hướng Hóa, Đakrông, Cam Lộ, Gio Linh, Vĩnh Linh có con đường Hồ Chí Minh đi qua đã chuẩn bị dự án về các khu công nghiệp, vùng nguyên liệu để xoá đói giảm nghèo, để tận dụng đất đai và nguồn nhân lực. Các làng thanh niên lập nghiệp dọc tuyến đường đã được thành lập và bắt đầu phát huy hiệu quả. Đoạn đường Hồ Chí Minh huyền thoại nối từ Đường 9- Khe sanh đến Tà Long (huyện ĐaKrông) đi qua khu bảo tồn thiên nhiên kỳ vĩ, qua các bản làng đồng bào dân tộc đang sinh sống đã được phục hồi nguyên trạng với các lán trại, hầm hào chiến đấu để phục vụ du khách trong chương trình hoài niệm chiến trường xưa, như là một gạch nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa một thời con đường Hồ Chí Minh trong chiến trận đến con đường Hồ Chí Minh CNH-HĐH thế kỷ 21.
    Đường Hồ Chí Minh nhánh Tây đã hoàn thành. Con đường mòn chỉ toàn cỏ dại, suối sâu, đèo cao và mây mù thời chiến tranh nay đã là con đường Tây Trường Sơn bằng bê tông uốn lượn vắt vẻo qua từng dãy núi phía Tây của Tổ quốc. Con đường nhánh Tây đi từ địa danh một thời khói lửa Khe Sanh trở về ''hang tám cô'' linh thiêng trên ''đường 20 quyết thắng'' ở Quảng Bình. Trên độ cao trung bình hơn 400m so với mặt nước biển, khí hậu nơi đây hòa hợp giữa 2 vùng Đông và Tây Trường Sơn, nên 200km đường lúc ẩn trong sương mù Trường Sơn, lúc hiện ven đường biên giới nước bạn Lào. Trải dài trên con đường là bạt ngàn rừng cây đang vươn mình tít tắp, thấp thoáng những trang trại vườn đồi VAC quy mô lớn, hứa hẹn những vụ mùa bội thu. Đường Trường Sơn Tây đang trở thành trục đường kinh tế - quốc phòng quan trọng, góp phần trong việc phát triển du lịch với những sản phẩm độc đáo, đa dạng. Trên những chặng đường Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn huyền thoại hôm nay đang bừng thức dậy những tiềm năng, thế mạnh để cùng hoà nhịp trên tuyến Hành lang kinh tế Đông- Tây trong công cuộc dựng xây vì một Quảng Trị mạnh giàu.
    Con đường Trường Sơn năm xưa trải đầy thử thách. Dù gian khổ, hy sinh, đèo cao, vực sâu nhưng lòng người không nản, bước chân không lùi, tất cả vì độc lập, tự do cho Tổ quốc. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết: "Trường Sơn đông nắng, tây mưa, ai chưa đến đó như chưa rõ mình". Hôm nay, trên con đường Trường Sơn hiện đại, rộn rã đi lên trong nhịp sống mới, đang đòi hỏi thế hệ chúng ta hãy mang sức lực và trí tuệ ra sức khai thác tiềm năng dồi dào phía tây của Tổ quốc, để con đường CNH-HĐH đưa đất nước, quê hương ngày càng trở nên giàu đẹp, phồn vinh.

    4. ĐỊA ĐẠO VỊNH MỐC - MỘT LÀNG HẦM TRONG LÒNG ĐẤT VĨNH LINH.

