Anh hùng, Nữ kiệt... Việt Nam...

Discussion in 'Lịch sử - Nhân văn' started by Trầm Tích, Jul 31, 2007.

  1. Trầm Tích Thành viên tích cực

    Tuy topic là "Anh hùng, Nữ kiệt Việt Nam"... Nhưng cũng chỉ 1 số người người thôi chứ chưa đầy đủ... Đọc thấy hay hay nên lôi về đây... Ai có hứng thì bổ sung thêm...

    Lê Lai
    Long bào xông trận giả Bình Vương
    Nợ nước, ơn vua, gởi chiến trường
    Trúng kế, giặc lầm. Vây bỏ ngỏ
    Sơn hà ổn định. Sử lưu hương

    Phạm Hồng Thái
    Tiếng bom Sa Điện mãi vang rền
    Thế giới rùng mình ánh chớp thiêng
    Vì nước, đem thân đền nghĩa cả
    Muôn đời sông tạc, núi ghi tên

    Nguyễn Trãi
    "Tận hiếu, con về để tận trung"
    Lời cha trọn kiếp khắc bên lòng
    Lá thiêng, chiến lược thu thiên hạ
    Đại Cáo lưu tình với núi sông


    Trần Hưng Đạo
    Ba phen Mông Cổ phải tan tành
    Sông Hóa, lời thề tạc sử xanh
    Cọc nhọn Đằng Giang lừng thủy chiến
    Phò vua, giúp nước, đại công trình

    Duy Tân
    "Tay dơ dùng nước rửa tay đi
    Thế nước dơ, ta rửa với gì?"
    Chí lớn, lòng đời sao hạn hẹp
    đường về, Ơi hỡi, cánh chim di!

    Nguyễn Thái Học
    Hai mươi lăm tuổi đã anh hùng
    Thương giống, thương nòi, cứu núi sông
    Yên Bái hiên ngang vào quốc sử
    Muôn đời dũng kiệt, tấm gương chung


    Nguyễn Thị Giang
    Pháp trường, toan phá, ngặt không xong
    Yên Bái đau thương ngập cõi lòng
    Theo bước anh hùng, trang liệt sĩ
    Vĩnh Yên gởi lại mảnh tình trong!

    Hai Bà Trưng
    Anh thư nhị vị cõi Mê Linh
    Trước nỗi chung, riêng luống bất bình
    Quật khởi, đem về quyền tự trị
    Sử Hồng ghi tạc dấu quang vinh

    Nguyễn Huệ
    Ba vạn quân Xiêm chốc rã tàn
    Mãn Thanh, thần tốc, giặc liền tan
    Thăng Long chiến thắng mừng xuân hẹn
    Hiển hách ngàn năm nét sử vàng


    Đinh Bộ Lĩnh
    Thập Nhị binh hùng chốc dẹp tan
    Hoa Lư nghiệp Đế dựng ngai vàng
    Thái Bình đem lại cho dân nước
    Một ngọn cờ lau mấy vẻ vang

    Lý Thường Kiệt
    Bình Chiêm, phá Tống, đánh Chiêm Thành
    Nam Quốc Sơn Hà, há lấn tranh?
    Như Nguyệt, thơ thần minh định rõ
    Tám mươi tư tuổi vẫn tung hoành

    Trần Bình Trọng
    Hùm thiêng thất thế phút sa chân
    Trung dũng, hiên ngang, chẳng ngại ngần
    Ngoảnh mặt không màng Vương đất Bắc
    Muôn đời nghĩa khí tiếng chuông ngân

    Trần Quốc Toản
    Trái cam nghiến nát dưới tay thần
    Vì nước, trai hùng quyết dấn thân
    Quy tụ quần hùng, trang tuổi trẻ
    Phá tan cường địch, báo hoàng ân


    Đặng Dung
    Dưới trăng mài kiếm đã bao ngày
    Hận nước thù nhà chẳng thể khuây
    Ôm mối Cảm Hoài nung tấc dạ
    Quốc thù vị báo, áng thơ hay

    Phan Thanh Giản
    Ba thành quyết giữ. Giữ không xong
    Thất bại hoà đình. Pháp tấn công
    Trọng trách không tròn, người quốc sĩ
    Cùng thành, di hận để non sông!

    Đỗ Thị Tâm
    Nối dòng cách mạng tự cha ông
    Yếm thắm vang danh gái Lạc Hồng
    Dù chẳng lẫy lừng cơ nghiệp lớn
    Muôn đời, tổ quốc vẫn ghi công


    Nguyễn Thị Bắc
    Yên Bái khi tuyên án tử hình
    Pháp nghe lời mắng, phách hồn kinh
    Má hồng tô thắm trang hùng sử
    Sông núi hồn thiêng mãi hiển linh

    Phan Bội Châu
    Đông Du phát động dựng phong trào
    Quang phục - Duy Tân khí thế cao
    Huyết Lệ Ngục Trung vang quốc sử
    Việt Nam CÁch Mạng đại anh hào!

