Chào các bạn, Cùng với việc cập nhật thông tin cho các địa danh, vùng miền thì thông tin về con người Quảng Trị trên wiki cũng rất quan trọng, hiện nay mảng thông tin này đang rất ít. Vì thế mình lập chủ đề này để tất cả mọi người đóng góp thông tin. Các bạn nếu có bất kỳ thông tin nào về Danh nhân Quảng Trị xin post tại chủ đề này. Sau đây là vài lưu ý về cách post thông tin: - Nhớ để lại nguồn thông tin ( được lấy ở sách nào, hoặc copy từ trang web nào). - Thông tin càng cụ thể càng tốt: Viết về Danh Nhân nên cần phải thật sự kỹ càng sàng lọc thông tin. Thông tin cụ thể sẽ làm tăng tính xác thực cho bài viết của nhóm QTN Wiki. - Thông tin khách quan: Đóng vai trò người ở giữa các luồng thông tin để viết, không tô hồng hay bôi đen bất cứ nhân vật nào hay sự kiện lịch sử nào. Sẽ không có các câu đại loại như "đó là chiến thắng vĩ đại của đảng và quân đội ta" hoặc "trong mấy mươi ngày đêm đó, các chiến sĩ ta đã anh dũng bám trụ, giữ lấy từng tấc đất, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh...".
Mình cũng đã tìm mấy ngày nhưng thông tin chẳng được bao nhiêu, trước mắt thì có cái danh sách một số người tìm được trong một bài viết trên internet, hy vọng nó có thể bổ trợ thêm cho việc sử dụng từ khóa tìm kiếm hay hệ thống hóa dễ hơn việc tìm của chúng ta, mỗi người một tay chứ nhiều tìm ko nổi, các bạn chú ý về mốc thời gian cho dễ tìm (Phần Bắc Quảng Trị từ đời Lý Thánh Tông bắt Chế Củ, Nam Quảng Trị từ đời Trần Anh Tông - Trần Minh Tông gả Huyền Trân Công Chúa do đó danh nhân cũng từ các đời này mới có thông tin, trước đó thì ko biết, chắc khó)
Bùi Dục Tài Tên Bùi Dục Tài Danh thần Quê quán Hải Lăng - Hải Lăng - Quảng Trị Thời kỳ Lê Túc Tông; Lê Tương Dực; Lê Chiêu Tông Năm sinh Đinh Dậu - 1477 Năm mất Mậu Dần - 1518 Tiểu sử Danh thần Bùi Dục Tài đời Lê Túc tông (黎肅宗; 1487-1504), người xã Câu Nhi, thôn Câu Lãm, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm Cảnh Thống 5 (Nhâm Tuất 1502), ông đỗ tiến sĩ, từ thi Hội đến thi Đình, văn ứng chế đều được khen ngợi, nổi tiếng văn học uyên bác. Được bổ vào Viện Hàn lâm, làm Hiệu lí, rồi làm Tham Chính đạo Thanh Hoa. Năm đầu Hồng Thuận (Kỷ Tỵ 1509) đời Lê Tương Dực ( 黎襄翼 ; 1495–1516), phải khi trong nước có biến loạn, ông khéo lo cho dân, được thăng Tả thị lang bộ Lại. Trong nhiệm vụ này, ông thuyên chuyển quan lại rất mực ngay thẳng, đương thời xưng tụng đức tính liêm khiết công bằng. Năm đầu Quang Thiệu (Bính Tý 1516), đời Lê Chiêu Tông, được cử làm Tham tướng, ông càng dốc lòng lo việc kinh lí, bảo an dân chúng. Sau, vì tính ông thẳng thắn, bọn gian thần lấy làm ghen ghét, mưu giết chết ông. Sau khi mất được truy tặng Lễ Bộ Thượng thư. Con ông là Bùi Vỹ sau cũng bị hại. Nguồn: http://www.vietgle.vn
