Được phát động từ đầu năm 2005, cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã lựa ra được 100 thi phẩm xuất sắc và công bố trong Đêm Nguyên tiêu của Ngày thơ Việt Nam (3/3). Nhưng sự vắng mặt của nhiều bài thơ nổi tiếng trong danh sách này không khỏi khiến người yêu thơ phải nuối tiếc. Không thiếu những Tràng giang - Huy Cận; Ông Đồ - Vũ Đình Liên, Đất nước - Nguyễn Đình Thi, Núi Đôi - Văn Cao, Tây tiến - Quang Dũng, Người về - Hoàng Hưng..., cuộc bình chọn do Trung tâm văn hóa Doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục phối hợp tổ chức đã góp phần tôn vinh những sáng tác nổi bật của một thế kỷ thi ca Việt Nam. 100 bài thơ, chia đều cho 100 tác giả, không một ai được vinh dự góp mặt với hơn một sáng tác. Hiện tượng này khiến không ít độc giả ngậm ngùi tiếc nuối khi Xuân Diệu có Nguyệt cầm nhưng không có Đây mùa thu tới hay Vội vàng... Hoàng Cầm có Bên kia sông Đuống nhưng không có Lá diêu bông... Nguyễn Duy có Đò lèn nhưng lại vắng Tre Việt Nam hay Hơi ấm ổ rơm... Lễ khai mạc Ngày thơ Việt Nam lần 5. Ảnh: Hoàng Hà. Tỏ ra thích thú trước kết quả cuộc bình chọn, Mỹ Anh, sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cho biết: "Đây là một bộ sưu tập những bài thơ hay của Việt Nam. Tôi biết phần lớn các bài thơ trong top 100 này, nhưng cũng có nhiều bài tôi chưa hề nghe tên, ví như Một vị tướng về hưu của Nguyễn Đức Mậu, Muôn vàn tình thương yêu trùm lên khắp quê hương của Việt Phương... Chắc chắn tôi sẽ tìm đọc thêm những tác phẩm này". Phong trào Thơ Mới góp mặt trong danh sách với số lượng tác giả, tác phẩm lớn nhất. Tiếp đó là những sáng tác có ảnh hưởng sâu nặng đến suy nghĩ và hành động của bao thế hệ độc giả qua hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp. Nhà văn Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, cho biết: "Chúng tôi nhận được rất nhiều bài viết công phu, thể hiện tình yêu và thái độ trân trọng với thơ ca. Có những độc giả viết đến hàng chục trang bình chọn và đưa ra nhiều lý lẽ bảo vệ cho sự lựa chọn của mình". 100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ 20 đã được Nhà xuất bản in thành sách và phát hành rộng rãi. Danh sách 100 bài thơ hay nhất (Ngoài Nguyên Tiêu, 99 bài còn lại được sắp xếp theo tên tác giả dựa vào bảng chữ cái). 1) Nguyên Tiêu - Hồ Chí Minh. 2) Ngày Hòa bình đầu tiên - Phùng Khắc Bắc. 3) Những bóng người trên sân ga - của Nguyễn Bính. 4) Tạm biệt Huế - Thu Bồn. 5) Vào chùa - của Đồng Đức Bốn. 6) Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh. 7) Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc - Văn Cao. Núi Đôi - Vũ Cao. 9) Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm. 10) Tràng Giang - Huy Cận. 11) Dọn về làng - Nông Quốc Chấn. 12) Quê hương - Nguyễn Bá Chung. 13) Say đi em - Vũ Hoàng Chương. 14) Miền Trung - Hoàng Trần Cương. 15) Đường về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ. 16) Anh đừng khen em - Lâm Thị Mỹ Dạ. 17) Nguyệt cầm - Xuân Diệu. 1 Cô bộ đội ấy đã đi rồi - Phạm Tiến Duật. 19) Tây tiến - Quang Dũng. 20) Lên Côn Sơn - Khương Hữu Dụng. 21) Đò lèn - Nguyễn Duy. 22) Chiều - Hồ Dzếnh. 