    [W]ind likes this.
  2. Trầm Tích Thành viên tích cực







    Tham gia buổi đầu


    Lê Lai người gốc Mường, thôn Dựng Tú, huyện Lương Giang (Thanh Hoá), là con của Lê Kiều, nối đời làm chức phụ đạo trong vùng.
    Lê Lai tính tình cương trực, dung mạo khác thường, có chí khí. Ngay trước khởi nghĩa Lam Sơn ông đã theo hầu Lê Lợi có nhiều công lao. Năm 1416, ông cùng Lê Lợi và các tướng lĩnh khác tham gia Hội thề Lũng Nhai, thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh xâm lược.

    Liều mình cứu chúa

    Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, ông là tướng luôn ở bên cạnh, xông pha nhiều trận hiểm nguy. Bấy giờ quân Lam Sơn ít lính, thiếu lương, thường bị quân Minh đánh bại. Theo sách Đại Việt thông sử, cuối tháng 4 năm 1418[1], Lê Lợi bị thua trận ở Mường Một, chạy thoát về Trịnh Cao, quân Minh đuổi theo vây chặt các lối hiểm yếu. Trong tình thế nguy cấp, Lê Lợi họp các tướng lại hỏi:

    - Có ai dám bắt chước Kỷ Tín đời Hán không?[2]
    Các tướng đều ngồi yên không ai dám thưa. Lê Lai đứng dậy nói:
    - Tôi xin đi. Sau này lấy được nước thì xin nghĩ đến công lao của tôi, khiến cho con cháu muôn đời được nhờ ơn nước, đó là nguyện vọng của tôi.
    Lê Lợi rất thương cảm. Lê Lai nói:
    - Bây giờ đang nguy khốn, nếu ngồi giữ mảnh đất nguy hiểm, vua tôi cùng bị diệt, sợ sẽ vô ích. Nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì?
    Lê Lợi vái trời khấn rằng:
    - Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi và con cháu các tướng tá công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn triện biến thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn.
    Lê Lai vâng mệnh mang 2 voi và 500 quân kéo ra trại quân Minh khiêu chiến. Quân Minh đổ ra đánh. Lê Lai thúc ngựa xông thẳng vào giữa trận hô to:
    - Ta là chúa Lam Sơn đây!
    Quân Minh ngỡ là Lê Lợi nên xúm lại đánh kịch liệt. Lê Lai xung trận giết giặc rồi kiệt sức, bị quân Minh bắt và đem hành hình. Hôm ấy là ngày 29 tháng 4 âm lịch.
    Lê Lợi nhân lúc việc vây hãm của địch lơi lỏng, cùng các tướng chạy ra đường khác, trốn thoát. Cảm động lòng trung nghĩa của ông, Lê Lợi sai người ngầm tìm được thi hài ông, mang về an táng ở Lam Sơn.

    Chú thích:

    1. Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục thì việc này diễn ra năm 1419

    2. Khi Hán Cao Tổ Lưu Bang bị Hạng Vũ vây ngặt ở Huỳnh Dương, Kỷ Tín mặc áo ngồi xe, giả làm Lưu Bang ra hàng. Hạng Vũ tưởng bắt được Lưu Bang nên nới lỏng vòng vây, nhờ đó Lưu Bang chạy thoát. Sau Hạng Vũ phát hiện Kỷ Tín không phải Lưu Bang nên giết Tín


    Đời sau tưởng nhớ

    Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được truy tặng là "Sùng trung Đồng đức hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần", hàm thiếu uý, thuỵ là Toàn Nghĩa. Năm sau, Thái Tổ sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thề ước trước và lời thề nhớ công của ông bỏ vào trong hòm vàng. Các đời vua sau tiếp tục phong tặng cho ông, cao nhất là năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.

    Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 nhuận âm lịch năm 1433, trước khi mất có dặn lại đời sau phải làm giỗ Lê Lai trước một ngày, tức là ngày 21 tháng 8. Từ đó dân gian truyền lại câu: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi".