Chương trình tham quan nhà lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: 1.Viếng và dâng hương tại nhà tưởng niệm: 2.Tham quan nhà trưng bày: * Tầng 1: Là nơi đặt bức tượng của Bác Lê Duẩn * Tầng 2: Nhà trưng bày với đầy đủ các hiện vật và tư liệu về cuộc đời hoạt động cách mạng của tổng Bí thư Lê Duẩn. Và tại phòng trưng bày này được chia làm 3 chủ đề khác nhau. Chủ đề 1: Tuổi trẻ, niềm tin và lí tưởng - Tiểu sử: Đồng chí Lê Duẩn tên khai sinh là Lê Văn Nhuận, sinh ngày 19/4/1907tại làng Hậu Kiên Xã Triệu Thành huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. - Xuất thân trong một gia đình nông dân, thân phụ là ông Lê Hiệp mmọt nhà Nho nhưng ở nhà làm nghề mộc. Thân mẫu là bà Võ thị Đạo ở nhà làm ruộng sinh sống. - Ông là người con thứ hai trong gia đình. Trước ông là chị gái Bà Lê thị Điều và sau ông có thêm một em gái nữa là bà Lê thị Cháu. - Quê nội của đồng chí Lê Duẩn là làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Đây là một làng có truyền thống hiếu học, có nhiều người đạt khoa bảng. Nơi đây còn là nơi sinh ra nhiều danh nhân có tinh thần yêu nước, căm thù giặc, điển hình có cụ Lê Văn Thống (ông nội của đồng chí Lê Duẩn), cụ Lê văn Tặng ( bác ruột của đồng chí Lê Duẩn) - Sinh ra và lớn lên trên một mảnh đất có bề dày truyền thống như vậy và mang trong mình dòng máu của một dòng họ có nhiều người học rộng tài cao, đó là một mạch nguồn hun đúc nên một con người- lãnh tụ xuất sắc của Đảng ta, một con người ưu tú của Quảng trị. - Lúc còn nhỏ cậu học trò Lê văn Nhuận rất thông minh, học giỏi và nói tiếng Pháp khá thông thạo nên người trong vùng gọi với cái tên khá thân mật, gần gũi là cậu Thông Nhuận. Niên khóa 1919- 1920 Lê Văn Nhuận dự thi “Yếu lược” và đõ điểm cao nhất và được lên tỉnh học nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên học được một năm thì thôi học và về mở lớp dạy học tư ở trường làng phụ giúp gia đình. - Ông lập gia đình vào năm 1929 và có 8 người con là: + Lê văn Hãn + Lê Thị Cừ + Lê thị Hồng + Lê thị Muội + Lê Văn + Lê Vũ Anh + Lê Văn Thành + Lê Văn Trung Chủ đề 2: Lê Duẩn người chiến sĩ cộng sản kiên cương, nhà lãnh tụ lỗi lạc, một tư duy sáng tạo của cách mạng Việt nam Sống trong cảnh nước mất nhà tan, cuộc sống nhân dân chịu bao đọa đày, đau khổ ách đo hộ của thực dân phong kiến. Người thanh niên 20 tuổi Lê Văn Nhuận đã sớm ảnh hưởng của tư tưởng lúc giờ, quyết tâm ra đi mang theo hoài bão lớn làm sao cho nhân dân thoát khỏi cảnh đói nghèo, đưa dân tộc thoát khỏi cảnh áp bức, bóc lột của thực dân Pháp. -1927: Lê văn Nhuận nhận lời gia đình vào làm kế toán ở sở Hỏa Xa Đà Nẵng. -1928: tham gia vào nhóm “Ái Quốc” sau đỏi thnàh hội Ái Hữu.Sau đó được điều ra ga Hà Nội. Trước khi đó Nhuận được anh em đặt cho cái tên mới là Lê Duẩn. -3-1930: Lê Duẩn trở thành Đảng viên ĐCSDD, sau đó được điều về thành ủy Hà Nội ròi xứ ủy Bắc Kì, giữ cương vị ủy viên tuyên huấn xứ ủy. -20-4-1931: Xứ ủy Bắc Kì bị lộ, Lê Duẩn bị Pháp bắt giam và kết án 20 năm tù. Trong tù luôn nêu cao y chí cách mạng, biến nhà tù thành trường học cách mạng -1936: Do thắng lợi ở mặt trận dân chủ ở Pháp do thắng lợi ở Mặt trận dân chủ Pháp và