23) Thăm mả cũ bên đường - Tản Đà. 24) Cha tôi - Lê Đạt. 25) Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm. 26) Núi mường Hung dòng sông Mã - Cầm Giang. 27) Mắt buồn - Bùi Giáng. 2 Hai sắc hoa tigôn - T.T.KH. 29) Đọc thơ ức Trai - Sóng Hồng. 30) Bài thơ tình ở Hàng Châu - Tế Hanh. 31) Trở về quê nội - Ca Lê Hiến. 32) Đêm mưa - Hoàn. 33) Những đứa trẻ chơi trước cửa đền - Thi Hoàng. 34) Cửu Long giang ta ơi - Nguyên Hồng. 35) Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ. 36) Nỗi niềm Thị Nở - Quang Huy. 37) Đường khuya trở bước - Đinh Hùng. 3 Người về - Hoàng Hưng. 39) Đồng chí - Chính Hữu. 40) Khi con tu hú - Tố Hữu. 41) Lên Cấm sơn - Thôi Hữu. 42) Lời nói dối nhân ái - Trang Thế Hy. 43) Gánh nước đêm - Á Nam Trần Tuấn Khải. 44) Tỳ bà - Bích Khê. 45) Gửi bác Trần Nhuận Minh - Trần Đăng Khoa. 46) Thu điếu - Nguyễn Khuyến. 47) Bến Mi Lăng - Yến Lan. 4 Tháp Chàm - Văn Lê. 49) Ông đồ - Vũ Đình Liên. 50) Đèo cả - Hữu Loan. 51) Viếng bạn - Hoàng Lộc. 52) Tiếng thu - Lưu Trọng Lư. 53) Nhớ rừng - Thế Lữ. 54) Một vị tướng về hưu - Nguyễn Đức Mậu. 55) Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây. 56) Dặn con - Trần Nhuận Minh. 57) Hội Lim - Vũ Đình Minh. 5 Khóc người vợ hiền - Tú Mỡ. 59) Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ. 60) Quê hương - Giang Nam. 61) Thị Màu - Anh Ngọc. 62) Nhớ - Hồng Nguyên. 63) Trời và đất - Phan Thị Thanh Nhàn. 64) Người đàn bà ngồi đan - Ý Nhi. 65) Nhớ máu - Trần Mai Ninh. 66) Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh. 67) Bông và mây - Ngô Văn Phú. 6 Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương - Việt Phương. 69) Đợi - Vũ Quần Phương. 70) Tên làng - Y Phương. 71) Lời mẹ dặn - Phùng Quán. 72) Có khi nào - Bùi Minh Quốc. 73) Tự hát - Xuân Quỳnh. 74) Áo lụa Hà Đông - Nguyên Sa. 75) Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao. 76) Người đẹp - Lò Ngân Sủn. 77) Đồng dao cho người lớn - Nguyễn Trọng Tạo. 7 Tống biệt hành - Thâm Tâm. 79) Dấu chân qua trảng cỏ - Thanh Thảo. 80) Đất nước - Nguyễn Đình Thi. 81) Những người đàn bà gánh nước sông - Nguyễn Quang Thiều. 82) Nghe tiếng cuốc kêu - Hữu Thỉnh. 83) Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông. 84) Bờ sông vẫn gió - Trúc Thông. 85) Bến đò ngày mưa - Anh Thơ. 86) Thăm lúa - Trần Hữu Thung. 87) Cổ lũy cô thôn - Phạm Thiên Thư. 8 Nói sao cho vợi - Thu Trang. 89) Mưa đêm lều vó - Trần Huyền Trân. 90) Bên mộ cụ Nguyễn Du - Vương Trọng. 91) Nhớ Huế quê tôi - Thanh Tịnh. 92) Màu thời gian - Đoàn Phú Tứ. 93) Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử. 94) Nhớ vợ - Cầm Vĩnh Ui. 95) Em tắm - Bạc Văn Ùi. 96) Một ngày ta ngoái lại - Đinh Thị Thu Vân. 97) Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng - Chế Lan Viên. 9 Bếp lửa - Bằng Việt. 99) Vườn trong phố - Lưu Quang Vũ. 100) Thương vợ - Trần Tế Xương. (Theo evan.com.vn)
vậy à, hihi, vậy bài Nguyên tiêu là số 1, còn lại không phân thứ hạng. Theo Xu thì không có bài thơ nào được xem là "hay nhât" một cách chung chung, nên phân theo chủ đề thi hơn, như, " bài thơ tình hay nhất", " bài thơ về người lính hay nhất", " bài thơ quê hương hay nhất"... đại loại thế, chứ xếp thế này không phân loại được , voi lai nhieu bai gio moi biet ten, hahah.