    Cả nhà vì nước

    Cả gia đình Lê Lai đều chết vì việc nước. Anh ông là Lê Lạn tử trận khi tham gia đánh ải Khả Lưu năm 1425.
    Lê Lai có 3 con: Lê Lư, Lê Lộ, Lê Lâm, đều được Lê Lợi nuôi như con đẻ. Lê Lư tử trận khi vây thành Nghệ An năm 1425. Lê Lộ có công tham gia đánh bại các tướng Minh là Trần Trí và Phương Chính, rồi tử trận tháng 10 năm 1424. Lê Lâm sau khi khởi nghĩa thành công được xếp vào hàng công thần thứ ba. Năm 1430 Lê Lâm làm tiên phong đi đánh Ai Lao, đuổi giặc bị trúng chông độc tử trận.
    Con Lê Lâm, cháu nội Lê Lai là Lê Niệm cũng là công thần nhà Lê. Năm 1460, ông có công cùng Nguyễn Xí, Đinh Liệt phế truất Lê Nghi Dân, đưa Lê Tư Thành lên ngôi, tức là vua Lê Thánh Tông. Ngoài ra Lê Lâm còn có công hai lần đánh Chiêm Thành năm 1446 và 1470. Trong trận năm 1470, ông cùng Đinh Liệt bắt được vua Chiêm là Trà Toàn.

    Những Lê Lai khác

    Theo sách Võ tướng Thanh Hoá trong lịch sử dân tộc, sử sách, văn bia còn để lại một số nghi vấn về những nhân vật khác cũng có tên Lê Lai sống cùng thời khởi nghĩa Lam Sơn.

    Sách Lam Sơn thực lục tục biên nêu trường hợp Nguyễn Thận người Mục Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoá) là công thần khởi nghĩa Lam Sơn, được đổi sang họ Lê và tên Lai. Sách có đề cập đến một Lê Lai liều mình cứu chúa bị tử trận và sau đó nhân vật Nguyễn Thận này vẫn tiếp tục hoạt động. Như vậy đây là hai người khác nhau.
    Văn bia ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) cũng đề cập đến một công thần khác của Lê Lợi cũng có tên là Lê Lai.
    Một nguồn tài liệu khác lại cho rằng Lê Văn An, một công thần khác của Lê Thái Tổ cũng từng có tên là Lê Lai.
    Những nghi vấn trên còn tiếp tục được khảo cứu.
  3. Trầm Tích Thành viên tích cực




    Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, sinh năm 1893 con thứ ba trong một gia đình nhà nho yêu nước ở làng Do Nha, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông nội và cha đều tham gia phong trào Văn thân kháng Pháp ở Hà Tĩnh nên sau đó bị an trí tại Cao Bằng. Do có những năm tháng thơ ấu sống ở Cao bằng nên Phạm Hồng Thái rất giỏi tiếng Trung Quốc và đó cũng là tiền đề cho những hoạt động sau này của ông.
    Thời học sinh, Phạm Hồng Thái đã tham gia phong trào công nhân Bến Thuỷ ở Vinh và kết thân với nhiều nhà cách mạng đương thời.

    Ông Nguyệt - Con trai duy nhất của Phạm Hồng Thái - cho biết: Một trong những người bạn thân thiết của cha ông lúc bấy giờ là Lê Hồng Phong. Ông kể: “Bố mẹ tôi lấy nhau là do ông Lê Hồng Phong mai mối. Các cụ đã có hẹn ước rằng sau này nếu Lê Hồng Phong có con gái thì hai gia đình sẽ làm thông gia. Nhưng lời hẹn đó đã không thành…”. Là người nhiệt thành yêu nước, Phạm Hồng Thái rời quê hương ra Bắc cùng một nhóm thanh niên có tâm huyết vượt biên qua Xiêm, rồi sau đó sang Quảng Châu (Trung Quốc) vào khoảng năm 1918. Tại đây, sau khi học tập chính trị, Phạm Hồng Thái hoạt động trong “Tâm tâm xã” cùng Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, và Lê Hồng Sơn. Tháng 6 năm 1924, toàn quyền Pháp là Méclanh sang Nhật để liên kết với quân phiệt Nhật hòng chống lại phong trào cách mạng đang lên ở Việt Nam.
    Biết tin này, Phạm Hồng Thái đã tình nguyện xin được giao trách nhiệm xử tử tên cáo già thực dân Pháp khét tiếng quỷ quyệt. Hiện ông Nguyệt còn giữ được một bản Di thư Hán văn của Liệt sĩ họ Phạm viết trước khi lên đường làm nhiệm vụ. Tài liệu mới tìm được này do một người giáo sư Trung Quốc cung cấp có đoạn viết: “Hồng Thái tôi vâng lệnh đoàn thể, hy sinh vì bốn mươi triệu đồng bào, chết không hề hối tiếc, những mong kêu cứu trên toàn thế giới để cho dân tộc Việt Nam được tồn tại trên trái đất này thì Hồng Thái tôi cũng yên lòng nơi chín suối”.

    Theo tài liệu cụ Phan Bội Châu cho biết thì Phạm Hồng Thái theo Méclanh sang Nhật nhưng không thể ra tay được vì bọn mật thám quá đông. Cuối chuyến đi, toàn quyền Méc lanh ghé vào Sa điện, Quảng Châu (Trung Quốc), và ngày 19/6/1924, hắn tổ chức một bữa tiệc linh đình tại khách sạn Victoria.

