Ai muốn tìm hiểu về Rock thì vô đây!

Discussion in 'ROCK' started by Rocker Cô Đơn, Aug 12, 2010.

Thread Status:
Not open for further replies.
  1. Rocker Cô Đơn Thành viên

    Topic này mở ra với mục đích: Tạo sân chơi cho những người muốn tìm hiểu Rock một cách nghiêm túc, có nhiều người nghe Rock và hiểu Rock thật dễ dãi, thực sự buồn vì điều đó, không hiểu về Rock thì đừng nói đến Rock chuyên sâu, ngay cả những ban nhạc Rock phổ cập nhất ở Việt Nam, cũng khó cảm nhận hết cái hay của chính mình, hãy hiểu Rock để yêu Rock hơn, và cảm nhận hết cái hay của Rock, cảm nhận cái hay của Rock thì lại càng yêu hơn, tấm lòng của Rock đang chờ đón bạn.

    Mỗi con người trong chúng ta đều được giảng dạy như nhau Hoá Lý Toán Văn nhưng cách nhìn và trình độ của mỗi người khác nhau điều đó tuỳ thuộc vào tính cách, cá tính của mỗi con người. Bạn học nghe Rock (thực chất là tìm hiều về Rock), không có nghĩa là tôi biến bạn thành môt cái máy chuyên môn, bạn hiểu về Rock để rồi bạn mở rộng tầm nhìn của mình về Rock,khi đó bạn thấy Rock êm dịu hay dữ dội, trong sạch hay thác loạn vẫn là cái nhìn riêng của bạn. Thank u for listening to me!!!

    Phần đầu tiên là phần phân biệt thể loại bác nào thích tham gia học hỏi thì cứ vô, không thích thì biến, không cần phải hỏi han gì cả!

    METAL MUSIC, âm nhạc của Kim Loại:

    Nhạc heavy Metal là thể loại đặc trưng bởi cường độ âm thanh siêu nặng, tiếng đàn guitar lead cao, réo rắt, hơi có phần méo mó do những dụng cụ biến đổi âm điện tử như phơ, mix...
    Nhạc Heavy Metal bắt nguồn từ nhạc BLUE, và dù những band Heavy Metal nổi tiếng nhất là ở Mỹ nhưng Heavy metal lại khởi nguồn ở Anh Quốc.
    Mọi chuyện bắt đầu từ khi THE BEATLES nổi lên, các ban nhạc Blue buộc phải thay đổi để hợp thời, họ bắt đầu chơi "bốc" hơn, sử dụng nhiều nhạc cụ điện tử hơn và dần dần Heavy Metal hình thành.
    [IMG]
    Ban nhạc
    THE BEATLES

    [YOUTUBE]BD3ovfZXO5Q[/YOUTUBE]

    Band Heavy Metal đầu tiên là LED ZEPPELIN ở Mỹ, bắt đầu như một bannhạc Blue bình thường, nhưng ZEp đã chơi một thứ blue dữ dội hơn tất cả những blue band và blue man từ trước tới thời điểm đó. Sau LED là Black Sabbath, ban nhạc kém tinh tế hơn LEd nhưng lại đậm chất METAL ROCK hơn.
    [IMG]
    Ban nhạc LED ZEPPELIN

    Sau đó IRON MAIDEN, MOTOR HEAD những ban nhạc Metal ở Anh tạo nên trào lưu New Wave of British Heavy Metal.

    Là cảm hứng để thrash Metal hình thành. Metallica, Megadeth là những ban nhạc THRASH METAL nổi và đỉnh nhất.
    [IMG]
    Ban nhạc METALLICA


    (Sưu tầm)

  2. Rocker Cô Đơn Thành viên

    Hard Rock - Đá Cứng

    Hard Rock cùng với Heavy Metal là hai thể loại luôn xếp đầu bảng khả năng tra tấn lỗ tai người nghe. Đặc trưng của Hard Rock là tiếng guitar mạnh mẽ hung hãn, nhưng rõ ràng, đơn giản, không lắt léo, rắc rối như guitar của Heavy Metal, muốn tìm hiểu rõ hơn có thể mua đĩa SOS của ban nhạc Heavy Metal Việt Nam Da Vàng để so sánh với Tâm hồn của đá của Bức Tường).
    [YOUTUBE]JzmfpfIq0-4[/YOUTUBE]
    Đã là Hard (nặng) thì tất nhiên Hard Rock dữ dội, nhưng vẫn còn thua Heavy Metal một bậc. Và Hard Rock ít khi có chút gì ảnh hưởng của PUNK ROCK dù Hard Rock là nguồn cảm hứng của PUNK ROCK. Hard Rock với những đoạn guitar dữ dội, điệp khúc mạnh mẽ cá tính rất "đàn ông" luôn cuốn hút người nghe. Nhiều lúc khó phân biệt ban này ban kia là Hard Rock hay Heavy Metal (bon jovi, Guns N Roses) nhưng điểm khác nhau cơ bản giữa Hard Rock và Metal là ở nội dung. Metal là loại nhạc thực sự đen tối: với chết chóc, s.e.x, chiến tranh, điên dại còn HARD ROCK thì vẫn giữ lại cho mình nhiều chủ đề trong sáng như tình yêu, tình bạn hoà bình - AEROSMITH, SKID ROW, SCORPIONS, HEART. Một điểm khác nữa là các Heavy Metal Rocker thường sử dụng nhạc cụ mang tính cá nhân, phô diễn tài năng của bản thân, bởi thế Metallica , Megadeth, Dream Theater mới có những đoạn chơi Guitar SOLO, Lead độc diễn, Bazz/ Drum Solo(solo là đơn lẻ, chơi nhạc cụ solo là chơi lẻ), thậm chí có những bản INSTRUMentAL Rock(chới nhạc cụ chay, không lời) dài 10 , 15 phút thậm chí 30 phút kinh điển. Còn các Hard Rock Rocker chơi nhạc hoà vào nhau mang tính đồng đội hơn.
    [IMG]
    Ban nhạc AEROSMITH

    Lịch sử Phát triển : cũng như METAL MUSIC, Hard Rock khởi nguồn từ cùng người mẹ : Blue. Được sự khởi động mạnh mẽ của Janis Joplin(nữ Rocker đầu tiên của nhân loại); Jimmy Hendrix (vua guitar của mọi thời đại đã qua đời ỏ tuổi 27 vì sử dụng ma tuý quá liều), rồi nhiều nghệ sỹ khác như CREAM, JEFF BECK GROUP những người đại diện cho lớp Rocker vừa Rock vừa Hít Ma tuý. Để rồi Hard Rock khuấy động nền âm nhạc thế giới với Aerosmith, Heart, Skid Row.v.v.v và giờ đây ở Việt Nam là Bức Tuờng.

    (sưu tầm)
    Trầm Tích and Loppro_106 like this.
  3. Rocker Cô Đơn Thành viên

    Thrash Metal

    Âm nhạc là cả một quá trình tiến hóa mạnh mẽ. Beatles sẽ không tồn tại nếu không có Elvis Presley. Jimi Hendrix sẽ không tồn tại nếu không có Beatles. Black Sabbath sẽ không tồn tại nếu không có Jimi Hendrix. Cứ như vậy, chuỗi xích đó dường như dài bất tận, không có điểm dừng. Ý tưởng làm nảy sinh ý tưởng, tài năng này tạo cảm hứng cho tài năng khác nổi lên, và dường như sức sáng tạo của con người là vô hạn.

    [IMG]
    Ban Nhạc Black Sabbath

    Thrash metal, trong vòng xoáy mạnh mẽ của âm nhạc nửa sau thế kỉ 20, là 1 nhánh phát triển tất yếu của Heavy Metal đầu thập kỉ 80 như là 1 đối trọng với dòng Pop Metal đang thống lĩnh thế giới rock thời bấy giờ. Thrash Metal, định nghĩa đơn giản là thứ nhạc heavy metal được gia cố thêm phần sức mạnh và kĩ thuật, đồng thời cắt bớt đi phần giai điệu. Về mặt kĩ thuật, các ban thrash được biết đến nhờ những cú riff dầy, nhanh, mạnh và khá phức tạp. Kiểu chơi guitar phổ biến của dòng thrash là palm muting, 1 kĩ thuật tạo ra tiếng guitar đục, bập bùng. Trống chơi cực kì máu lửa, trong đó sử dụng nhiều double bass drum. (cả 2 kĩ thuật này về sau rất phổ biến trong giới extreme metal, nhưng thrash là dòng đầu tiên làm cho chúng được biết đến rộng rãi). Thời kì cực thịnh của Thrash Metal là nửa sau thập kỉ 80 cho đến đầu thập kỉ 90, trước khi Death Metal và Grunge chiếm hết đất diễn của Thrash. Những ban nhạc nổi tiếng nhất, trước tiên phải kể đến tứ trụ Metallica, Megadeth, Slayer, Anthrax. Sau đó đến Pantera, Testament, Exodus, Overkill, Annihilator và bộ ba đến từ nước Đức Sodom, Kreator, Destruction. Thrash không bó hẹp mà có rất nhiều sự vay mượn âm thanh từ các dòng nhạc khác. Một vài ví dụ về những ban loại này là Death Thrash (Sepultura và Sadus), Progressive Thrash (Voivod, Watchtower, Mekong Delta), Hardcore Thrash - hay Crossover Thrash (Suicidal Tendencies, Accussed, Corrosion of Conformity), ...