Nguyên Tiêu không phải là bài số 1 mà là bài thơ được đánh số thứ tự là 1 trong danh sách. Trong 100 bài này, số thứ tự các bài thơ không nói lên thứ hạng của chúng mà chúng chỉ được đánh số dựa vào tên tác giả, còn bài Nguyên tiêu có lẽ do của cụ Hồ nên được đưa lên đầu danh sách! Đâu cần phải phân loại, đây là 100 bài thơ được bình chọn là hay nhất thế kỉ XX, người ta cố ý gộp chung các thể loại với nhau đấy chứ.
THÔNG TIN THÊM VỀ QUÁ TRÌNH BÌNH CHỌN 100 BÀI THƠ VIỆT NAM HAY NHẤT THẾ KỶ Khi được công bố,100 bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ đã gây sự chú ý của không ít người mê thơ và cả người... thờ ơ với thơ. Dưới đây là cuộc trao đổi với nhà văn Lê Lựu, giám đốc Trung tâm Văn hóa Doanh nhân, thành viên BTC cuộc thi, về quá trình bình chọn. Nhà văn Lê Lựu. - 100 bài thơ VN hay nhất thế kỷ là cái đích có vẻ quá xa và quá rộng so với một cuộc bầu chọn. Ông nghĩ sao? - Không quá đâu, vì thời gian của cuộc bầu chọn là... hai năm. Trong hai năm, độc giả đã có đủ thời gian để đọc, thích thú, cân nhắc, lựa chọn và gửi đi những kết quả cùng với tâm tư, tình cảm của mình. Mỗi người có quyền chọn 100 bài trong danh sách của mình. Với thơ, như vậy không phải là quá nhiều.- Vậy số lượng người tham gia bình chọn là bao nhiêu? - Không quá đông như bình chọn cầu thủ bóng đá nhưng cũng không ít đâu, nếu so với đầu sách thơ đã in ra. Gần 10.000 (tôi không nhớ con số chính xác) thư bình chọn đã gửi đến BTC. Có những người sau khi đã đưa ra danh sách 100 bài thơ mình cho là hay nhất, còn gửi kèm theo những lời bình dài đến... 300 trang A4 được đóng quyển cẩn thận. Chúng tôi hiện lưu giữ khoảng 10 tập “bình thơ” như vậy. - Nhiều người ngỡ ngàng vì kết quả đã được công bố, nhiều bài thơ hay, đi vào tâm thức nhiều thế hệ đã không có tên trong danh sách, và cũng có nhiều bài thơ... lạ (ví dụ như Hữu Loan có tên trong danh sách không phải bằng "Màu tím hoa sim" bất hủ mà lại là "Đèo Cả"). Liệu kết quả có tuyệt đối là sự bầu chọn của độc giả? - Vì phối hợp với NXB Giáo Dục nên tuy đối tượng bầu chọn là tất cả những ai yêu thơ nhưng thực tế vẫn chủ yếu là sinh viên và học sinh trung học tham gia. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng có một hội đồng thẩm định để đọc và so sánh những thư bình chọn của bạn đọc gửi đến với hàng trăm tuyển tập thơ đã in trước đó, chủ yếu để xem có độ chênh nào đáng kể không, có tên tuổi lớn nào bị bỏ sót không. Và đáng mừng là không có ai bị bỏ sót, độ chênh trong các bình chọn của độc giả và của các người làm tuyển chọn thơ chuyên nghiệp không lớn lắm. Trong số 100 bài đã được chọn cuối cùng, thật ra chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài. - Vậy tác dụng xã hội đầu tiên và tích cực nhất của cuộc bầu chọn 100 bài thơ VN hay nhất thế kỷ này là gì? - Chúng tôi không có tham vọng gì lớn, nhưng chí ít cũng đã làm được hai việc: Thứ nhất, khởi động lại mối quan tâm của độc giả với thơ và hâm nóng lại tình yêu thơ (nếu có). Thứ hai, giúp NXB Giáo dục nhìn lại được thẩm mỹ thơ của công chúng và giúp họ có sự lựa chọn rộng rãi và mềm mại hơn khi đưa thơ vào chương trình giáo dục. Những bài thơ trong SGK trước đây có lẽ hơi khô khan và mang nặng tính giáo dục, mà học sinh còn cần cả những cái khác nữa, trước tiên là cần thơ phải hay. Thu Hà thực hiện (Nguồn: Tuổi Trẻ)