    Địa đạo Vịnh Mốc (thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh) nằm trong một quả đồi đất đỏ ba gian trên bờ biển, cách bãi tắm Cửa Tùng 7km về phía Bắc, cách đảo Cồn Cỏ anh hùng 30km về phía Tây, cách thị trấn Hồ Xá chừng 13km về phía Đông Nam.
    Vào năm 1965, trước sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ vào đất thép Vĩnh Linh, cũng như hầu hết các làng quê khác, Vịnh Mốc đã bị huỷ diệt hoàn toàn. Trước quyết tâm bám trụ quê hương, chi viện cho miền Nam, việc tổ chức phòng tránh cho con người đặt ra hết sức cấp thiết. Với ý chí "một tấc không đi, một li không rời", quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất, họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo mà địa đạo Vịnh Mốc là một minh chứng sinh động nhất. Cuối năm 1965, các chiến sĩ đồn biên phòng 140, nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên khai sinh ra làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này. Làng hầm như một toà lâu đài cổ nằm trong lòng quả đồi đất đỏ, có độ cao chừng 30m, rộng hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9m x 1,75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính dài 780m, có 13 cửa ra vào, được chống đỡ bằng cột nhà, gỗ và ngụy trang khá kín đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường hầm.
    Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 - 10 mét dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời, tầng 2 sâu 12 - 15 mét là nơi sống và sinh hoạt của dân làng, tầng 3 có độ sâu hơn 30 mét là nơi trung chuyển hàng hoá, vũ khí xuống thuyền ra đảo Cồn Cỏ.
    Khoét dọc hai bên đường hầm là những căn hộ gia đình, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 - 4 người ở. Ngoài ra trong đường hầm còn có hội trường (sức chứa hơn 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm phẫu thuật, trạm gác, máy điện thoại… đặc biệt có nhà hộ sinh. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại (từ 1965 - 1972), việc 17 đứa trẻ ra đời an toàn, không một người nào bị thương đã nói lên sự lựa chọn đúng đắn, là sự tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây.
    Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, quân và dân Vịnh Mốc tổ chức hàng trăm chuyến thuyền nan tiếp vận cho đảo Cồn Cỏ vững vàng chiến đấu. Đảo Cồn Cỏ được Nhà nước tuyên dương anh hùng hai lần, trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân làng hầm Vịnh Mốc.
    Đây thực sự là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc. Ròng rã 18 tháng trời dưới mưa bom, bão đạn, trong điều kiện thiếu ánh sáng, thiếu phương tiện, với chiếc cúp trong tay, họ đã làm nên một kỳ tích cho sự tồn sinh để sống và chiến đấu giành độc lập, tự do. Làng hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh- Quảng Trị một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
    Chiến tranh đã lùi xa, còn đó một làng hầm huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm tin, ý chí cho thế hệ hôm nay và mai sau về sức mạnh nội lực của dân tộc VN. Từ đây, tất thảy bạn bè và những người từng là "kẻ thù" đều phải thừa nhận sự thần kỳ của một đất nước, một dân tộc mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu. Có rất nhiều dòng cảm xúc về làng hầm này đều công nhận: " Địa đạo Vịnh Mốc giống như một toà lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất, giấu kín biết bao điều kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra".
    Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bộ Văn hoá - Thông tin đã có Quyết định công nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt quan trọng. Hiện nay, địa đạo Vịnh Mốc là điểm thu hút du khách đông nhất trong tuyến du lịch nổi tiếng và độc đáo này.