phong trào đấu tranh của nhân dân ta, chúng đã trả tự do cho 500 tù chính trị ở Côn Đảo trong đó có Lê Duẩn. -Sau khi ra tù: tham gia hoật động phong trào cách mạng ở Miền Trung, nổi bật có phong trào đón Gôđa đưa dân nguỵen trình lên chính phủ Pháp. -1939: Lê Duẩn được bổ sung vào thường vụ TW Đảng. Cùng với Phan Đăng Lưu, Nguyễn văn Cừ chuẩn bị văn kiện và chủ trì hội nghị lần 6 BCHTƯ Đảng. Quyết định thành lập mặt trận phản đế Đông Dương. -Sau 1954: tiếp tục ở lại Nam bộ lãnh đạo phong trào cách mạng ở Miền nam. -6-1956: hoàn thành đề cương Cách mạng Miền nam vạch rõ phương hướng cơ bản , đúng đắn nhằm thúc đẩy cách mạng Miền nam tiến lên. -9-1960 được bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất và bí thư quân ủy Trung ương. -1982-1986: Tổng Bí thư TƯ Đảng CSVN khóa V, là đại biểu quốc hội khóa II đến khóa VII. -Ông được tặng huân chương Sao vàng và nhiều huân chương khác -Ông đã qua đời ngày 10-7-1986 tại Hà Nội lúc 79 tuổi. Chủ đề 3: Lê Duẩn trong lòng quê hương đất nước và bạn bè quốc tế - Tham gia cách mạng từ 1928, ông sớm trở thành người lãnh đạo xuất sắc của Đang ta: Bác tích cực tìm hiểu tình hình, đi sâu tuyên truyền vận dụng các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng. Bị bắt và đày ải trong các nhà tù khét tiếng nhưng bác vẫn kiên trung, bất khuất, trung thành với cách mạng, với ĐCS. - Xa quê hương đi hoạt động cách mạng sớm, lăn lộn khắp 3 miền Bắc Trung Nam đất nước, bác Duẩn ít có thời gian về quê hương nhưng trái tim, luôn hướng về nơi chôn rau cắt rốn theo dõi từng bước phát triển của cách mạng tỉnh nhà cũng như tình hình kinh tế địa phương sau ngày giải phóng. - Hòa bình lập lại, nhiều lần Bác về thăm quê hương vào các năm 1976, 1981, 1983,1985. Lần ở lại lâu nhất là 3 ngày, 3 đêm, ít nhất thì 1 ngày, 1 đêm.Bác luôn ân cần hỏi thăm từng cụ già em nhỏ và những cơ sở cách mạng đã cưu mang Bác cũng như nhiều cán bộ khác. Bác luôn căn dặn nhân dân tỉnh nhà phải luôn nỗ lực xây dựng quê hương giàu đẹp, xã hội công bằng, văn minh giàu tình thương và lẽ phải. - Chính những tình cảm sâu đậm của Bác đối với quê hương như vậy cho nên Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị nói riêng và nhân dân cả nước nói chung luôn luôn dành cho Bác tình cảm sâu sắc nhất, cao quí nhất à thực hiện đúng như lời bác Ba Duẩn. 3. Tham quan nhà lưu niệm cố tổng Bí thư Lê Duẩn: Sau khi đất nước hòa bình, hoàn toàn thống nhất, vào tháng 2/1976 huyện Triệu Hải cũ cùng bà con quê hương đã xây dựng một nhà lưu niệm đẻ thờ cúng gia tộc, vừa làm nơi nghỉ ngơi cho đồng chí Lê Duẩn mỗi lần về thăm quê, lúc đầu được lợp bằng tranh, xung quanh che bằng gỗ ván. Cuối 1977: mái tranh bị hỏng nặngdo thời tiết cho nên UBND tỉnh Bình Trị Thiên đã cho lợp lại băng ngói và tồn tại cho đến 1994. Nhà dài 9m, rộng 4, 5m, kết cấu theo dạng nhà băng3 gian 2 chái, bao quanh là 4 dãy chè tàu được cắt tỉa cẩn thận, phía sau khuôn viên trồng cây ăn quả cây ăn