Nghệ thuật thư pháp là một Khái niệm qua rộng lớn mà với một bài viết ngắn thì có nhận xét toàn diện về môn nghệ thuật này được. Ở đây mình chỉ xin đưa ra một số khái niệm tổng quan về môn Nghệ thuật này: Thư pháp là gì? Nói đến Thư pháp là nói đến một loại hình nghệ thuật độc đáo. Nhìn chữ viết mà người ta biết được nhân cách của người viết. Do đó, mỗi ký tự viết ra là một nét bút đặc trưng khác nhau tùy theo vị trí và dụng ý của người viết, cũng như tùy thuộc vào lời văn được viết. Nghệ thuật Thư pháp có nguồn gốc từ Trung Hoa Thư pháp là một môn nghệ thuật xuất phát từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam đón nhận, kế thừa và phát triển theo bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện: bút sắt, cọ, thước, compa, êke... Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La tinh. Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt... Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học. Đặc điểm của thư pháp: Bức trung đường chữ "Nhạn"(nxbTN) - Hình dạng bức thư pháp: * Trung đường: Kích thước lớn là đại trung đường, kích thước nhỏ là tiểu trung đường. * Trực bức: Được bố cục theo chiều dọc, thẳng đứng (còn gọi là trục phi) * Đối liên: Là hai tác phẩm dài, được viết đơn lẻ nhưng tương xứng với nhau, đứng song song kết hợp thành một tác phẩm thư pháp. * Hoành phi: Được bố cục theo chiều ngang, thông thường chiều ngang gấp đôi chiều dọc. * Bình điều : có từ 4-12 bức nhỏ kết hợp với nhau thành một tác phẩm thư pháp. * Phiến diện: Là tiểu phẩm được trình bày trên quạt (hình dạng của quạt) hoặc trình bày theo hình vành khăn. - Đề khoản: Đề khoản là dòng chữ nhỏ được viết bên cạnh, song song với chính văn gồm thượng khoản và hạ khoản. Đề khoản còn gọi là lạc khoản. * Thượng khoản là dòng chữ ghi năm, tháng, ngày viết của tác phẩm. Thượng khoản được viết phía trên, chữ bắt đầu của lạc khoản dưới một vài chữ dòng đầu của chính văn. * Hạ khoản thường là dòng chữ ghi tên tuổi của người viết. Hạ khoản được viết phía dưới chữ kết thúc của lạc khoản, trên vài ba chữ dòng cuối của chính văn. Thượng khoản hay hạ khoản viết một dòng thì được gọi là đơn khoản, viết thành hai dòng thì gọi là song khoản. - Ấn chương (triện): Giá bút của một nghệ nhân Thư pháp Ấn chương là con dấu, con triện riêng của tác giả, là con mắt của tác phẩm thư pháp hay một bức họa. Ấn chương có thể được chế tác từ vàng, bạc, ngà... với nhiều hình dạng vô cùng phong phú. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm giá trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỹ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo. Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi: * Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm (âm văn-bạch văn) * Khắc nổi: khi in ra có nét chữ đậm trên nền nhạt (dương văn-chu văn) Ấn chương được chia thành hai loại là danh chương và nhàn chương. Danh chương là con dấu đề tên người viết. Nhàn chương là con dấu khắc năm, tháng, tên thư phòng, thành phố hoặc một câu nói hay mà tác giả tâm đắc. Do đó có rất nhiều loại nhàn chương. - Các kiểu chữ trong Thư pháp: Trong Thư pháp Trung hoa có 5 kiểu chữ chính: Chữ triện, chữ lệ, chữ chân, chữ hành và chữ thảo. Cá biệt còn những loại chữ tạm gọi là "Cuồng Thảo", đây là lối viết Thư pháp mà người phóng bút "thăng hoa" giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ này thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ này, người xem dễ nhận biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ này thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc. Nghệ thuật Thư pháp Trung Hoa nổi tiếng toàn thế giới Ngoài ra, một số bức Thư pháp còn có hình ảnh minh họa về thiên nhiên, trong đó phần tranh có thể chiếm khoảng không gian lớn hơn phần chữ. Với đặc trưng này Thư pháp đã trở thành Thư họa. Vì sự hiểu biết về môn nghệ thuật này còn nhiều giới hạn nên không thể khái quát hết được về giá trị của môn nghệ thuật này rất mong nhiều ý kiến đánh giá nhận xém để chúng ta có thể hiểu thêm về cái Hồn Chữ Việt này bạn nhé! (Bài viết có lấy thêm ý kiến của một số bài viết khác"
Xin được giới thiệu với các bạn một bộ môn nghệ thuật đang phát triển bên Việt Nam, đó là môn Thư pháp. Ở Việt Nam thuở xưa, vào mỗi dịp Xuân về, người dân hay đến nhà những « Thầy Ðồ » hay những người « hay chữ » để xin chữ về treo như một bức tranh, vừa là món đồ trang trí nhưng cũng vừa là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người hay chữ cho chữ bằng cách viết một hay nhiều chữ trên một tờ giấy lớn, với nội dung mang tính cách chúc tụng hay giáo dục, nét chữ thường được khen là đẹp như rồng bay phượng múa. Lối viết như vậy được gọi là Thư Pháp. Thư Pháp là phương pháp viết chữ (đẹp). Cụ Ðồ xưa: Thư pháp là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và lặng lẽ duy trì. Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện : bút sắt, cọ, thước, compa, êke...Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La Tinh. Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt... Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học. Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy, có lẽ ngoại trừ một số người lớn tuổi thâm Nho mới đọc được chữ Hán, chữ Nôm, chớ còn hầu hết là không đọc được. Bởi vậy tại sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt ? Viết chữ Việt cũng đẹp vậy, bởi vì sao giải thích được : « Sao là đẹp ? Sao là không đẹp ? » (KTS Nguyễn Thanh Sơn) « Biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta, chắc gì gọi là đẹp đối với kẻ khác !... biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta bây giờ chắc gì gọi là đẹp đối với ta sau nầy” (Trang Tử). Thư pháp bằng tiếng Việt: Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải "nhiếp tâm" với những gì mình sắp sửa viết ra. Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ khoãng 10 năm nay. Bên Việt Nam nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập trong các thành phố lớn, đã có nhiều "Thư pháp gia" tổ chức những cuộc triển lãm thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Tôi xin giới thiệu với bạn sơ lược về bộ môn nầy. Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn nầy khá dễ, muốn viết sao cũng được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau đây là vài nguyên tắc chánh. Chương pháp: tức là nguyên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng, và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là do ở chương pháp. -Ðầu câu không thụt vô. -Các hàng đều và dài bằng nhau -Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng -Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng -Không dùng dấu chấm câu. Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chánh -Hình chữ nhật đứng (Trung đường) -Hình chữ nhật ngang (Hoành phi) -Hình vuông (Ðấu phương) -Hình mặt quạt (Phiến diện) (coi hình dưới đâÿ) Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hoá rất độc đáo của người Trung Quốc. Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm gía trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỷ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo. Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi : -Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm. -Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt. -Loại nữa chìm nữa nổi Vị trí đặt con dấu: Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng dấu như : -Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương -Ðóng ở thắc lưng thư tác gọi là Yêu chương -Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng của nó. Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà theo cách thực hành sau đây : Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình) ; hoặc tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi là Toàn triện. Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) có sự đồng ý của tác giả Ý thì được quyền đóng dấu ở dưới, bên phải nhưng phải đề tên tác giả Ý phía trên cao, bên trái ; và người viết phải ghi chữ « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Ðồng triện. Trường hợp ngoại lệ : vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý. Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện. Các kiểu chữ trong Thư pháp Trong thư pháp việt ngữ hiện nay xuất hiện 5 kiểu chữ chánh: Chữ Chân Phương, tạm gọi là Chân Tự, là cách viết rõ ràng dễ đọc, rất giống chữ thường. Chữ Cách Diệu, tạm gọi là Biến Tự, là cách viết biến đổi từ chữ Chân Phương mà ra nhưng các chữ cái hơi được biến dạng một chút để tạo ra cái lối viết riêng của mình. Chữ Cá Biệt, tạm gọi là Cuồng Thảo, là lối viết Thư Pháp mà người phóng bút « nhiếp tâm » giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ nầy thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ nầy, người xem dễ biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ nầy thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc. Chữ Mô Phỏng là lối viết mô phỏng dựa theo kiểu chữ của nước ngoài. Có người viết chữ Việt nhìn vào ngỡ chữ Tàu, hay chữ Ả Rập, chữ Miên, v.v... Chữ Mộc bản là kiểu chữ giống như chữ khắc trên mộc hoặc như kiểu thợ sắp chữ của nhà in mà khi viết thì theo một phương pháp đảo lộn, khi xem phải dùng gương phản chiếu. Nhìn vào chữ có dạng Hán-Nôm nhưng đó lại là chữ Việt viết ngược. (Rất tiếc, hình quá mờ nên không đưa lên trang web được) Ngoài ra trong một số tranh Thư Pháp còn có hình ảnh minh họa về thiên nhiên, trong đó phần tranh có thể chiếm khoãng không gian lớn hơn phần chữ. Với đặc trưng nầy Thư Pháp trở thành Thư Họa. Trong một số người viết thư Pháp, có nhiều người là họa sĩ, họ thường biến chữ thành tranh, tranh là hình ảnh của chữ. Lối viết nầy rất khó. Thí dụ như :Ta có thể hình dung ra được khuôn mặt của Ðức Phật Sau đây là chữ "Phật" của Trần Bá Linh: Chữ "Lệ rơi" của Tuấn Hạ : Và cuối cùng là chữ "Mẹ" của Chính Văn: Nếu ta nhìn kỷ thì có thể "thấy" hình dáng người mẹ tóc dài xõa lưng, đứng đưa lưng lại và dang tay ra để đở một đứa bé, đứa bé nầy nhìn ngang, nằm co lại như còn trong bụng mẹ.
oai' !!!! Em rất thích viết thư pháp lém...Nhưng chỉ viết được những bươc đơn giản nhất trhui ...Ai biết có chỗ nào ạy viết thư pháp hông nhỉ????????
anh biết nè ! em vào mấy chổ nhà chùa đóa , hoặc tìm mấy ông đồ vào mấy ngày tết thì em học vô tư !:JFBQ00125061225b:
Tôi rất thích những Cách Viết Thư Pháp trên, cảm ơn Bạn đã tạo nên ~ bài viết hay như thế này để mọi người có thể khám phá và tìm hiểu thêm... HAPPY NEW YEAR !