Bài thơ QUÊ HƯƠNG của GIANG NAM Một trong 100 bài thơ hay thế kỷ XX Để nghe ngâm thơ các bạn hãy bấm vào link, và sau đó nhập mã số như hướng dẫn. http://www.ziddu.com/viewfile/5380440/Quehuong-GiangNam.mp3.html QUÊ HƯƠNG Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ: "Ai bảo chăn trâu là khổ ?" Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Những ngày trốn học Đuổi bướm cạnh cầu ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào đã khóc Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích... Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ, tôi đi Cô bé nhà bên (có ai ngờ!) Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời... Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi… Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ - Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi)! Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn, ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng… Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật: Giặc bắn em rồi, quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người! Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn, roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. 1960 Dưới đây là bài viết của chính nhà thơ Giang Nam về hoàn cảnh ra đời của bài thơ: QUÊ HƯƠNG, KỈ NIỆM MỘT THỜI Hầu như trong các lần tiếp xúc với bạn đọc của tôi, một câu hỏi luôn được đặt ra: cô gái trong bài thơ Quê hương là ai? Câu chuyện trong bài thơ là có thật hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của tác giả? Sự quan tâm của bạn đọc là chính đáng và theo suy nghĩ của tôi, bắt nguồn từlòng yêu mến bài thơ-một trong những bài thơ tình hiếm hoi đã ra đời ngay trong những năm tháng ác liệt, thóai trào của phong trào cách mạng miền Nam sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Xin phép bạn đọc cho tôi được “dông dài” một tí. Dạo ấy là những năm 1959-1960. Nghị quyết 15 của trung ương vừa ra đời với phương châm đấu tranh chính trị và võ trang song song, tạo cơ sở cho một bước ngoặt lớn trong phong trào cách mạng miền Nam. Nhưng lực lượng địch vẫn còn rất mạnh, chính sách”chống cộng” ngày càng dã man, tàn ác(với Luật 10/59 chúng đã đưa máy chém lên Tây Ninh xử tử hình anh Hoàng Lê Kha, Bí thư Tỉnh ủy lúc bấy giờ).Nhằm chuẩn bị cho tình hình mới, củng cố lực lượng vào đấu tranh võ trang, Tỉnh ủy Khánh Hòa quyết định rút một số cán bộ trước đây được bố trí đổi vùng”ra công khai” trở về. Đang họat động ở vùng ven Sài Gòn (Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Xuân Lộc…) tôi được một cô giao liên”hợp pháp” từ Nha Trang vào bắt liên lạc mang thư của đồng chí Bí thư Tỉnh Ủy và bàn kế họach tổ chức chuyến đi của tôi. Tôi rời thị xã Biên Hòa vào tháng 4-1959 trong vai một công chức trí thức cùng một đồng chí dẫn đường đóng giả làm người buôn bán, để lại nơi thành phố còn lạ lẫm gia đình nhỏ của mình gồm hai người: vợ tôi (cũng là đảng