    5. CĂN CỨ QUÂN SỰ DỐC MIẾU VÀ “ CON MẮT THẦN” HÀNG RÀO ĐIỆN TỬ MC NAMARA

    Nằm phía Đông Quốc lộ 1A, căn cứ quân sự Dốc Miếu thuộc xã Gio Phong- Gio Linh, cách Cầu Hiền Lương chừng 7 km về phía nam. Dốc Miếu là đồi đất bazan nằm trong vùng địa hình 3 con dốc chạy ngoằn ngoèo. Ngay từ năm 1947, để án ngữ Quốc lộ 1A, thực dân Pháp đã lập đồn đóng chốt quân sự ở đây gọi là đồn Ba Dốc. Địa lợi đến vậy, đến lượt người Mỹ, khi lập căn cứ quân sự chiếm đỉnh cao ở đây từng ''ngạo nghễ'' tuyên bố: "Đây là pháo đài bất khả xâm phạm".
    Để ngăn chặn mọi sự chi viện từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, địch bố trí trên phòng tuyến nhiều căn cứ quân sự mạnh nối từ bờ biển xã Gio Hải lên đến Bến Ngự, Dốc Sỏi, Dốc Miếu, Cồn Tiên, kéo qua căn cứ Bải Sơn, Động Tròn đến Tân Lâm, Đầu Mầu cùng phòng tuyến bảo vệ Đường 9 lên tận biên giới Việt- Lào.
    Trên phòng tuyến đó, Mỹ ngụy xây dựng hệ thống hàng rào điện tử Mc Namara (mang tên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ), gồm 12 lớp kẽm gai chồng nhau cao 3 m, trên mặt hàng rào có cài mìn tự động, phía dưới hàng rào là bãi mìn dày đặc rộng hàng trăm mét. Ngoài ra, địch còn rải hệ thống “ cây nhiệt đới” là loại phương tiện thông tin nhạy bén nhằm phát hiện mọi xâm phạm trong phạm vi phòng tuyến. Ở các cứ điểm có hệ thống đèn pha cực mạnh để kiểm soát chống mọi sự xâm nhập vào ban đêm. Cùng với hệ thống “ mắt thần điện tử”, kiểm soát mọi chuyển động là đội ngũ binh lính “hồn ma biên giới”, bọn biệt kích được huấn luyện công phu, thiện nghệ thường xuyên len lỏi vào hành lang của ta để chống phá mọi hoạt động của du kích.
    Dốc Miếu được coi là cứ điểm quan trọng nhất của phòng tuyến Mc Namara. Ở đây địch xây dựng hệ thống hầm nhà vòm, hệ thống lô cốt di động bằng bê tông và trận địa pháo mặt đất hướng bắn ra bờ Bắc sông Bến Hải, có trận địa phòng không 37, trung tâm điều khiển bảo vệ hàng rào, chi đội thiết giáp tuần tra cùng nhiều đại đội hổn hợp Mỹ - ngụy. Xung quanh căn cứ ngoài các hàng rào kẽm gai dày bom mìn là hệ thống máy móc báo động chống xâm nhập.
    Tuy là một căn cứ hiện đại, nhưng hàng rào điện tử đã dần dần bị vô hiệu hóa trước những mưu trí chiến lược của ta. Quân ta đã tấn công và lần lượt phá hủy từng đoạn, đưa lực lượng và vũ khí vào chiến trường. Lực lượng du kích ngày đêm khống chế không cho địch tự do hoạt động bằng cách vây ép bắn tỉa...Trong những ngày đầu năm 1972, quân và dân ta đồng loạt nổi dậy nổ súng vây chặt, bắn hàng trăm quả đạn DKD, A12 và bom phóng vào căn cứ. Sau ba ngày tấn công, đêm 31/3/1972, lực lượng địch buộc phải tháo chạy, bỏ lại đồn bốt, công sự cùng với hệ thống hàng rào điện tử hiện đại.
    Ngày nay, địa danh dốc Miếu - Cồn Tiên lại trở thành tài sản quý, một di tích hấp dẫn du khách trong hành trình tour du lịch DMZ của Quảng Trị. Nơi đây, sừng sững trên đỉnh đồi cao là một tượng đài chiến thắng ghi công các chiến sĩ giao liên đã góp phần đập tan hệ thống pháo đài Dốc Miếu - Cồn Tiên. Dưới chân tượng đài chiến thắng là các đồi cây cao su nối dài tít tắp, minh chứng cho cuộc sống đang hồi sinh mạnh mẽ trên mảnh đất một thời bom lửa. Nhìn từ tượng đài chừng 7 km về phía Bắc là di tích đôi bờ Hiền Lương, một biểu tượng của khát vọng thống nhất non sông, khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam trường kỳ 21 năm chống quân xâm lược.