    [IMG]
    Ban Nhạc MegaDeath

    II - Nguồn gốc và sự hình thành của Thrash Metal:


    Thrash được tạo ra nhờ sự kết hợp của 2 dòng nhạc Hardcore punk và New Wave Of British Heavy Metal (NWOBHM).

    Hardcore Punk (hoặc Hardcore) là phiên bản cực đoan của Punk Rock thập kỉ 70, rất phổ biến ở Mĩ. Hardcore Punk có tempo nhanh, ồn ào, các ca khúc thường khá ngắn và không tuân theo những qui tắc thông thường về chorus-verse. Bốn ban nhạc hardcore nổi tiếng hơn cả là Black Flag đến từ Los Angeles, Minor Threat và The Bad Brains đến từ Washington DC, Misfits đến từ New York (ban nhạc của Glenn Danzig).
    NWOBHM ngược lại, là thứ metal bùng nổ mạnh mẽ ở Anh Quốc cuối thập kỉ 70 khi mà 3 con khủng long của Hardrock - Heavy Metal thời bấy giờ là Deep Purple, Led Zeppelin và Black Sabbath đã thoái trào. NWOBHM sản sinh ra những ban nhạc huyền thoại mà đáng kể hơn cả là Iron Maiden, Def Leppard, Motorhead, Venom (2 ban này được coi là những vị cha già của Thrash/Speed), Angel Witch, Raven và Saxon.

    [IMG]
    Ban Nhạc Motorhead

    Cuối thập kỉ 70 đầu thập kỉ 80, Motorhead đang là 1 trong những ban đi đầu trào lưu NWOBHM, nhưng thứ nhạc của họ thì nhanh hơn tất cả các ban nhạc khác của NWOBHM, và nhiều người bắt đầu gọi những âm thanh họ tạo ra là Speed Metal. Với những tác phẩm kinh điển như Bomber, Overkill hay Ace Of Spades, Motorhead là 1 hiện tượng thời bấy giờ. Tuy chơi tốc độ hơn hẳn những ban nhạc cùng thời nhưng Motorhead vẫn chưa hề tách khỏi cái gốc rễ Rock'N' Roll. Lyric của họ vẫn nằm trong khuôn khổ Heavy Metal truyền thống. Nhu cầu muốn được chứng kiến 1 thứ nhạc đột phá hơn, giận dữ hơn ngày càng tăng trong giới Heavy Metal. Kẻ đầu tiên làm được điều đó là Venom. Tháng 11 năm 1981, tại thành phố Newcastle, miền Tây Bắc nước Anh, 1 ban nhạc có cái tên xa lạ Venom tung ra album đầu tay Welcome To Hell sau 2 demo không mấy thành công, và ngay lập tức nhận được sự chú ý của giới metal underground. Welcome to Hell gây tiếng vang không chỉ vì nó là album tàn bạo nhất lúc bấy giờ, mà còn vì thứ âm thanh mà ban nhạc tạo ra thực sự gây cuốn hút chứ không chỉ là một mớ hỗn độn. Thực chất, Welcome To Hell mới chỉ là 1 tuyển tập demo của ban nhạc chứ chưa phải là 1 album đúng nghĩa. Phải đến album thứ 2 Black Metal, Venom mới khẳng định được mình như là kẻ tiên phong, vị chúa tể của Extreme Metal. Tư tưởng Anti-Christ, tôn thờ Satan cực đoan của Venom đã trở thành 1 trong những cái kim chỉ nam cho Extreme Metal sau này.


    Trong lúc Heavy Metal đang có những chuyển động mạnh mẽ ở nước Anh thì tại Mĩ, những đợt sóng ngầm Metal cũng đang chực dâng trào và chỉ còn chờ thời cơ chín muồi là trỗi dậy. Câu chuyện về Thrash metal Mĩ bắt đầu từ một club nhỏ có tên Ruthie's Inn (thường được gọi là "Woodstock") tại thành phố Berkeley, bang California (rất gần với Bay Area và cây cầu Golden Gate nổi tiếng). Đây vốn là 1 club chuyên chơi jazz và blues, với sức chứa khoảng 300 người, nhưng không hiểu sao quản lí CLB lại dần chuyển sang đặt chỗ cho các band chơi metal vô danh tiểu tốt (có lẽ vì jazz và blues bị cạnh tranh dữ quá). Hàng loạt ban nhạc trẻ ở các vùng lân cận tập hợp đến đây chơi nhạc, biến Ruthie's Inn thành 1 metal club thực sự. Rất nhiều trong số những cái tên đó sau này đã trở thành huyền thoại: Whiplash, Testament, Exodus, Possessed, Death angel, Slayer và Metallica. Đây cũng là nguồn gốc của cái tên Bay Area Thrash nổi tiếng trong giới metal, vì một phần lớn những ban nhạc chơi tại Ruthie's Inn đến từ Bay Area (không có Slayer trong nhóm này).Club nhanh chóng trở thành 1 điểm đến quan trọng cho giới trẻ nghiền metal và hầu hết các ban nhạc địa phương thời bấy giờ. Ba ban nhạc xuất hiện nhiều nhất: Metallica, Exodus và sau này là Testament thường xuyên tụ tập chè chén, lấy cảm hứng để dượt tốc độ trên sàn diễn. Trong thời kì đầu các ban thrash cover lại khá nhiều ca khúc của hardcore hay NWOBHM. Các ca khúc của NWOBHM rất được hưởng ứng vì nhiều người trong đám đông khán giả chưa hề được biết đến những ban nhạc như Iron Maiden hay Angel Witch từ tận nước Anh xa xôi.


    Thực ra nhiều ban nhạc đã ra đời khá lâu trước khi tụ tập với nhau ở Ruthie's Inn. Đó là nhờ công của 1 người có tên Brian Slagel (là chủ hãng đĩa Metal Blade - sau này gây dựng nên sự nghiệp cũng chính nhờ các ban thrash). Bộ đĩa Metal Massacre do Brian tuyển tập, bao gồm ca khúc của các ban chơi thrash trong vùng San Francisco/ Los Angeles, rất được hưởng ứng trong giới underground. Brian cũng chính là người đã nâng đỡ 2 ban nhạc Metallica và Slayer, giúp họ tung ra 2 album được coi là sự khởi đầu của thrash: Kill 'Em All và Show No Mercy, đều vào năm 1983. Mặc dù không thể nói đây là 2 album đầu tiên của thrash nhưng rõ ràng từ "Thrash Metal" chỉ được biết đến sau khi 2 album này ra đời. Cũng trong năm 1983, tại thành phố New York ở Đông Bắc nước Mĩ (San Francisco thì ở tít Tây Bắc), 1 ban Metal trẻ đầy triển vọng có cái tên ghê sợ Anthrax tung ra album đầu tay của mình: Fistful Of Metal. Nhìn chung cả 3 album này đều là những album có chất lượng rất cao tuy rằng thu âm thì còn khá thô. Những ca khúc như Metal Militia, The Four Horsemen, Hit the Ligh*** Seek & Destroy của Metallica; Evil Has No Boundaries, The Antichrist, Show No Mercy của Slayer; Deathrider, Metal Thrashing Mad của Anthrax đều là những ca khúc cột mốc của Thrash. Cùng năm này ban nhạc Thrash/Speed metal Canada Exciter thầm lặng tung ra album đầu tay Heavy Metal Maniac. Ban nhạc này có điểm đặc biệt là tay trống Dan Beehler kiêm luôn nhiệm vụ vocal. Năm 1983 cũng chứng kiến 1 sự kiện quan trọng khác của Thrash Metal khi mà Metallica sa thải tay guitar Dave Mustaine với lí do rượu chè bê tha và kéo về Kirk Hammet từ Exodus. Kết quả là Exodus phải mướn thêm tay guitar Rick Hunolt lấp chỗ trống, còn Dave Mustaine tức khí lập nên Megadeth. Sự kiện này gây ra 1 xáo trộn lớn trong giới Thrash, không những không theo hướng xấu mà ngược lại, thay vì chỉ có 2 ban đỉnh cao thì nay có thêm 1 ban: Megadeth. Tất cả các nhân vật trên: Kirk, Dave và Rick sau này đều trở thành những tay guitar xuất chúng.