viên, bị lộ phải đổi vùng) và con gái tôi (lúc này cháu mới sinh được 5 tháng). Buổi chia tay thật xót xa: môt bên là nhiệm vụ cách mạng, là tiếng gọi của Đảng; một bên là gia đình: hai mẹ con ốm yếu, không nơi nương tựa. Không phải lúc đầu tôi không có ý định hoãn chuyến đi của mình. Nhưng bức thư của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã dặn dò: tình hình đang khó khăn, cơ sở công khai bị lộ, địch theo dõi gắt gao…nếu không đi được chuyến này thì chưa biết lúc nào mới móc nối lại được. Tôi về chiến khu công tác hơn 6 tháng thì được tin cơ sở báo lên: vợ tôi và cháu đã bị bắt ở Thủ Đức và bị đưa về Sài Gòn giam ở nhà lao Chí Hòa. Con gái tôi còn bú cũng bị bắt theo mẹ. Những ngày sau đó là những ngày dài lo lắng, thương nhớ không nguôi. Vụ tàn sát Phú Lợi năm trước(195, Luật 10/59 vừa mới ra đời, những cuộc lùng sục, càn quét của địch vào các vùng căn cứkháng chiến cũ của ta, hàng ngày tin đồng chí, bạn bè hy sinh bay về dồn dập…mà lối ra thì vẫn còn mờ mịt. Không biết có phải đó là tâm trạng bi quan, mất lòng tin không, nhưng thật tình hồi đó trước sức mạnh vật chất áp đảo của địch, một số cán bộ đảng viên chúng tôi thường nghĩ: mình chiến đấu đây là cho đồng bào, cho con cháu mình chứ chắc gì có thể sống đến ngày thắng lợi hoàn toàn. Riêng tôi luôn tự dắn mình: đã chấp nhận làm cách mạng, đi theo Đảng là chấp nhận hi sinh, không bao giờ đầu hàng, phản bội nhân dân, phản bội đồng chí của mình. Nếu rủi ro bị đich phục kích thì kiên quyết không để chúng bắt sống, cứ chạy cho chúng bắn…Một tuần có chuyến thư tù thành phố lên, qua nhiều trạm giao liên heo hút giữa rừng: địch càn hoặc mưa lũ bị đứt đường một hai tuần lễ là thường. Tôi luôn sống trong chờ đợi, khắc khoải từng chuyến thư về. Cho đến buổi chiều hôm ấy… Đây là một trong những buổi chiều vắng vẻ ở cơ quan Tỉnh ủy Khánh Hòa. Gọi là “cơ quan” thực ra chỉ là mấy dãy gộp đá hiểm trở tựa lưng vào Hòn Dù, một ngọn núi khá cao của Huyện Diên Khánh, nằm về phía Tây thành phố Nha Trang. Từ cơ quan có thể nhìn con suối lượn lờ quanh co dưới xa. Cơ quan chỉ có tám người lại luân phiên đi công tác nên có lúc chỉ còn một, hai đồng chí ở nhà, cả ngày không nghe một tiếng cười. Đêm dồn lại một gộp đá, nghe say mê đài Tiếng nói Việt Nam đến mức thuộc cả chương trình ngày thường, ngày chủ nhật, thuộc cả từng tên anh chị xướng ngôn viên. Tiếng vượn hú, tiếng suối reo đều đều càng nhắc tôi nhớ đến thành phố, nhớ vợ con, bạn bè đang bị tù đầy, tra tấn. Chiều hôm ấy ăn cơm xong, tôi về gộp đá của mình, vừa đốt đèn chuẩn bị ngồi vào bàn thì bất ngờ đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy đến (đồng chí Bí thư đang vào công tác trong thành phố). Sau vài câu chuyện mở đầu, giọng anh bỗng trầm xuống: -Thành phố dưới đó gay lắm, anh Tư ạ. Hôm nay giao liên về có một số tin không vui. Tôi linh cảm có điều chẳng lành: thông thường anh xởi lởi, thật thà không rào trước, đón sau, nói vòng quanh như thế. Quả nhiên anh nói tiếp: -Thư các anh Nha Trang cho biết: cơ sở nội thành của ta đã đi tìm khắp các nhà tù nhưng vẫn không có tin tức gì về chị và cháu. Anh em ngại điều xấu nhất đã xảy ra. Dù có thế