trái. 1995: xây dựng lại nhà lưu niêm kiên cố. 1997: Kỷ niệm 90 năm ngày sinh cố tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1997)UBND tỉnh đã cho tôn tạo lại khu lưu niệm với các hạng mục: mở đường, xây dựng khuôn viên, xây dựng kè dọc bờ sông. 2002: kỷ niệm cố tổng Bí thư Lê Duẩn: cho xây dựng nhà trưng bày lưu niệm về cuộc đời hoạt động của cố tổng bí thư Lê Duẩn. Ngôi nhà lưu niệm cố tổng Bí thư Lê Duẩn được coi là di tích lịch sử qu giá trong toàn bộ hệ thống di tích lịch sử văn hóa Quảng Trị. Ngôi nhà là nơi biểu hiện lòng kính cẩn biết ơn cua nhân dân ta đối với thân thế và sự nghiệp của đồng chí Lê Duẩn. Có thể nói cuộc động lâu dài và sự đóng góp, cống hiến đối với cách mạng Việt Nam, đối với nhân dân, đất nước ta đã để lại cho chúng ta một tấm gương quí báu , một phẩm chất cách mạng cao quí, một nghị lực cách mạng kiên cường. Bác luôn sống trung thực, giản dị, gần gũi với chiến sĩ đồng bào,yêu quê hương tha thiết.Xứng đáng cho mọi tầng lớp nhân dân noi theo. Đúng như lời của tổng Bí thư Trường Chinh đã nhận xét rằng : "Cố tổng bí thư Lê Duẩn là chiến sĩ thuộc lớp cận vệ đầu tiên của Đảng một người học trò lỗi lạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến. Đồng chí Lê Duẩn đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đất nước, cho sự tự do hạnh phúc của nhân dân và cho lí tưởng cộng sản chủ nghĩa". Nguồn: Tổng hợp
Quảng Trị nhiều danh nhân chứ: Đại tướng Đoàn Khuê Tổng bí thư Lê Duẫn Đại thần Bùi Dục Tài Danh tướng Trần Đại Nghĩa Nhà thơ Chế Lan Viên Nhạc sỹ Trần Hoàn .............
Đại tướng Đoàn Khuê (Tướng Việt Nam , thế kỷ 20) Tổng bí thư Lê Duẫn (Tên chính xác là Lê Duẩn bạn ạ) (Nhà cách mạng, thế kỷ 20) Đại thần Bùi Dục Tài (Tướng nhà Lê, thế kỷ 15) Danh tướng Trần Đại Nghĩa Nhà thơ Chế Lan Viên (nhà thơ, thế kỷ 20) Nhạc sỹ Trần Hoàn (nhạc sĩ, thế kỷ 20) Tất cả các danh nhân trên đã được giới thiệu trên Wiki, tuy nhiên thông tin có thể còn sơ sài. Mình đã add link cho toàn bộ những danh nhân trên, Riêng Trần Đại Nghĩa có thể bạn đã nhầm, vì ông là người Vĩnh Long chứ không phải Quảng Trị
Chi đội Nguyễn Thiện Thuật: Đội quân chủ lực đầu tiên của chính quyền VNDCCH ở Quảng Trị. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Quân lệnh số 2 phát lúc 12 giờ ngày 23 tháng 8 năm 1945, với nội dung: “Mở cuộc đăng ký tuyển quân cấp tốc thành lập Chi đội Giải phóng quân với tổng số 1.500 chiến sĩ kể cả một số đơn vị trực thuộc như thông tin, quân y, quân nhu...”. (p.19) Thực hiện Quân lệnh số 2, trưa ngày 23 tháng 8 năm 1945 Chi đội Giải phóng quân của tỉnh được thành lập. Ngày 19 tháng 9 năm 1945, Chi đội Giải phóng quân chuyển thành Chi đội Thiện Thuật, là đơn vị chủ lực đầu tiên của tỉnh. Lúc đầu do ông Quảng Xuyên làm Chi đội trưởng. Ít ngày sau, ông Nguyễn Đăng Trình (Tùng Lâm) được Tỉnh ủy chỉ định làm Chi đội trưởng, thay ông Quảng Xuyên, ông Trường Linh làm Chi đội phó. Chi đội Thiện Thuật gồm 1.500 cán bộ, chiến sĩ, hầu