    [YOUTUBE]6KDO_yCYcuU[/YOUTUBE]


    III - Thời kì cất cánh bay cao:


    Bước sang năm 1984, Thrash Metal đã thực sự gây được tiếng vang và thu hút sự chú ý của các metalhead toàn cầu. Metallica bước vào độ chín với album tuyệt vời Ride The Lightning, 1 album chứng kiến sự trưởng thành của ban nhạc trong việc sáng tác và thể hiện ca khúc. Tất cả các ca khúc trong Ride The Lightning đều hay, mà nổi bật hơn cả là bản ballad đột phá Fade To Black. Tại Seattle, nhóm Metal Church tung ra album đầu tay cùng tên ban nhạc và ngay lập tức leo lên đỉnh cao của thể loại speed metal. Trong khi đó, Slayer tuy không tung ra album mới nhưng lại tiếp tục có 1 EP gây được tiếng vang Haunting The Chapel. Châu Âu cũng bắt đầu rậm rịch khi Destruction và Sodom đều tung ra EP đầu tay. Tại Thụy Sĩ, nhóm nhạc có nhiều ảnh hưởng tới Thrash/Black/Death là Celtic Frost tung ra đĩa Morbid Tales, được coi là album nặng nhất tính đến lúc bấy giờ (tiền thân của Celtic Frost là Hellhammer - ban nhạc chưa hề ghi âm album nào nhưng đã có 1 demo cực kì nổi tiếng Apocalyptic Raids). Về sau Celtic Frost được đánh giá là chỉ xếp sau Venom về mức độ ảnh hưởng tới Extreme Metal. Một vài album đáng chú ý khác là Laaz Rockit - City's Gonna Burn, Exciter - Violence & force, Living Death - Vengeance of Hell.


    Năm 1985 chứng kiến hàng loạt những con khủng long của Thrash tung ra album đầu tay, khởi đầu cho sự nghiệp lẫy lừng của họ. Nổi tiếng hơn cả là Bonded By Blood của nhóm Exodus, một trong những album được giới thrash đánh giá cao nhất. Bonded By Blood sở dĩ được yêu thích nhiều như vậy là vì nó có chứa những cú riff cực kì đẹp mắt, nhưng lại rất đặc trưng mà cho đến thời điểm bấy giờ chỉ có Exodus làm được. Những ca khúc như Bonded By Blood, Exodus, Piranha và đặc biệt là A Lesson In Violence đến nay vẫn nằm trong số những ca khúc xuất sắc nhất của Exodus. Nó cũng góp phần làm nổi bật tên tuổi của Bay Area Thrash trong giới metal underground. Tuy vậy, quá trình ghi âm và phát hành album này đã khiến Bonded By Blood thất bại trong việc giành được nhiều thành công hơn. Đáng ra album phải được phát hành từ cuối năm 1983, và nếu như vậy có lẽ nó sẽ cuốn phăng cả Kill 'Em All của Metallica, Show No Mercy của Slayer hay Fistful of Metal của Anthrax để trở thành 1 cột mốc của Thrash. Rất tiếc, công ti thu âm của Exodus với tầm nhìn hạn hẹp và thiếu can đảm đã chậm trễ trong việc tung ra 1 tuyệt phẩm trong bối cảnh Thrash Metal mới chập chững những bước đầu tiên. Sự chậm trễ đó đồng nghĩa với việc Exodus phải chịu lép vế các ban nhạc tung ra album trước, dù tính về tuổi đời, họ là 1 trong những ban Thrash tiên phong. Cũng nổi bật không kém Exodus là Spreading The Disease của Anthrax - album thứ 2 và cũng là 1 bước tiến vượt bậc so với album đầu tiên của họ. Spreading the Disease sản sinh ra 1 loạt hit track mà Anthrax thường xuyên sử dụng để diễn live, đáng kể hơn cả là A.I.R, Madhouse và Armed and Dangerous. Spreading The Disease cùng với Among The Living là 2 album xuất sắc nhất của Anthrax.

    ***Một số album khác trong năm 1985:
    *Killing is My Business của Megadeth - album tràn đầy năng lượng nhưng Dave Mustaine và các chiến hữu mới vẫn còn thiếu 1 chút định hướng.
    *Hell Awaits của Slayer - ban nhạc càng ngày càng chơi chín chắn hơn
    *Feel The Fire của Overkill - album khởi đầu cho 1 chuỗi những đĩa nhạc rất đều tay của ban nhạc đến từ New York.
    *Seven Churches của Possessed - Death Metal được khai sinh từ đây
    *Energetic Disassembly của Watchtower - 1 trong những cột mốc của Progressive Thrash nói riêng và Prog Metal nói chung.
    *Ở châu Âu, bộ ba khủng long của Thrash Metal Đức là Sodom, Kreator và Destruction đồng loạt ra album đầu tay. Mặc dù chất lượng chưa được tốt nhưng những album này góp phần quan trọng đẩy mạnh phong trào thrash ở châu Âu.
    *We Have Arrived của Dark Angel - đồng hương của Slayer với lối đánh cũng hung hăng không kém.

    1986 có thể nói là năm đỉnh cao của Thrash Metal, và cũng là 1 trong những điểm nhấn quan trọng nhất trong lịch sử Heavy Metal. Lúc này Thrash Metal đã rất phổ biến trong giới trẻ Hoa Kì, các buổi biểu diễn kể cả ở các sân khấu nhỏ cho đến những sân vận động lớn thường rất đông khán giả. Quá nhiều tuyệt tác ra đời trong năm 1986 mà tầm ảnh hưởng của nó vẫn còn rất lớn cho tới tận ngày nay. Các tuyệt tác đó là: Master Of Puppets của Metallica, Reign In Blood của Slayer, Peace Sells của Megadeth, Pleasure To Kill của Kreator. 2 đĩa đầu tiên có thể nói là 2 album đứng đầu của Thrash, còn Megadeth tuy chơi rất hay nhưng chưa đạt đến đỉnh cao (phải đến năm 1990 họ mới lên đỉnh).


    Về Master Of Puppets của Metallica thì có lẽ không cần nói quá nhiều. Đây là album được đánh giá cao nhất của Thrash Metal, một đĩa nhạc gần như hoàn hảo, tất cả các track đều hay. Ca khúc nổi tiếng nhất của Thrash cũng chính là ca khúc cùng tên album, nội dung ẩn dụ nói về ma túy, với tiếng guitar mạnh mẽ mà cực kì ngọt ngào của bộ đôi James Hetfield và Kirk Hammet. Còn track khởi đầu album là Battery thì chỉ thua kém Master Of Puppets một chút về danh tiếng, trong khi track 7 Orion thì là 1 trong những bản instrumental xuất sắc nhất trong lịch sử Heavy Metal. Master Of Puppets giúp cho tiếng tăm của Metallica vượt ra ngoài giới Heavy Metal để tiến vào giới Mainstream Rock, đồng thời cũng là album thrash metal đầu tiên đạt đĩa vàng ở Mĩ. Những âm thanh của nó đã trở thành 1 trong những chuẩn mực của Heavy Metal đương đại, khiến cho hàng loạt ban Thrash ra đời sau này cố gắng copy lại hình ảnh của Metallica trong Master Of Puppets.


    Slayer, chiến hữu của Metallica cũng đã có 1 năm thành công không kém với tuyệt phẩm Reign In Blood, một trong những đĩa Thrash Metal dữ dội nhất. Reign In Blood có độ dài cực ngắn, nhưng lại đem đến những cú riff và solo đã nhất mà Thrash từng sản sinh ra. Khởi đầu với Angel Of Death và kết thúc bằng Raining Blood, album này tôn vinh tài năng của cặp đôi guitar Kerry King và Jeff Hanneman, đồng thời khẳng định vị trí số 1 của tay trống Dave Lombardo trong làng trống Thrash.


    Trong khi đó, Peace Sells... But Who's Buying lần đầu tiên khẳng định tầm vóc của Megadeth như là 1 trong những ban nhạc xuất sắc nhất của Thrash. Wake Up Dead, The Conjuring hay Peace Sells đều là những ca khúc điển hình của Megadeth, lyric giận dữ và đề cập nhiều đến vấn đề chính trị. Tuy vậy album này có 1 hạt sạn là bản cover I Ain't Superstitious, bị nhiều fan xếp vào 1 trong những ca khúc dở nhất của Megadeth.


    Tại châu Âu, Kreator với Pleasure To Kill nhanh chóng được thừa nhận như là album số 1 của Thrash châu Âu và đồng thời cũng đem lại cho ban nhạc vị trí kẻ lãnh đạo Thrash Metal lục địa già. Pleasure to Kill mạnh mẽ không kém gì Reign In Blood của Slayer, cũng chứa hàng tá những cú riff và solo đẹp mắt, độc đáo nhãn hiệu Kreator. Điểm yếu lớn nhất có lẽ là production của album này tệ hơn hẳn so với các album cùng thời ở Mĩ.


    Ngoài 4 album kể trên, 1986 còn được biết đến vì nó đã sản sinh ra nhiều album xuất sắc khác, nhưng chúng bị che lấp dưới cái bóng của các ban đàn anh và đã không đạt được thành công như mong đợi. Đó là Eternal Devastation của Destruction, Darkness Descends của Dark Angel, Doomsday For The Deceiver của Flotsam & Jetsam, Game Over của Nuclear Assault.


    Năm 1986, tuy vậy, không chỉ có toàn các sự kiện vui. Một trong những bi kịch đáng tiếc nhất của Thrash đã xảy ra vào tháng 9-1986 tại Thụy Điển khi chiếc xe chở ban nhạc Metallica trên đường lưu diễn gặp tai nạn. Kết quả là Cliff Burton, tay bass xuất sắc nhất của Thrash Metal và cũng là 1 trong những huyền thoại trong làng Heavy Metal, đã qua đời do bị chính chiếc xe đổ đè lên. Sau này Jason Newsted - tay bass được Metallica kéo về từ Flotsam & Jetsam - thừa nhận anh không thể nào lấp đầy khoảng trống mà Cliff để lại.