    Tối hôm đó, Phạm Hồng Thái cải trang thành một nhà báo để lọt vào hang ổ giặc. Đúng 19giờ 30 phút, khi quan khách Pháp nâng cốc chúc tụng, trái tạc đạn đã bất giờ bay ra… Toàn quyền Pháp Méc lanh kịp chui xuống gầm bàn thoát chết. Một số tay chân của hắn bị thương và cuộc đuổi bắt đã diễn ra sau đó mấy phút. Phạm Hồng Thái không muốn mình rơi vào tay giặc nên đã trẫm mình dưới dòng Châu Giang, vĩnh viễn ra đi ở tuổi 30.
    “Tiếng bom Sa điện” năm 1924 không những làm run sợ bọn quan thầy thực dân Pháp mà còn gióng lên hồi chuông khích lệ, kêu gọi ý chí của những người con yêu nước tìm đường giải phóng dân tộc. Nhiều thanh niên ưu tú đã ra đi tiếp bước theo “tiếng bom Sa điện”.
  4. Minh Phi Thành viên


    Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, tỉnh Hà Đông. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà Trần.

    Nguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu [1].
    Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả Nguyễn Phi Khanh và làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu sau (1407) quân Minh sang đánh nước Đại Ngu. Nhà Hồ thua trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần bị bắt sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh.
    Tương truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu, đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị giặc Minh bắt giữ ở Đông Quan.

    Nguyễn Trãi bỏ trốn tìm theo Lê Lợi. Các tài liệu nói khác nhau về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa. Có tài liệu nói ông tham gia từ đầu, có tài liệu nói đến năm 1420 hoặc 1423 ông mới theo Lê Lợi.
    Theo gia phả họ Đinh kể về thân thế Đinh Liệt, một tướng Lam Sơn khác, có đề cập đến việc Nguyễn Trãi gia nhập quân Lam Sơn. Theo đó, mùa xuân năm Quý Mão (1423) Nguyễn Trãi lấy tên là Trần Văn, Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ vào Lỗi Giang gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trong khi Bình Định Vương lại cho Phạm Văn Xảo đi tìm Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Vì không biết rõ lai lịch hai vị này, Nguyễn Như Lãm (cận thần của Lê Lợi) đã giao cho Trần Văn làm Ký lục quân lương, Trần Võ thì đi chở thuyền. Mãi đến khi Nguyễn Trãi dâng "Bình Ngô sách", Lê Lợi mới biết rõ hai người này và giữ lại bên mình để lo giúp việc. Tài liệu này có cơ sở vì các sử sách khi nói về giai đoạn đầu của khởi nghĩa Lam Sơn cũng không nhắc tới Nguyễn Trãi.
    Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để lật đổ ách đô hộ của nhà Minh, trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi (vua Lê Thái Tổ sau này) trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn bản trả lời quân Minh cho Lê Lợi.
    Đặc biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng giặc.
    Năm 1427, ông được liệt vào hàng Đại phu, coi sóc các việc chính trị và quản công việc ở Viện Khu mật. Quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 3 tướng giỏi: Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ BíNguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát về.
    Số đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng:
    "Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trong thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."
    Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng, Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.


    Theo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà).


    Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.
    Sau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi là dòng dõi nhà Trần, mưu phản, sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.
    Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Nguyên Hãn ủng hộ) với con thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).
    Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, ông làm bài Oan thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có câu:
    Hư danh thực hoạ thù kham tiếu, Chúng báng cô trung tuyệt khả liên. Dịch:
    Danh hư thực họa nên cười quá, Bao kẻ dèm pha xót người trung
    Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu, Tư đồ Lê Sát làm phụ chính điều hành triều chính. Nguyễn Trãi tham gia giúp vua mới. Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua:
    "Nguyện xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than". Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
    Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
    Tuy nhiên, trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn ít tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế mãi. Năm 1438, nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn Trãi. Lúc đó ông đã gần 60 tuổi, lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Đông, Bắc (cả nước chia làm 5 đạo). Thời gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh chấp.
    Vua Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho con mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thứ tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tông sau này).
    Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tai vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442. "Tru di tam tộc" là giết người trong họ của người bị tội, họ bên vợ và họ bên mẹ của người đó. Theo gia phả họ Nguyễn, ngoài những người họ Nguyễn cùng họ với ông, còn có những người họ Trần cùng họ với bà Trần Thị Thái mẹ ông, người trong họ bà Nhữ thị vợ thứ của Nguyễn Phi Khanh, những người trong họ của các bà vợ Nguyễn Trãi (kể cả vợ lẽ), tất cả đều bị xử tử.
    Thái tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân Tông

Share This Page