hết được chọn từ các đội tự vệ chiến đấu (p.19-20) Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản với lực lượng vũ trang, Tỉnh ủy Quảng Trị đã cử một số cán bộ của mình có khả năng làm cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị sang làm cán bộ của Chi đội Thiện Thuật. Ông Trần Sâm làm Chính trị ủy viên Chi đội. Từ cấp trung đội trở lên đều có chính trị viên ... (p.20) -------------- Nguồn: Trung đoàn 95 – Đoàn Măng Yang, Thiếu tướng Huỳnh Nghĩ và cs, Nhà xuất bản QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, 2002
(tiếp) Theo Sắc lệnh số 71 ngày 22 tháng 5 năm 1946 của Chính phủ về tổ chức Quân đội quốc gia Việt Nam, Chi đội Thiện Thuật chuyển đổi thành Trung đoàn Thiện Thuật. Sau khi thành Trung đoàn Thiện Thuật, Trung đoàn được bổ sung quân số và tăng cường trang bị. Ngoài ba Tiểu đoàn 13, 14, 15 đã có từ trước, Trung đoàn được biên chế thêm các đại đội công binh, thông tin, trinh sát và một tiểu đoàn nữ. Sau một thời gian ngắn, Tỉnh ủy cho giải thể tiểu đoàn nữ, chỉ để một số tiểu đội làm nhiệm vụ bảo vệ. Trang bị vũ khí của Trung đoàn có gần 200 khẩu súng thu được của lính khố xanh, khổ đỏ trước đây, còn phần lớn là giáo mác, mã tấu. Quân phục không có, quần áo do anh em tự túc, ai có gì mặc nấy... Tháng 11 năm 1946, cấp trên điều động ông Hùng Việt (1) về làm Trung đoàn trưởng, thay ông Nguyễn Đăng Trình (Tùng Lâm) đi nhận nhiệm vụ mới. Sở Chỉ huy của Trung đoàn đặt trong thành Quảng Trị. Cuối năm 1947, Phân khu Bình-Trị-Thiên được thành lập, trực thuộc Quân khu 4. Trung đoàn Thiện Thuật chuyển đổi thành Trung đoàn 95. Ông Lê Nam Thắng được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng, ông Lê Chưởng làm Chính ủy. Tiểu đoàn 13 đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 301, Tiểu đoàn 14 thành Tiểu đoàn 302, Tiểu đoàn 15 thành Tiểu đoàn 310. Quân số toàn Trung đoàn có 1.745 người, trang bị vũ khí tương đối đầy đủ. Từ đây Trung đoàn 95 hoạt động dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh Phân khu Bình-trị-thiên, bên cạnh Trung đoàn 101 của Thừa Thiên và Tiểu đoàn 274 của Quảng Bình. ----------- (1) Ông Hùng Việt (Đinh Huy Phan) đã từng tham gia Giải phóng quân ở Chiến khu Việt Bắc, sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, tham gia đội quân Nam tiến, trực tiếp chỉ huy một đơn vị chiến đấu ở Tây Nguyên. --------- Nguồn: như trên.
Trong các trích đoạn trên thấy có ông Trần Sâm, thượng tướng, từng làm thứ trưởng Bộ Quốc Phòng VNDCCH nhiều năm... Thượng tướng Trần Sâm (tên khai sinh: Trần Hầu; bí danh: Trần Bá, Đinh Vu), sinh ngày 5 tháng 4 năm 1918; quê quán xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Theo mình nên có mục các người đã, đang thành đạt trên các lĩnh vực, giữ các chức vụ quan trọng trong và ngoài nước. Để mọi người có thể biết thêm, mình thấy Qtr có nhiều người trẻ và tài năng, thành công... nhưng tiếc là nhân sự cấp cao chính phủ đợt này không có ai thì phải.