    Từ 1987 - 1990, cái sân khấu Thrash Metal càng ngày càng trở nên phình to và bão hòa bởi sự xuất hiện của quá nhiều ban nhạc. Tuy vậy, những tuyệt tác mới vẫn tiếp tục được sản sinh đều đặn. Sau một năm 1986 quá thành công, các ban thrash đầu đàn đều được đón nhận rộng rãi. Điều này dẫn đến việc các ban nhạc mới xuất hiện khắp nơi, nhưng những âm thanh lạ và đặc sắc thì không nhiều. Vẫn là những ban cũ làm chủ sân khấu lớn. Metallica tiếp tục cho ra đời 1 tuyệt phẩm - ...And Justice For All - với video clip One rất được hâm mộ trên kênh truyền hình MTV. One cũng trở thành ca khúc đầu tiên của Metallica đem lại cho họ 1 giải Grammy - 1 sự thừa nhận của giới Mainstream đối với tài năng của ban nhạc.

    Megadeth thì càng chơi càng hay, sau Peace Sells là So Far, So Good, So What 1988, rồi đến Rust In Peace 1990 - album xuất sắc nhất của Megadeth với 2 ca khúc nổi tiếng Holy Wars và Hangar 18. Tuy vậy trong khoảng thời gian này nhân sự ban nhạc thay đổi xoành xoạch. Sau khi chia tay với guitarist Chris Poland, Dave rước về Jeff Young để chơi trong So Far So Good So What, tiếp đó Jeff cũng phải ra đi nhường chỗ cho Marty Friedman - 1 huyền thoại của speed metal.
    Cùng lúc đó Slayer gây ra một bất ngờ với South Of Heaven 1988, album mà ban nhạc chơi chậm hơn nhiều so với tất cả các đĩa trước của họ. South Of Heaven, tuy vậy, vẫn là 1 album đầy u ám và cực kì xuất sắc. Năm 1990, Slayer tiếp tục gây sóng gió với đĩa Seasons In The Abyss nhờ các ca khúc War Ensemble, Seasons In The Abyss.
    Trong số tứ trụ, Anthrax có lẽ chơi bớt máu lửa hơn cả, nhất là sau đĩa Among The Living 1987. State Of Euphoria và Persistence Of Time tuy vẫn hay nhưng có lẽ đã mất đi phần nào tính sáng tạo so với những album trước của Anthrax.
    Tại châu Âu, Kreator, Sodom và Destruction tiếp tục làm mưa làm gió. Trong khi Sodom chơi cực nặng với Agent Orange; Destruction tập trung vào tiếng guitar với Release From Agony thì Kreator đã bớt hung hăng nhưng vẫn rất ngọt ngào với Terrible Certainty, Extreme Aggression. Phần Lan đóng góp 1 đại diện xuất sắc là Stone với 2 album khá hay là Stone và No Anesthesia. Thụy Sĩ cũng gây ngạc nhiên với ban Coroner và loạt 3 album rất đều tay R.I.P 1987, Punishment for Decadence 1988 và No More Colour 1989.

    Ngoài ra phải kể đến những album sau:

    *Testament - The Legacy 1987, The New Order 1988 và Practice What You Preach 1989: 3 album liên tiếp như những quả bom của ban nhạc đến từ vùng Bay Area nổi tiếng đem lại cho Testament 1 vị trí trong tứ trụ của Thrash trước khi bị Megadeth qua mặt.
    *Forbidden - Forbidden Evil: Lại là Bay Area Thrash ở dạng tinh túy nhất, album Forbidden Evil với ca khúc Chalice Of Blood đem lại cho ban nhạc 1 chỗ đứng vững chắc trong làng thrash.
    *Exodus - Fabulous Disaster: ra 3 album trong thời gian này nhưng trong khi Fabulous Disaster là 1 album rất hay của Exodus thì những đĩa còn lại đều gây thất vọng. Đây cũng là 1 nguyên nhân khiến cho ban nhạc đi xuống thấy rõ trong thập kỉ 90.
    *Sepultura - Beneath The Remains 1989: 2 album đầu cho thấy một Sepultura đầy tiềm năng, nhưng phải đến Beneath The Remains, Sepultura mới thực sự chứng minh được khả năng của mình. Thứ Death/Thrash hung hăng mà đậm chất kĩ thuật của họ giúp cho tên tuổi của thủ lĩnh Max Cavalera nổi như cồn. Đồng thời Sepultura trở thành ban nhạc nổi tiếng nhất mà Brazil từng sản sinh ra.
    *Mekong Delta - The Music Of Erich Zann: Ban Progressive Thrash khá kĩ thuật của Đức với một chút âm hưởng nhạc cổ điển.
    *Death - Scream Bloody Gore 1987, Morbid Angel - Altars Of Madness 1989, Obituary - Slowly We Rot 1989: những cột mốc đánh dấu sự hình thành của Death Metal, làm nổi bật tên tuổi của Florida như là cái nôi của dòng nhạc này.
    *Annihilator - Alice In Hell 1989 và Never, Neverland 1990: 2 album đầu tay tuyệt vời của ban Melodic Thrash Metal đến từ Canada cũng là cái bệ phóng cho danh tiếng của thủ lĩnh Jeff Waters. Cả 2 album này đều có phần guitar cực kì ngọt và xuất sắc do Jeff đảm nhiệm.
    *Death Angel - The Ultra-Violence và ACT III: Lại là 1 ban Bay Area Thrash, nhưng thứ Thrash của Death Angel không hề hung bạo mà rất quyến rũ.
    *Overkill - Taking Over 1987, Under The Influence 1988 và Years Of Decay 1989: Trong cả sự nghiệp của mình, gần như không có album nào của Overkill là dở cả. Ban nhạc luôn biết cách kết hợp một cách tốt nhất tốc độ vũ bão và những âm thanh êm tai.
    *Watchtower - Control & Resistance: album thứ 2 và cũng là cuối cùng của Watchtower một lần nữa lại khẳng định khả năng làm xiếc với nhạc cụ của các thành viên.
    *Voivod - Dimension Hartross 1988 và Nothingface 1989: Thứ Progressive Thrash trên đỉnh cao của nó. The Unknown Knows trong Nothingface có lẽ là ca khúc số 1 của Prog Thrash.

    [IMG]

    Ban Nhạc Metallica

    IV - Thời kì thoái trào và đổi mới:

    Thập kỉ 90 chứng kiến sự thoái trào của Thrash cùng làn sóng thay đổi phong cách của các ban nhạc. Âm nhạc thế giới biến đổi quá nhiều trong khoảng thời gian này. Đầu thập kỉ 90, 1 nhóm nhỏ các ban nhạc ở thành phố Seattle miền Tây Bắc nước Mĩ thử nghiệm kết hợp Metal với Punk, rồi cố gắng bóp méo những âm thanh mà họ thu được. Kết quả quá là mĩ mãn. Grunge - dòng nhạc ra đời từ sự kết hợp đó - nhanh chóng tạo nên 1 cơn sốt, đồng thời cuốn phăng những ban Heavy Metal đang chiếm lĩnh sân khấu lúc bấy giờ. Đi đầu là bộ tứ Nirvana, Pearl Jam, Alice In Chains, Soundgarden, Grunge không những nhận được sự ủng hộ của đông đảo người nghe mà còn được giới phê bình đánh giá rất cao. Cùng lúc đó, một sự thử nghiệm khác là Rap + Metal lần đầu tiên gây được tiếng vang khi nhóm Rage Against The Machine đạt được thành công vang dội với album đầu tay cùng tên năm 1992. Đây cũng là khởi điểm cho dòng Nu-Metal rất thịnh hành ở nước Mĩ về sau này. Trong khi đó các nhóm chơi Death Metal càng ngày càng lớn mạnh, thứ nhạc này đã nhanh chóng vượt ra ngoài biên giới bang Florida để xâm chiếm châu Âu và nhiều vùng khác của nước Mĩ. Sân khấu ca nhạc trở nên quá chật hẹp, nhất là đối với 1 dòng nhạc mới manh nha vượt ra khỏi thế giới underground như Thrash Metal. Kết quả là hầu hết các ban Thrash Metal nhỏ và vừa phải tan rã hoặc chỉ hoạt động cầm chừng. Những ban nhạc lớn với danh tiếng sẵn có của mình vẫn tiếp tục hoạt động nhưng phải cải tiến âm thanh theo hướng tiếp cận với đám đông khán giả - điều này đồng nghĩa với việc thay đổi dòng nhạc, hoặc phải thêm thắt rất nhiều giai điệu dễ nghe cho phù hợp với tình hình mới.


