Công chúa Marie Antoinette của triều đình Áo, đã kết hôn với Louis XVI vào năm 15 tuổi và trở thành Hoàng hậu nước Pháp vào năm 19 tuổi. Cách mạng 1789 đã xóa bỏ chế độ quân chủ ở Pháp và những nhân vật nổi bật nhất của nền quân chủ như Vua Louis XVI và Hoàng hậu Marie Antoinette lần lượt lên đoạn đầu đài, Hoàng hậu Marie Antoinette đã viết bức thư tuyệt mệnh trong đêm cuối cùng của đời mình… Goethe đã có lần nói: “Vào những giây phút cuối của cuộc đời, những ý nghĩ chưa định hình bỗng dưng xuất hiện một cách rõ rang trong tâm trí giống như những vị thần bản mệnh tốt đẹp và sáng chói đáp xuống những đỉnh cao của quá khứ”. Một ngọn lửa bí ẩn cũng soi sáng bức thư cuối cùng của Marie Antoinette, chưa bao giờ bà thâu tóm ý tưởng của mình một cách mạnh mẽ và rõ ràng như trong bức thư vĩnh biệt gửi cho bà Élisabeth, người em chồng sắp trở thành người bảo hộ hai đứa con của bà. Nét chữ trong bức thư viết trong nhà giam cứng cỏi hơn và chắc chắn hơn tất cả những dòng chữ trong những bức thư viết trong căn phòng sang trọng ở điện Versailles: ngôn từ cũng trong sáng hơn và từ ngữ cũng mạnh mẽ hơn: dường như cơn bão nội tâm do cái chết khơi dậy đã xé toang tất cả những áng mây u ám đã che mờ một cách bi thảm trong một thời gian dài ý thức của Marie Antoinette về chiều sâu tâm hồn của chính mình. Marie Antoinette đã viết: “ Chị viết bức thư cuối cùng này cho em. Chị vừa bị kết án, không phải để đi đón nhận một cái chết nhục nhã (cái chết này chỉ dành cho những kẻ có tội) mà để đi gặp anh trai của em. Chị cũng vô tội như anh ấy và chị hy vọng mình cũng giữ được tâm hồn cứng cỏi như anh ấy trong những giây phút cuối cùng của đời mình. Tâm hồn chị thanh thản cũng như người ta cảm thấy thanh thản khi lương tâm chẳng có điều gì để trách cứ. Chị rất buồn vì chị phải bỏ lại hai đứa con tội nghiệp của chị. Chị đã đẩy em vào một tình cảnh thảm thương chỉ vì em đã hy sinh tất cả vì tình thương yêu để được ở gần anh chị. Chị biết được qua lời bào chữa ở phiên tòa rằng người ta đã cách ly em và con gái của chị. Hỡi ôi! Chị không dám viết thư cho đứa con gái tội nghiệp của chị; có lẽ nó sẽ không nhận được thư chị; chị cũng không biết bức thư này có tới tay em không. Em hãy nhận nơi đây lời chúc phúc gởi cho hai đứa con của chị. Chị hy vọng một ngày nào đó, chúng sẽ được tái hợp với em và nhận được sự chăm sóc ân cần của em. Mong rằng chúng vẫn luôn luôn nghĩ đến điều mà chị vẫn cố gắng dạy bảo chúng: những nguyên tắc và việc thi hành bổn phận là nền tảng ban đầu của cuộc sống; tình thân ái và sự tin cậy lẫn nhau sẽ mang lại hạnh phúc trong cuộc sống. Chị mong rằng con gái của chị, ở tuổi của nó, phải tự thấy mình có bổn phận phải luôn luôn giúp đỡ em trai mình bằng những lời khuyên mà kinh nghiệm và tình thân ái có thể mang lại; con trai của chị, đến lượt nó, cũng phải đền đáp sự chăm sóc của người chị với tất cả tình thân ái (có thể mang lại). Mong rằng, dù ở hoàn cảnh nào đi nữa, chúng cũng hiểu được rằng chúng chỉ thật sự hạnh phúc khi đoàn kết nhất trí với nhau; mong rằng chúng sẽ noi gương chúng ta. Trong nghịch cảnh, tình bạn đã an ủi chúng ta biết bao nhiêu. Và trong hạnh phúc, chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc gấp bội nếu được chia sẻ với một người bạn; và chúng ta có thể tìm được nơi đâu một người