nào mong anh hãy vững vàng. Chúng mình là đảng viên, đã quyết tâm ở lại… Tôi không còn nghe gì nữa. cảm ơn anh đã thông cảm, động viên tôi nhưng bằng kinh nghiệm của riêng mình, tôi nghĩ:như thế là tôi đã mất hai người thân yêu nhất của mình, một phần của đời tôi, cuộc sống của tôi. Trong giây lát vụt hiện ra những ngày ngắn ngủi sống bên nhau, buổi đầu gặp gỡ ở chiến khu, tình yêu chớm nở. Và những ngày hoạt động trong thành phố bị lộ tung tích mỗi đứa chạy một nơi: tôi vào Phan Thiết, Biên Hòa, Sài Gòn sống lẫn lộn với anh em thợ da, dân cao su; cô ấy đi Mỹ Tho, Sóc Trăng buôn gánh bán bưng. Ở gần nhau nhưng không thể biết tin nhau vì nguyên tắc bí mật. Rồi những ngày gặp lại nhau và sống trong ngõ hẻm lầy lội đường Trịnh Hòai Đức, Biên Hòa giữa đám mật vụ, công an ngày đêm lùng sực, bao đồng chí bị bắn, bị giết. Hi vọng được sống mãi mãi bên nhau như thế là vĩnh viễn mất đi. Nước mắt tôi trào ra. Đồng chí Phó Bí thư đi rồi, tôi ngồi lại bên bàn ghép bằng cây rừng và bắt đầu viết bài thơ chưa có tên về nỗi mất mát của mình. Từng chữ, từng câu, từng hình ảnh ủa đến sống động, day dứt… hầu như không phải tìm tòi, suy nghĩ nhiều, có lẽ đó là một trong ba bài thơ tôi viết nhanh nhất và không hề có chuẩn bị. Cái gì đã quyết định cho bài thơ ra đời? Theo tôi, đó là giây phút choáng váng nhận được tin buồn đột ngột. Nó là giọt nước cuối cùng làm tràn chiếc cốc tình cảm nhớ thương và chờ đợi của tôi. Nỗi đau đã đến độ bật ra thành thơ. Về mặt nghệ thuật, có lẽ có hai điều tôi muốn tâm sự với bạn đọc. Kỉ niệm càng đẹp, con người càng ngây thơ, trong sáng thì sự mất mát càng lớn. Ở đây là cô gái với mối tình trong sáng, nụ cười khúc khích, đôi mắt đen tròn, tin ở con người, tin ở tình yêu. Thế mà trong phút chốc trở thành nạn nhân của sự trả thù của địch vì cô ấy đã tham gia kháng chiến, đã là du kích…Theo Hiệp định Giơnevơ, địch không được quyền trả thù, nhưng chúng vẫn “tố cộng”, vẫn giết hại người kháng chiến trong đó có người anh ruột tôi. Bài thơ đã miêu tả cô gái, kể chuyện tình yêu của cô với những gì tốt đẹp nhất. Chính vì thế sự mất mát càng đau, càng xót vào lòng. Điều thứ hai tôi lưu ý bạn đọc là trên ¾ bài thơ (26 câu) đã tập trung miêu tả niềm vui, hạnh phúc của tuổi trẻ và tình yêu, không có gì báo hiệu mất mát sẽ đến. Đến câu thứ 27, đột ngột giông tố kéo đến: Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi quăng mất xác Chỉ vì em là du kích em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người… Nỗi đau đột ngột đến mức không tin là sự thật, chính nỗi đau như vậy ập xuống đầu chúng ta. Và hầu như nó cũng dừng đột ngột. Tiếng kêu đau thương không kéo dài trong bài thơ nhưng là để tiếp tục kéo dài, đè nặng lên cuộc sống của chúng ta. Kết thúc bài viết này tôi muốn nhắc lại một kỉ niệm nhỏ. Bài thơ Quê hương ra Hà Nội năm 1960 và năm 1961 được giải nhì của Tạp chí Văn Nghệ. Nhưng bài Quê hương thực sự phổ biến rộng ở miền Nam là vào những năm 1969-1970, giữa phong trào chống Mỹ sôi sục trong các thành thị miền Nam, đặc biệt ở Sài Gòn. Bài thơ được chép tay, truyền tay trong học sinh, sinh viên, được làm tài liệu trong các cuộc đấu tranh. Tôi