    6. CỤM DI TÍCH ĐÔI BỜ HIỀN LƯƠNG - BIỂU TƯỢNG KHÁT VỌNG THỐNG NHẤT NON SÔNG


    Cụm di tích đôi bờ Hiền Lương bao gồm: cầu Hiền Lương, đồn Công an Hiền Lương, cột cờ Hiền Lương:
    Cầu Hiền Lương- Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải ở km 735 trên Quốc lộ 1A. Cầu nối liền thôn Hiền Lương (thuộc xã Vĩnh Thành - Vĩnh Linh) ở bờ Bắc và thôn Xuân Hòa ở bờ Nam (thuộc xã Trung Hải- Gio Linh). Thuộc hệ thống di tích Đôi bờ Hiền Lương, cầu Hiền Lương xây dựng từ năm 1952, từng chứng kiến nỗi đau chia cắt đất nước, tình cảm phân cách giữa 2 miền Nam - Bắc. Năm 1967, cầu bị bom Mỹ đánh sập. Để phục vụ chiến trường miền Nam, năm 1974, ta xây lại cầu mới bằng bêtông cốt thép, mang ý nghĩa cây cầu thống nhất non sông. Năm 1996, được sự quan tâm của Trung ương, Bộ Giao Thông- Vận tải đã cho xây dựng cây cầu mới dài 230m, rộng 11,5m nằm ở phía Tây cầu cũ. Tại chân cầu cũ ta phục chế nguyên dạng cây cầu giai đoạn năm 1952-1967, làm điểm đến tham quan của du khách tuyến DMZ (Vùng phi quân sự).
    Đồn Công an Hiền Lương nằm ở phía Bắc cầu Hiền Lương, đồn gồm 3 khu nhà: A,B và C tạo thành hình chữ V, vị trí giữa là cột cờ Hiền Lương.
    Khu nhà A (nhà liên hiệp) được xây dựng từ năm 1955 theo kiểu nhà sàn với kích thước 12m x 6m, lợp ngói, có hệ thống cửa kính bao quanh. Đây là nơi đặt trụ sở chỉ huy, nơi giao ban làm việc giữa hai bên và là nơi tiếp các đoàn khách. Khu nhà B có kích thước 10m x 5m được làm bằng gỗ, mái lợp tranh, vách trát toóc xi, dùng làm nơi ở của các chiến sĩ công an giới tuyến. Khu nhà C dùng làm kho hậu cần, nhà ăn với kích thước 12m x 4m.
    Đồn Công an Hiền Lương được biên chế hai tiểu đội, số lượng 24 người, được trang bị súng ngắn và tiểu liên AK. Trong suốt gần 12 năm, từ 1954 đến 1965, đồn như mặt trận không tiếng súng, nơi đây thường diễn ra các cuộc đấu lý, đấu trí tố cáo Mỹ-ngụy vi phạm Hiệp định và đấu tranh thực hiện nghiêm quy chế khu phi quân sự, ngăn chặn các hành động phá Hiệp định của địch. Đồn công an như một chứng tích chiến tranh thể hiện sự gan dạ, mưu trí của các chiến sĩ công an giới tuyến. Hiện nay, đồn công an Hiền Lương được phục chế nguyên trạng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân đôi bờ cũng như nhu cầu tham quan của khách du lịch.