    Đi đầu cho sự đổi mới dĩ nhiên là ông trùm của Thrash - Metallica. The Black Album năm 1991 là album tiêu thụ được nhiều nhất của Metallica cho đến thời điểm này (15 triệu bản), và cũng là album dễ nghe nhất của họ. Vẫn là những âm thanh chát chúa của Thrash, nhưng không còn tốc độ vũ bão và những cú riff phức tạp ngày nào. Thay vào đó là những cú riff đơn giản nhưng rất giàu giai điệu, thậm chí album này còn có tới 2 bản ballad thực thụ là Unforgiven và Nothing Else Matters. Metallica 91 giúp tên tuổi của ban nhạc nổi tiếng không chỉ với dân nghe hard rock hay metal, tuy nhiên có điều chắc chắn album này không thể đạt được chất lượng nghệ thuật xuất sắc như các tuyệt phẩm trước đó của họ. Bẵng đi 5 năm, đến tận 1996, Metallica mới phát hành album tiếp theo Load. Sau đó 1 năm là đĩa Reload. Cả 2 album này là những điểm đen trong sự nghiệp của ban nhạc, không hẳn vì chúng nghe không ra gì, mà vì Metallica đã đi theo hướng hard rock, alternative metal chứ không còn là Thrash nữa. Những thể loại đó thì chắc chắn không phải là sở trường của họ.

    Trong khi đó Megadeth bắt đầu tiến hóa với album 1992 Countdown to Extinction. Tuy vậy, sự tiến hóa của họ được chấp nhận rộng rãi hơn Metallik ( cho dù nhiều fan bảo thủ vẫn không chấp nhận). Điều này có được chủ yếu vì chất lượng các album của Megadeth vẫn rất cao cho dù nhạc của họ không còn giống như 4 album đầu. Cả Countdown to Exctinction lẫn Youthanasia đều là những album khá xuất sắc, có thể liệt chúng vào Melodic Thrash.
    Anthrax thì đi theo 1 hướng không ai ngờ: kết hợp Thrash với Rap trong một số ca khúc. Thập kỉ 90 họ đã không còn vocalist đầy cá tính Joey Belladonna, có lẽ đó cũng là 1 nguyên nhân thúc đẩy ban nhạc thay đổi. Thứ nhạc của họ đã cùng với Rage Against The Machine làm tiền đề cho Nu-Metal phát triển rực rỡ sau này. Lẽ dĩ nhiên những album sau của Anthrax bị rất nhiều fan quay lưng.
    Slayer cũng không khá hơn khi họ chỉ còn trụ thêm nổi 1 album xuất sắc là Divine Intervention trước khi nối gót những ban nhạc cùng thời chuyển sang chơi punk thrash.
    Tình hình càng trở nên thê thảm khi Testament dần chuyển sang Death Thrash, Exodus thì im tiếng suốt 10 năm từ sau đĩa Force Of Habbit (chỉ ra được 1 đĩa live), Annihilator càng chơi càng giống 1 ban Heavy Metal truyền thống hơn là Thrash. Chỉ còn Overkill vẫn giữ được lối chơi Thrash mạnh mẽ như thời kì đầu.

    Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của Groove Thrash là 1 bước tiến hóa tất yếu của Thrash Metal. Groove Metal là kiểu Thrash Metal chơi nặng hơn nhưng tốc độ thì chậm hơn so với Thrash Metal thông thường. Có ý kiến đòi tách hẳn Groove khỏi Thrash nhưng rõ ràng những mối liên hệ và ảnh hưởng của Thrash lên Groove quá lớn để có thể tách nó ra khỏi Thrash. Nhiều người cũng cho rằng album gây nhiều tranh cãi Metallica 91 của Metallica có thể xếp vào dòng Groove này.

    Tháng 7 năm 1990 tại Texas, ban nhạc Pantera sau 1 loạt các album không thành công trong thập kỉ 80 quyết định thay đổi phong cách của mình bằng album Cowboys From Hell. Với ca khúc Cemetery Gates nổi tiếng, Pantera nhanh chóng trở nên phổ biến trên toàn nước Mĩ. Cùng trong năm 1990, 1 ban nhạc khác ở New Orleans là Exhorder cũng tung ra album đầu tay Slaughter In The Vatican với lối chơi khá giống Pantera, nhưng không đạt được thành công như ban nhạc Texas. Nhiều fan của Exhorder sau này cho rằng Pantera đã ăn cắp những âm thanh groove của Exhorder, nhưng điều này rõ ràng là không có cơ sở vì kiểu chơi guitar của 2 ban vẫn còn rất nhiều điểm khác biệt. Pantera nhanh chóng đạt được những thành công rực rỡ, thậm chí họ còn vượt mặt nhiều đàn anh để sánh vai cùng Metallica như là 2 ban metal phổ biến nhất ở Mĩ. Năm 1992 album Vulgar Display Of Power đạt vị trí thứ 44 trong bảng xếp hạng BillBoard, còn single Walk lọt vào bảng xếp hạng Anh. Thành công nối tiếp thành công, năm 1994 album Far Beyond D gây nên một cú sốc lớn với việc leo lên đỉnh cao của bảng xếp hạng BillBoard ngay tuần đầu phát hành, trở thành album extreme metal đầu tiên đạt được thành công này (vì The Black Album 1991 của Metallica khó có thể gọi là Extreme Metal).
    Cũng trong năm 1994, một số cựu thành viên của các nhóm Bay Area Thrash hùng mạnh một thời là Robb Flynn (Vio-lence, Forbidden), Phil Demmel (Vio-lence), Dave McClain (Sacred Reich) quyết định thành lập 1 nhóm nhạc mới lấy tên Machine Head. Lối chơi của ban nhạc là sự kết hợp giữa Thrash Metal truyền thống và Groove Thrash. Machine Head giành được thành công gần như ngay lập tức với album Burn My Eyes, đóng góp phần quan trọng cho tiếng tăm của Groove Thrash. Một vài ban Groove đáng chú ý khác có thể kể đến White Zombie, Prong (chỉ bắt đầu từ album Cleansing 1994), và phần nào đó là Sepultura (từ album Chaos AD).
    Groove tuy phát triển mạnh mẽ đầu thập kỉ 90 nhưng nhanh chóng suy tàn, một phần vì nó là 1 trong những nguồn cảm hứng chính cho các ban Nu-Metal nửa sau thập kỉ. Những ảnh hưởng của Groove có thể nói là xuất hiện trong hầu hết các album của modern metal Mĩ gần đây.



    V - Thrash Metal trong thế kỉ 21:


    Internet trở thành 1 trong những công cụ đắc lực nhất của loài người cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21. Nhờ Internet, rất nhiều ban nhạc, dòng nhạc tưởng đã mồ yên mả đẹp có dịp đội mồ sống dậy. Thrash Metal là một trong số đó. Làn sóng tái hợp và ra album của hàng loạt ban Thrash cựu trào đã bùng nổ mạnh mẽ trong khoảng vài năm trở lại đây. Exodus, Nuclear Assault, Destruction, Artillery, Metal Church, Death Angel & Dark Angel là những ban đã tái hợp trong thế kỉ mới, cho dù mức độ thành công không giống nhau. Điểm chung của những sự tái hợp này là xu hướng trở về cội nguồn của các ban, tất cả đều chơi thứ Thrash cổ điển kết hợp một chút âm thanh của modern metal. Annihilator, Kreator, Anthrax và Megadeth sau một thời gian ngụp lặn tìm hướng đi cũng đã quyết định quay trở về với Thrash nguyên thủy.


    Trong số những sự trở lại này, thành công nhất là Exodus với album Tempo Of The Damned 2004. Album này không những thỏa mãn những Thrash fan trung thành mà còn kéo thêm một lượng người nghe đáng kể đến với Thrash. Từ năm 2004 đến 2006, hầu hết các ban Thrash hào hùng một thời đều đã ra album mới. Đó là Shovel Headed Kill Machine của Exodus, Inventor Of Evil của Destruction, Enemy Of God của Kreator, Schizo Deluxe của Annihilator, St Anger của Metallica, The System has failed của Megadeth, ReliXIV của Overkill, The Art Of Dying của Death Angel. Những ban Thrash mới trẻ trung cũng lần lượt xuất hiện, đáng tiếc chưa một ai trong số họ cho thấy được tiềm năng đủ lớn để vượt mặt đàn anh. Ấn tượng nhất trong số này có lẽ là Sauron với album Thrash Assault, Chainsaw với Smell The Chain, Demiricous với One(Hellbound), Abandoned với Thrash Notes.


    Ngoài sự quay lại của Thrash kinh điển, một xu hướng khác cũng khá phổ biến trong thế kỉ 21, là sự kết hợp những âm thanh của Death Metal châu Âu với Thrash. Nổi bật nhất trong số này phải kể đến Carnal Forge và The Haunted của Thụy Điển.




    VI - Con đường phía trước của Thrash:


    Tuy làn sóng tái hợp của các ban Thrash Metal kinh điển vẫn chưa có điểm dừng, nhưng một điều dễ nhận thấy là nó khó có thể tồn tại được lâu. Các ban nhạc này hầu hết đều đã quá già để có thể đem lại thành công dài lâu cho Thrash. Để không bị chìm vào quên lãng, xu hướng tiếp theo của Thrash chắc chắn phải là kết hợp với các dòng nhạc khác, thậm chí là tiến hóa để hình thành 1 dòng nhạc hoàn toàn mới. Điều này Thụy Điển có vẻ đang làm khá tốt với The Haunted và Carnal Forge. Trong khi đó, tại Mĩ, Metalcore - dòng nhạc chịu nhiều ảnh hưởng của Thrash và Melodic Death đang tràn ngập trên các phương tiện truyền thông - cũng có thể coi là 1 giải pháp khác, tuy rằng mức độ thành công về nghệ thuật của dòng nhạc này còn đang gây nhiều tranh cãi.