nhớ mãi lời tâm sự của một sinh viên Sài Gòn, người Bắc di cư đã tham gia phong trào. Khi biết tôi là tác giả bài thơ, anh ấy đã xúc động nói: -Em đã thuộc bài thơ này từ lâu, nhưng em không bao giờ nghĩ đó là bài thơ của một người cộng sản. Khi được bạn cho biết Giang Nam là nhà thơ, hiện ở chiến khu và là đảng viên cộng sản, em như bị choáng váng. Người cộng sản mà cũng có tình yêu cảm động, xót xa đến thế ư? Em hiểu là em có thể đứng cùng trận tuyến với các anh chống Mỹ và bọn tay sai. Và em đã tham gia phong trào. Em mơ ước được gặp anh. Tôi vô cùng xúc động, chỉ biết khẳng định với người bạn trẻ từng bị kẻ địch lừa dối về người cộng sản nhiều năm rồi: -Nếu có người dân nào yêu nước nhất, chịu hy sinh đau khổ nhiều nhất thì đó chính là người cộng sản. Quê hương là một phần của cuộc đời tôi, và có lẽ cũng là của nhiều bè bạn tôi, em ạ. GIANG NAM Nhà thơ Giang Nam (bên trái) và Nguyễn Hữu Hiệp tại liên hoan festival thơ Khánh Hòa năm 2007
Nhà thơ Tế Hanh đã về với con sông quê hương - Nhà thơ Tế Hanh - một trong những người đại biểu cuối cùng của phong trào Thơ mới đã ra đi lúc 12h20 ngày 16 tháng 7 năm 2009. Khi chúng tôi đến nhà riêng của ông tại số 10 Nguyễn Thượng Hiền thì xe ôtô chuyển thi hài ông tới nhà tang lễ vừa chuyển bánh dưới trời Hà Nội mưa như trút nước. Nhà thơ Tế Hanh (1921 - 2009) Cách đây đúng 10 năm tại lễ kỉ niệm 40 năm bộ đội Trường Sơn, nhà thơ Tế Hanh đến dự và bị một cơn tai biến não. Từ đó đến nay ông nằm trên giường bệnh và nhiều lúc chập chờn trong vô thức. Nhà thơ Tế Hanh sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921, quê ở xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi - một vùng gần biển có phong cảnh khá đẹp và dân cư sống chủ yếu bằng nghề chài lưới. Có năng khiếu thơ ca từ nhỏ, lại được tiếp xúc với thơ văn lãng mạn Pháp nên Tế Hanh đã đến với phong trào Thơ mới như một lẽ tự nhiên. Những ngày nghỉ học là bài thơ đầu tiên viết năm 1938. Những sáng tác trong thời Hoa niên đã được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Khi Thơ mới đã bắt đầu đi vào các đề tài siêu thực, siêu hình thì thơ Tế Hanh lại hấp dẫn người đọc bằng sự chân chất và tình cảm. Hàng loạt những bài như Lời con đường quê, Những ngày nghỉ học, Chiếc rổ may đã ghi lại dấu ấn của một trái tim nhân hậu phảng phất những nỗi buồn trong trẻo. Đặc biệt trong thời kì này, ông đã để lại bài thơ thật đặc sắc viết về làng quê chài lưới với dòng sông, với biển cả, với vị men nồng mặn của đất trời, với Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng/Cả thân hình nồng thở vị xa xăm/Con thuyền im bến mỏi trở về nằm/Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ. Nếu nói rằng thơ chống Mĩ bắt nguồn từ thơ đấu tranh thống nhất nước nhà thì Tế Hanh là một trong những nhà thơ có nhiều đóng góp hơn cả. Là nhà thơ miền Nam tập kết ra Bắc, Tế Hanh luôn luôn hướng về quê hương. Những bài thơ của Tế Hanh về đề tài đấu tranh thống nhất, về nỗi nhớ quê hương được xếp vào loại những bài thơ hay nhất, thành công nhất: Nhớ con sông quê hương, Mặt quê hương, Nói chuyện với sông Hiền Lương, Chiêm bao... Đất nước liền một dải, cớ sao lại cắt