    Cột cờ Hiền Lương thuộc hệ thống di tích đôi bờ Hiền Lương. Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước việc dựng cờ hàng ngày ở hai đầu cầu là một cuộc đấu tranh gay go quyết liệt giữa hai bên. Cột cờ của ta những năm đầu được làm bằng cây phi lao cao
    12m, trên đỉnh thường xuyên treo một lá cờ bằng vải satanh, rộng 24,2m­­­2 việc nâng chiều cao của cột cờ và bề rộng của lá cờ là một cuộc chạy đua giữa ta và địch. Theo yêu cầu của đồng bào giới tuyến ta phải cắm cờ cao hơn địch, nên cột cờ thứ 2 bằng gỗ cao 18m, cờ rộng 32m2. Ngay sau đó, chính quyền Ngô Đình Diệm cho dựng cột cờ bằng xi măng cốt thép cao 30m tại bờ Nam. Không để lá cờ ngụy ngạo nghễ ở giới tuyến, các chiến sĩ vũ trang được sự giúp đỡ, ủng hộ của Trung ương và bà con bờ Bắc tháng 7/1957 đã dựng cột cờ bằng ống thép, cao 34,5m. Trên đỉnh cột gắn một ngôi sao bằng đồng với đường kính 1,2m; ở 5 đỉnh gắn 15 bóng điện, lá cờ rộng 108m2. Trước sự kiện bất ngờ này, Mỹ nguỵ vội nâng cột cờ của chúng cao 35m. Không để cột cờ ta thấp hơn cờ địch ở bờ nam, Năm 1962, vật liệu được chở từ Hà Nội, quân và dân ta xây dựng cột cờ mới cao 38,6m với lá cờ rộng 134m2, nặng 15kg. Đây là cột cờ cao nhất giới tuyến. Theo ước tính, từ 19/5/1956 đến 26/10/1967 đã có 264 lá cờ các cở được kéo lên, tung bay kiêu hãnh trên bầu trời giới tuyến. Mỗi khi nhìn lá cờ đỏ sao vàng, đồng bào hai bờ Bắc- Nam vui sướng đến trào nước mắt.
    Để lá cờ thường xuyên tung bay trên đỉnh cột, giữ vững biểu tượng sức mạnh chiến thắng của dân tộc, các chiến sĩ đồn Công an Hiền Lương đã chiến đấu anh dũng dưới mưa gió, bão đạn để bảo vệ lá cờ. Phải hàng chục lần dựng lại cột cờ, 42 lần thay lá cờ mới. Cùng với các chiến sĩ bảo vệ giới tuyến, mẹ Nguyễn Thị Diệm phải nhiều đêm thức trắng dưới hầm sâu để vá cờ sau mổi lần bị bom thù xuyên thủng. Trên đỉnh cột cờ Hiền Lương lá cờ đỏ sao vàng kiêu hãnh tung bay, tạc vào đất trời, tạc vào lòng người, một biểu tượng khát vọng và niềm tin thống nhất non sông, là sức mạnh oai hùng, sức mạnh chiến thắng trong công cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
    Đất nước hoà bình thống nhất, cụm di tích đôi bờ Hiền Lương mãi trường tồn với những giá trị cao đẹp. Tháng 12 năm 1986, khu di tích đôi bờ Hiền Lương được xếp hạng cấp Quốc gia. Trên mạch nối giao thông giữa hai miền Nam-Bắc và "con đường di sản miền Trung", cụm di tích đôi bờ Hiền Lương là điểm sáng trong hành trình của du khách trong và ngoài nước tìm về nơi đây để hoài niệm một thời đất nước chịu cảnh chia cắt, hiểu được sức mạnh của một dân tộc thiết tha yêu hoà bình, một ý chí và khát vọng giành độc lập tự do, để có một Việt Nam tươi đẹp như hôm nay.

    Mỗi di tích trên mảnh đất Quảng Trị là một thiên anh hùng ca bất tử về tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm mưu trí, sáng tạo quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của quân và dân ta. Hệ thống di tích lịch sử cách mạng là tài sản tinh thần vô giá, có ý nghĩa to lớn không những đối với trong nước mà còn đối với Quốc tế hết sức sâu sắc, chúng ta phải ra sức gìn giữ và tôn tạo.
  3. laobao Thành viên

    quảng trị có 1 quá khứ hào hùng.....tự hào quảng trị
  4. 053_74 Thành viên

    tôi yêu quảng trị quê tôi !!!!!!!!!!!!!!!!!!!:om:om
  5. Romeo Never Die Thành viên

    Ôi quảng trị của ta ơi. thương quá là thương. nhớ quá là nhớ.
  6. Tue-DaoDau Thành viên

    tự hào quá khứ,đúc kết xây dựng tương lai quê hương quảng trị thêm giàu đẹp,văn minh ...=D>

Share This Page