    (Sưu Tầm)
  4. Rocker Cô Đơn Thành viên

    Grunge rock

    Một định nghĩa chung:

    Sử dụng âm thanh “đặc quánh, âm u” của the Stooges và Black Sabbath làm nền móng, Grunge là đứa “con lai” giữa Metal và Punk. Với cách chơi guitar gần giống như Metal của thập kỉ 70, nhưng “thẩm mĩ” của Grunge lại được coi là tiến xa Metal. Tất cả cái gì gọi là “phá hoại”, phản kháng xuất hiện trong Grunge thì lại đều bắt nguồn từ cội rễ Punk sâu xa, đặc biệt là những “independent ideal” từ Hardcore của Mỹ đầu thập kỉ 80. Những chiến sĩ đầu tiên của Grunge Rock là Green River, Mudhoney, Soundgarden , thế hệ này chơi nhạc được coi là "nặng đô" hơn thế hệ thứ hai sau đó, thế hệ của Nirvana (Một điểm chung là tất cả đều trưởng thành từ cái nôi Grunge - Seatle). Nirvana chơi Grunge giai điệu hơn, rõ ràng hơn bậc đàn anh , nhưng vẫn trung thành với phong cách guitar "xoắn tít, rền rĩ" . Sau khi Nirvana đưa Grunge đi vào "mainstream", Grunge đã dần mất đi khá nhiều tư tưởng "independent" quí giá có được từ Punk rock và trở thành thể loại Hard Rock đại chúng hơn trong thập kỉ 90.

    [IMG]
    Ban nhạc Nirvana

    PHẦN 1: Seattle Grunge

    Trong suốt thập niên 80, một sản phẩm của Hard Rock là Hair Bands hay Pop Metal làm chao đảo các bảng xếp hạng. Los Angeles là trung tâm lớn của thể loại này. Trong khi đó, vượt xa tầm "radar" của các đài phát thanh và MTV, đó là những Alternative và College band, những nghệ sĩ tiếp nối truyền thống Punk và New Wave.

    Vào năm 1992, bức tranh âm nhạc Mỹ thay đổi một lần nữa. Kết hợp Punk Rock với Heavy Metal, Never Mind của Nirvana chèo thẳng lên number 1 của bảng xếp hạng với một chuỗi các hit single. Sự xuất hiện của Nirvana là sự chế nhạo đối với thể loại và thái độ âm nhạc của Los Angeles như Guns 'N Roses hay Extreme lúc bấy giờ, thế hệ Nirvana tôn kính thế hệ nghệ sĩ như R.E.M, Sonic Youth, và Flipper. Với sự thành công của Nirvana, Pearl Jam, Alice In Chains và một ban nhạc Grunge gạo cội khác - Soundgarden dần dần được công nhận. Tất cả những ban nhạc đó đều đến từ Seattle, sự âm tối, nội tâm trong nhạc của họ phản ánh quang cảnh tăm tối của xã hội Seattle. Báo chí của dòng nhạc chính thống bắt đầu quan tâm tới thế hệ "Grunge Rock" và dần đưa thứ âm nhạc đầy mới mẻ và nổi loạn này vào guồng của cuộc chạy đua thương mại

    Tư tưởng mắc nợ quốc gia, dân tộc và sự bất ổn trong hệ thống quan hệ xã hội ngày càng tăng lên với tốc độ khủng khiếp, khi mà những con người trẻ tuổi - được mệnh danh là "Generation X" ấy họ càng với tới tuổi trưởng thành. Tình trạng kinh tế ảm đạm làm nhiều thanh niên dễ dàng tiếp nhận suy nghĩ chán nản, buồn phiền, chống đối từ các ban nhạc như Nirvana hay Pearl Jam. "Thế hệ X" càng thất vọng, không bằng lòng khi nhìn thấy sản phẩm tinh thần của mình xuất hiện và thành công trên các bảng xếp hạng.

    [IMG]
    Ban nhạc Pearl Jam

    Nhạc của Nirvana phản ánh nỗi giày vò của Kurt Cobain. Đầy những cụm từ như "I'm so ugly," "I feel stupid, and contagious" hay "she's just as bored as me" , “I hate myself and I want to die”. Nevermind đã được chuẩn bị đầy đủ cho những dự đoán đã xảy ra vào năm 1994.

    Pearl Jam là bạn đường của Nirvana trong danh hiệu "most popular grunge bands". Cũng với tư tưởng đả phá đặc trưng của Seattle Rock, trong Video Clip nổi tiếng nhất của Pearl Jam - "Jeremy", câu chuyện về một cậu bé với cuộc sống đầy bế tắc và chế nhạo của những người xung quanh, rốt cuộc đã đưa súng lên thái dương ..., máu văng vào những gương mặt kinh hoàng của bạn học trong lớp; "Jeremy" mãi mãi thuộc vào hàng top những video vĩ đại nhất của MTV. Sau cái chết của Kurt Cobain, phương tiện truyền thông đặt mọi mối quan tâm vào Eddie Veder - Pearl Jam's singer, người lãnh đạo còn lại của "thế hệ X". Cùng với ban nhạc của mình, Eddie Veder tránh xa ánh đèn sân khấu, từ chối xuất hiện trong các video và các tour lưu diễn có sự giúp đỡ của các công ty thương mại chuyên nghiệp.

    Song song với Nirvana, Alice In Chains là một trong những ban nổi tiếng vì lún sâu vào nghiện ngập, cũng đến từ Seattle đầu những năm 90. Bài hát như "Junkhead" phản ánh đầy đủ vấn đề của Alice In Chains: "Seems so sick to the hypocrite norm/ Running their boring drills/ But we are an elite rave of our own/ The stoners, junkies, and freaks". Alice In Chains đã dừng hoạt động sau tour năm 1996 và mới đây (4/2002) ca sĩ chính của nhóm Layne Staley đã vĩnh viễn không quay trở lại sau một cơn sốc thuốc tại nhà riêng.

    Khi Soundgaren tan rã năm 1997, tạp chí Rolling Stone gọi đó là "end of grunge". Kết thúc thập kỉ 90, Pearl Jam là band Seattle Grunge duy nhất còn hoạt động nghệ thuật, cho dù một số ban nhạc khác cố gắng sống lại cái âm thanh, không khí "Seattle", nhưng có lẽ Seattle Grunge thực sự đã lui vào quá khứ, để lại sau nó là một ánh hào quang chưa bao giờ tắt, để mỗi khi nhắc đến Seattle, người ta vẫn còn cảm nhận thấy một điều phi thường của một thế hệ đã đi vào huyền thoại lịch sử nhạc Rock


    PHẦN 2: Một số hình thái khác của Grunge Rock / Grunge Rock hiện đại:

    - Đầu tiên ta hãy xem xét Smashing Pumpkins - một trong những ban nhạc chơi Alternative Rock thành công nhất thập kỉ 90. Smashing Pumpkins thuộc một trong số ít những ban được "lợi lộc" từ những năm thành công của Grunge, xuất hiện vào năm 1991 với lối chơi alternative "hiển nhiên" , sử dụng lối nhấn power chord đặc trưng của Grunge cùng với những đường solo guitar lắt léo của Heavy Metal, đôi khi lại hòa âm theo kiểu progressive rock, psychedelia . Xét theo một ý nghĩa nào đó, Smashing không hẳn là một Grunge band thực sự, nhưng với album xuất sắc năm 1993 là Siamese Dream ảnh hưởng của Grunge Rock rõ ràng hơn cả, cùng với album Mellon collie and the infinite sadness năm 95 chơi chậm rãi nhưng sâu lắng và kĩ thuật, Smashing được đẩy lên hàng "đàn anh" trong thế giới Alternative Rock.

    [IMG]
    Chân dung Kurt Cobain

    - Post-Grunge: Post-Grunge là từ để nhắc đến một dòng chảy mới xuất hiện một thời gian ngắn sau thời điểm Seattle Grunge tấn công vào đấu trường âm nhạc. Sự khác nhau chính là trong khi các Seattle band kiên quyết giữ vững cái cội rễ "underground" của Alternative Rock của thập kỉ 80 thì Post-Grunge lại bị ảnh hưởng bởi cái mà rốt cuộc Grunge biến thành: đó là tính đại chúng, là cái gì đó mang tính nội tâm (inward-looking khó hiểu !), và Hard Rock ! Thế có nghĩa là mặc dù âm thanh , đặc điểm nhạc của Post-Grunge đều ảnh hưởng của Grunge, nhưng không hoàn toàn trùng khớp với các nghệ sĩ grunge thuộc thuở sơ khai. Bất chấp nguồn gốc Alternative của nó, Post Grunge được định rõ là một thể loại mainstream, thương mại, nó được phát hành bởi các hãng đĩa lớn, những âm thanh guitar dày đặc , gầm gừ của Grunge bóng láng hơn, “radio-ready production”. Tuy thế, trong khi nhiều band post grunge chơi giống nhau, nhưng họ không hoàn toàn đồng nhất. Cộng với cả Grunge, các P-Grunge band có thể vẽ lên từ '80s jangle pop, punk-pop, ska revival, alternative metal. Một vài đơn vị P Grunge thành công, có thể vì người ta không còn nhìn thấy cái u sầu khắc khổ tiêu biểu của Grunge nữa. Sau sự “xuyên thủng” của Grunge, không lâu sau là sự xuất hiện của P Grunge, những ban nhạc như Bush hay Candlebox thành công lớn cũng giống như những năm mà Nirvana lên đỉnh cao của những bảng xếp hạng từ 1992. Sau khi thời cực thịnh của Grunge qua đi, P Grunge vẫn tiếp tục, vẫn strong, với một làn sóng mới của các band xuất hiện từ giữa ‘90s đến cuối ‘90s; một số thì còn đủ sức “bảo tồn” sự nổi tiếng của mình, một số “thương tích đầy mình” ra đi không bao giờ trở lại kiểu one-hit wonders. Hiện nay, Post-Grunge vẫn là một thể loại mang tính đại chúng, Creed và Matchbox20 vẫn là “biggest-selling rock bands” của Mỹ.