chia: Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/Tận chân trời mây núi có chia đâu. Tên gọi các tập thơ của Tế Hanh cũng đã phần nào nói lên tình cảm ruột thịt giữa hai miền Nam - Bắc trong suốt 20 năm đấu tranh: Lòng miền Nam (1956), Gửi miền Bắc (195, Tiếng sóng (1960), Hai nửa yêu thương (1963), Khúc ca mới (1966), Đi suốt bài ca (1970), Câu chuyện quê hương (1973), v.v… Thơ Tế Hanh chân thành, trong sáng, giản dị, tình cảm đầm ấm, rung động tinh tế. Nhiều bài thơ hay của ông là sự việc, câu chuyện được dẫn dắt bằng một tình cảm tha thiết dưới ánh sáng của trí tuệ, là sự hài hòa giữa mô tả và biểu hiện, giữa kể và tâm tình. Các tập thơ sau này như Khúc ca mới (1966), Đi suốt bài ca (1970), Câu chuyện quê hương (1973), Theo nhịp tháng ngày (1974), Giữa những ngày xuân (1977), Con đường và dòng sông (1980), Bài ca sự sống (1985), Thơ Tế Hanh (1989), Giữa anh và em (1992), Em chờ anh (1994) đã ghi những dấu mốc quan trọng trên chặng đường sáng tạo của nhà thơ. Các tập thơ của ông là sự thể hiện những rung động sâu sắc về những vấn đề riêng chung, về những sự kiện xã hội, về con người và cuộc sống theo cái “tạng” riêng của mình. Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến những bài thơ tình thật đặc sắc của ông như Vườn xưa, Em ở đâu, Bài thơ tình ở Hàng Châu, Bão. Khi đã bước vào tuổi “xưa nay hiếm”, ông vẫn có những câu thơ da diết đến nao lòng: Tặng em thế kỉ chúng ta/ Niềm vui nỗi khổ đều qua vội vàng. Những năm cuối đời, nhà thơ Tế Hanh bị bệnh về mắt, thị lực giảm sút. Nhiều bài thơ viết trong thời gian này in rõ dấu vết của thời gian tuổi tác và hoàn cảnh riêng của tác giả: Cái thời đá bóng hăm hai đứa/ Nay đánh cờ suông có một mình. Nhưng trên tất cả những nỗi buồn nhân thế vẫn là một mạch sống hồn hậu, tin yêu chảy trong đời như không bao giờ chán nản: Ta vẫn tin mãi nằm bên sự sống/ Như đất như trời như núi như sông. Nhớ con sông quê hương Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng Giữ bao nhiêu kỉ niệm của dòng trôi Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy Bầy chim non bơi lội trên sông Tôi dang tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm hôm chài lưới bên sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển Vẫn trở về lưu luyến bên sông Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng miền Nam Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tôi nhớ cả những người không quen biết Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây Bỗng nghe dâng một nỗi tràn đầy Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới Quê hương ơi lòng tôi cũng như sông Tình Bắc Nam chung chảy một dòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ về sông nước của quê hương Tôi sẽ về sông nước của tình thương Tế Hanh TẾ HANH: Tên thật là Trần Tế Hanh; sinh ngày 20/6/1921; Giải thưởng văn học Tự lực văn đoàn năm 1939, Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt I năm 1996. Tác giả : Lưu Khánh Thơ (Trích VIETNAMNET) (Bài thơ tình ở Hàng Châu của Tế Hanh được bình chọn là một trong 100 bài thơ hay của thế kỷ XX. Nguyễn Hữu Hiệp sẽ giới thiệu với các bạn sau với bài bình của Văn Giá.