    - Matchbox20 trong thời điểm ra album thứ 2 (Mad Season - 2000) còn được báo trí ca ngợi là "gương mặt tiêu biểu của Grunge Rock sau thời Nirvana", tuy nhiên âm nhạc của Matchbox20 nghiêng về chiều hướng nhẹ nhàng sâu lắng kiểu Adult Alternative, đã mất đi gần hết cái gai góc, giận dữ của Seattle Grunge đỉnh cao xưa kia.
    Trong các ban nhạc Modern Rock, chỉ còn Creed là giữ lại được chút tinh tuý của Grunge Rock ngày nào, tuy nội dung và giai điệu dễ chấp nhận hơn. Bạn có thể không nuốt nổi một album nào của Pearl Jam nhưng với Wide Open Arm, Sacrifice thì mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn nhiều. Dù sao thì Creed vẫn là một trong những ban nhạc Modern Rock thành công nhất trên các bảng xếp hạng còn tiếp tục theo đuổi Grunge .

    - Còn hai ban nhạc Post - Grunge xuất sắc ngoài lãnh thổ Mỹ mà tôi muốn nhắc đến là Bush (Anh) và Silverchair (Úc)

    Bush cùng với Oasis từng được khen ngợi là một trong những British rock band thành công nhất ở Mỹ từ sau thời của Def Leppard. Nghe album thành công nhất của họ - Razorblade Suitcase (1996), bạn có thể lầm lẫn Bush với Nirvana, đó chính là ở vocal của ban nhạc (Gavin McGregor Rossdale), sẽ không ai phân biệt được đâu là Kurt Cobain, đâu là Gavin nếu không rõ CD nào đang chạy trong ổ. Nhược điểm của Bush là cách phối âm rời rạc, không dày đặc; nhưng âm nhạc của Bush dễ làm người ta nhớ lại tiếng gào thét, phẫn nộ của Kurt Cobain cùng với ban nhạc Nirvana của anh thuở nào, có lẽ chính điều này giúp Bush "ăn điểm" hơn các ban nhạc Post - Grunge khác.

    [YOUTUBE]PbgKEjNBHqM&feature=av2e[/YOUTUBE]

    Silverchair - ban nhạc của những cậu bé đến từ nước Úc, liều lĩnh ra album Frogstomp (1995) khi các thành viên mới chỉ ở tuổi 15, 16. Với album đó, Silverchair từng được coi là bản sao hoàn hảo của Nirvana, từ hình dáng đến phong cách chơi nhạc. Con đường âm nhạc trải rộng ra trước mắt Silverchair với album Neon Ballroom (99), chín chắn hơn trong cả giọng hát (Daniel Johns) và phong cách riêng biệt (hay nói cách khác là "Grunge kiểu...Úc"). Với Emontion Sickness chơi cùng dàn giao hưởng ****-ni hoàn hảo gần bằng Tonight Tonight của Smashing Pumpkins ngày nào, những chàng trai "ghế bạc" đã chứng minh được tài năng của mình cho toàn thế giới biết, chính bằng thứ âm nhạc mang sắc thái riêng, không rập khuôn của bất cứ đàn anh Grunge nào. (Ờ, phong cách...Úc, ha ha)

    - Bên cạnh những ban nhạc có ảnh hưởng trực tiếp từ Seattle Grunge như Live, Bush, Silverchair, Creed, Foofighter,… còn tồn tại một thế hệ các Alternative band tuy không hoàn toàn mang âm thanh “Grunge” nhưng cũng được coi là có ảnh hưởng bởi Post – Grunge

    - Đầu tiên là những ban nhạc theo phong cách Punk-pop, Punk-Revival như: Greenday, Offspring, Blink 182, Smash Mouth, Weezer

    - Collective Soul, Days Of The New, Cake, Barenaked Ladies, Sugar Ray,… là những ban nhạc có lối chơi giàu kĩ thuật, sáng tạo, đặc biệt là biết tận dụng phong cách riêng, chắt lọc những âm thanh và tư tưởng của Grunge rock, rõ ràng nhất vẫn là Days Of The New nổi tiếng với phong cách chơi acoustic, dễ làm người ta liên tưởng đến Alice In Chains ngày nào.

    - Eels có thể nói là một trong những ban nhạc Adult Alternative Pop/Rock, Post-Grunge lạ lùng nhất, âm nhạc của Eels là một chuỗi tư tưởng, suy nghĩ chồng chéo, âm thanh thì vô cùng kì quặc. Chất Grunge trong nhạc của họ có lẽ là chính ở tiết nhịp, điều mà bạn có thể cảm nhận thấy qua những bài hát như The Sound Of Fear hay Flywatter trong album Daisies of the Galaxy (2000)

    [IMG]
    Ban nhạc 3 Doors Down

    - Một số ban nhạc/ nghệ sĩ Alternative MTV khác với ảnh hưởng mờ nhạt của Post – Grunge như: No Doubt, Travis, Third Eye Blind, 3 Doors Down, Alanis Morissette, Goo goo dolls …

    Đoạn kết:

    Pearl Jam dần lui vào bóng tối, Smashing Pumpkins thì đã tan rã, Layne Staley(Alice in chains) mới ra đi, tuy vậy những ban nhạc như Creed, Days Of The New, Bush, Silverchair... vẫn tiếp tục cho ra những album mới khi thời khắc đã chỉ đến thế kỉ XXI , và Grunge đã thực sự "dead" chưa thì có lẽ chỉ có thời gian mới nói hết được.


    (Sưu Tầm)
  5. Rocker Cô Đơn Thành viên

    Dòng nhạc METAL - Kim Loại

    Nếu như coi thế giới âm nhạc là một gia đình rộng lớn thì metal có thể được coi là chắt của nhạc blues, là cháu nội của rock 'n' roll và là đứa con hoang của nhạc ảo giác (psychedelic) ở thập kỷ '60. Thể loại nhạc này luôn luôn bị coi như một "con cừu đen" trong đại gia đình âm nhạc. Định nghĩa một cách đơn giản nhất, metal là nhạc rock 'n' roll trong đó yếu tố roll đã bị loại bỏ, chỉ còn lại rock. Một dòng nhạc quá khích cả về âm lượng, nhịp độ lẫn giai điệu ca từ, được xây dựng trên nền tảng những đoạn riff guitar mạnh mẽ, ồn ào. Khác với các thể loại rock khác, metal luôn mang tính chống đối phản kháng xã hội một cách mạnh mẽ, nó không phải là âm nhạc giành cho đại chúng, nhưng lại có một số lượng tín đồ trung thành cực kỳ đông đảo theo sát từng bước đi.


    Metal ra đời vào cuối thập kỷ '60 trên nền tảng nhạc blues và rock ảo giác (psychedelic rock) vốn rất thịnh hành thời ấy. Những nghệ sỹ blues - rock 'n' roll với lối chơi mang tính đột phá như Cream, The Kinks, Jeff Beck Group và Jimi Hendrix đã xây dựng nền móng cho metal với việc đưa vào những âm thanh tạo ra bằng các thiết bị điện tử, tiêu biểu là tiếng distortion (tạo ra bằng các dụng cụ "phá" tiếng guitar) được coi như âm thanh "nền" cơ bản cho cả hard rock và metal. Bên cạnh đó là sự góp mặt của những tay guitar tài năng như Robert Fripp (nhóm King Crimson) mà lối chơi mang tính thử nghiệm cao độ đã khuyến khích những sáng tạo táo bạo của các nghệ sỹ guitar dòng metal sau này.

    [IMG]
    Ban nhạc Black Sabbath

    Những nghệ sỹ heavy metal đầu tiên chinh phục thế giới đã xuất phát từ nước Anh, đó là Led Zeppelin và Black Sabbath. Với bộ bốn album kinh điển từ Led Zeppelin I (1969) cho tới Led Zeppelin IV (1970), nhóm Led Zeppelin đã trình trước cả thế giới một lối chơi mạnh mẽ, sôi nổi với nền tảng là những giai điệu blues được chơi nặng và ồn ào mà trước đó chưa ai thử nghiệm. Black Sabbath thì trái ngược, họ làm cho âm nhạc của mình trở nên tăm tối và ma quái bằng cách giảm nhịp độ của các bài hát, sử dụng các đoạn riff mang âm hưởng nặng nề u ám, kết hợp với ca từ của các bài hát thường có nội dung bí hiểm. Led Zeppelin luôn được giới phê bình ưu ái hơn Black Sabbath trong khi ảnh hưởng của Black Sabbath đến nhạc metal hiện đại lại to lớn hơn Led Zeppelin rất nhiều!


    Theo chân Led Zeppelin và Black Sabbath, một loạt các nghệ sỹ khác nhanh chóng xuất hiện làm rõ hơn bộ mặt của heavy metal ở thập kỷ 70: Alice Cooper và Kiss với những giai điệu dễ nhớ và lối biểu diễn phô trương; Van Halen với lối chơi được dẫn dắt bởi tài năng của tay guitar lead; AC/DC chuộng những âm thanh guitar nhún nhảy, hoang dã và sôi sục... Ngoài ra còn có thể kể đến Aerosmith, Blue Oyster Cult, Thin Lizzy...



    [IMG]
    Ban nhạc AC/DC


    Tưng bừng là thế nhưng đến cuối thập kỷ 70, heavy metal rơi vào khủng hoảng: Led Zeppelin trở thành một ban nhạc giàu tham vọng muốn tạo nên một thứ âm nhạc huyền thoại; Black Sabbath tan rã do bất đồng từ việc tranh giành ảnh hưởng trong ban nhạc. Các tên tuổi khác hoặc sa vào nghiện ngập bê tha hoặc bị mất hứng sáng tạo. Những ban mới nổi thì không có gì đặc sắc và cũng không đủ "nặng ký" để đối chọi với làn sóng âm nhạc đại chúng đang nổi lên khắp nơi với các nhóm hardcore punk ồn ào và hiếu chiến.


    Một lần nữa, nước Anh lại sản sinh ra những cứu tinh cho metal. Trào lưu New Wave of British heavy metal (NWOBHM) cuối thập kỷ 70 đã mang lại nguồn sinh lực mới cho metal với lối chơi kỹ thuật, mạnh mẽ và trau chuốt (Iron Maiden, Judas Priest, Def Leppard...); vũ bão, thô nhám, hung hăng (Motorhead, Diamond Head...); thậm chí đen tối và tiêu cực (Venom, Mercyful Fate). Trào lưu này đã "thay máu" cho metal bằng việc loại bỏ hoàn toàn những ảnh hưởng còn sót lại của blues.

    [IMG]
    Ban nhạc Skid Row

    Sự lên ngôi của NWOBHM cũng đã thay đổi hoàn toàn nhận thức của các nghệ sỹ metal ở Mỹ và biến nước Mỹ trở thành một cường quốc của nhạc metal trong thập kỷ 80 với những tên tuổi mới đầy nhiệt huyết, chơi nhạc theo hướng ngày càng nhanh hơn, ồn ào, dữ dội và kích động hơn. Nước Mỹ trở thành cái nôi của những thể loại metal "hiếu chiến" nhất như speed/thrash metal (ra đời vào nửa đầu thập kỷ 80 với những tên tuổi nổi danh như Metallica, Megadeth, Slayer, Anthrax, Testament...); rồi death metal (xuất hiện cuối thập kỷ 80 với các nhóm như Death, Morbid Angel, Obituary, Deicide...). Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các nhóm pop metal như Motley Crue, Great White, Bon Jovi, Skid Row, Guns 'n' Roses đã đưa metal đi vào dòng nhạc chính thống và trở thành thể loại nhạc rock thành công nhất về mặt thương mại trong thập kỷ 80...

    [IMG]
    Ban nhạc Guns 'n Roses

    Đầu những năm 90 tình thế lại thay đổi với metal nói chung và metal Mỹ nói riêng. Trào lưu alternative/grunge đã đột phá vào dòng âm nhạc chính thống quét sạch các nhóm pop metal ra khỏi bảng xếp hạng. Alternative metal xuất hiện và bắt đầu lên ngôi với Marilyn Manson, Korn, Rage Against the Machine, Faith No More, Pantera, Limp Bizkit ... Kể từ đây nhạc metal Mỹ tiếp tục phát triển ở dạng trào lưu ngầm (underground) với các nhóm nhạc chơi death metal, grindcore rất nặng ... Mặt khác, metal phát triển theo hướng trí tuệ và phức tạp hơn với việc một số ban nhạc tiên phong như Dream Theater, King's X kết hợp progressive/experimental rock tạo ra thể loại Metal phức tạp và kỹ thuật nhất - progressive metal.

    [IMG]
    Ban nhạc Dream Theater

    Ở châu Âu, metal bắt đầu phát triển sôi động trở lại vào cuối thập kỷ 80 với sự lên ngôi của một số dòng metal như power metal, doom metal, gothic metal ... Đặc biệt trên bản đồ metal thế giới xuất hiện một thế lực mới cực kỳ hùng mạnh: bán đảo Scandinavia. Na Uy được coi là cái nôi của black metal, một thể loại metal thuộc vào hàng quá khích và đen tối nhất (các nhóm nhạc tiêu biểu là Emperor, Satyricon, Dimmu Borgir...). Thuỵ Điển lại là nơi bắt nguồn của trào lưu thứ hai trong lịch sử nhạc metal: New Wave of Swedish Death Metal (NWOSDM) với những tên tuổi nổi trội như In Flames, Dark Tranquillity, Soilwork, Opeth, Dismember, At the Gates... Điểm dễ nhận thấy nhất của các ban nhạc trong trào lưu này là lối chơi cực kỳ mạnh mẽ và ồn ào nhưng chú trọng hơn đến giai điệu. Một vài nhóm nhạc đến từ Phần Lan cũng đã gây được ấn tượng trong thập niên 90 (Amorphis, Sentenced, Children of Bodom...) và họ cũng chịu ảnh hưởng to lớn từ NWOBHM. Những năm gần đây, Đông Âu đang trở thành một khu vực "nóng" trên bản đồ metal thế giới với sự xuất hiện của các nhóm nhạc Nga, Ba Lan, Ucraina, Séc...

    [IMG]
    Ban nhạc Children Of Bodom

    Ở các nước thế giới thứ ba, metal cũng bắt đầu bén rễ từ sau thành công vang dội của nhóm nhạc đến từ Brazil - Sepultura, các nghệ sỹ metal ở đây tuy còn chịu nhiều thiệt thòi nhưng sức sống thì cũng nào cũng hừng hực. Trái với nhận xét phiến diện của nhiều người rằng metal đã lụi tàn, thể loại này hiện vẫn đang phát triển rất mạnh trên khắp thế giới, khẳng định vị trí vững chắc như một dòng nhạc mạnh mẽ và đậm chất "rock" nhất.

    Tham khảo :
    Các thể loại metal chính và các album tiêu biểu :
    Heavy metal :
    - Led Zeppelin - Led Zeppelin IV (1970)
    - Black Sabbath - Paranoid (1970)
    - Ozzy Osbourne – Blizzard of Ozz (1980)
    - Iron Maiden - The Number of the Beast (1982)
    - Judas Priest - Hell Bent for Leather (1979)
    Speed / Thrash metal :
    - Metallica - Master of Puppets (1986)
    - Megadeth - Rust in Peace (1990)
    - Slayer - Seasons in the Abyss (1990)
    - Sepultura - Arise (1991)
    Pop metal :
    - Bon Jovi - Slippery When Wet (1986)
    - Guns 'n' Roses – Appetite for Destruction (1986)
    - Def Leppard – Hysteria (1987)
    - Skid Row - Skid Row (1989)
    Death metal :
    - Death - Symbolic (1995)
    - Morbid Angel - Covenant (1993)
    - Obituary - Cause of Death (1992)
    - In Flames - The Jester Race (1997)
    Black metal :
    - Emperor - Prometheus: The Discipline of Fire & Demise (2001)
    - Dissection - The Somberlain (1993)
    - Satyricon - Nemesis Divina (1997)
    - Immortal - At the Heart of Winter (1999)
    Doom metal :
    - Paradise Lost - Icon (1993)
    - My Dying Bride - Turn Loose the Swans (1993)
    - Katatonia - Dance of December Souls (1993)
    - Tiamat - Wildhoney (1997)
    Gothic metal :
    - Tristania – Beyond the Veil (1996)
    - Moonspell - Irreligious (1996)
    - Anathema - Judgement (1999)
    Alternative metal :
    - Faith No More – The Real Thing (1987)
    - Rage Against the Machine - Rage Against the Machine (1992)
    - Korn - Korn (1994)
    - Marilyn Manson - Antichrist Superstar (1996)
    - Tool – Aenima (1996)
    Power metal :
    - Helloween - Keeper of the Seven Keys pt.2 (1989)
    - Stratovarius - Visions (1997)
    - Rhapsody - Symphony of Enchanted Land (1998)
    - Symphony X - V : A New Methology Suite (2000)
    Progressive metal :
    - Dream Theater - Awake (1994)
    - Opeth - Still Life (1999)
    - Pain of Salvation – One Hour by the Concrete Lake (1998)
    - Shadow Gallery – Tyranny (1998)


    (Sưu Tầm)
    thanhngocpro283 likes this.
Thread Status:
Not open for further replies.

Share This Page