bạn dịu dàng, gần gũi, nếu không phải ở trong gia đình chúng ta. Mong rằng con trai chị sẽ không bao giờ quên những lời nói sau cùng của cha nó, mà chị muốn nhắc lại ở đây: mong rằng nó sẽ không bao giờ tìm cách báo thù cho cha mẹ nó! Chị phải nói với em về một điều đã làm cho chị rất đau đớn. Chị biết con trai chị đã làm cho em buồn khổ như thế nào. Em gái yêu dấu của chị, em hãy tha thứ cho nó, em hãy hiểu cho rằng, ở tuổi nó, người ta có thể ép buộc nó nói ra tất cả những gì người ta muốn, kể cả những điều nó không thể nào hiểu được. Chị hy vọng một ngày nào đó nó sẽ hiểu rõ giá trị của sự ân cần và sự trìu mến mà em đã dành cho cả hai chị em nó. Chị muốn bày tỏ với em những ý nghĩ sau cùng. Chị đã muốn viết lại những ý nghĩ này khi phiên tòa vừa mới bắt đầu, nhưng người ta không cho phép chị viết thư và phiên tòa diễn ra quá nhanh nên chị thật sự không có thời gian. Chị chết trong đạo Công giáo La Mã, trong tôn giáo của tổ tiên, tôn giáo đã nuôi dưỡng chị từ nhỏ và chị luôn luôn tin tưởng. Chẳng có hy vọng gì nhận được sự an ủi tinh thần và cũng chẳng biết được những giáo sĩ Công giáo có còn ở đây không – nơi giam cầm chị sẽ gây ra nhiều hiểm nguy cho họ nếu họ đặt chân tới – chị thiết tha cầu xin chúa tha thứ tất cả mọi lỗi lầm chị đã phạm từ khi sinh ra; chị hy vọng rằng, với long thương xót vô hạn, Ngài sẽ đáp ứng những ý nguyện sau cùng của chị cũng như những ý nguyện lâu nay và tiếp cận linh hồn chị trong tình yêu của Ngài. Chị cầu xin tất cả những người quen biết, nhất là em, tha thứ cho chị về những nỗi phiền muộn mà chị đã gây ra, dù không cố ý. Chị tha thứ cho tất cả những kẻ thù về điều tệ hại mà họ đã gây ra cho chị. Chị muốn nói lên ở đây lời vĩnh biệt những người bà con và những anh chị em của mình. Chị đã từng có những người bạn; ý nghĩ phải xa lìa những người bạn ấy và gây cho họ nỗi đau buồn là nỗi ân hận sâu sắc nhất mà chị mang theo về thế giới bên kia. Chị hy vọng ít ra họ cũng biết được rằng, trong những giây phút cuối cùng của đời mình, chị đã nghĩ tới họ. Vĩnh biệt em gái tốt bụng và hiền dịu của chị, mong rằng thư này sẽ tới tay em! Em hãy nghĩ tới chị luôn; chị hôn em thắm thiết và gửi cái hôn tới hai đứa con tội nghiệp của chị. Trời ơi, còn gì đau lòng hơn phải xa lìa chúng vĩnh viễn! Vĩnh biệ, vĩnh biệt: chị chỉ còn nghĩ tới những bổn phận tinh thần. Chị không được tự do hành động nên có lẽ người ta sẽ đưa một linh mục đến đây gặp chị; nhưng chị sẽ chẳng nói gì với ông ta và sẽ coi ông ta như một người hoàn toàn xa lạ.” Bức thư kết thúc một cách đột ngột, chẳng có câu kết và chẳng có một chữ ký nào. Dường như nỗi mệt mỏi vô hạn đã khuất phục được Marie Antoinette. Hầu hết những người thân của Marie Antoinette đều không biết tới sự tồn tại của bức thư viết dưới bóng máy chém. Trước giờ đao phủ thủ đến, bà trao bức thư cho viên Bault để ông ta chuyển cho bà Élisebeth. Bault có đủ lòng nhân đạo để đưa giấy và viết cho Marie Antoinette, nhưng lại không có đủ can đảm chuyển bức thư mà không được phép của chính quyền cách mạng. Ông ta trao bức thư cho Fouquier – Tinville và vị đại biểu này cất vào hồ sơ. Hai năm sau, đến lượt Fouquire lên máy chém và bức thư biến mất, chẳng còn ai biết tới bức thư đó, ngoại trừ một người tên Courtois. Courtois – một đại biểu chẳng có tài năng và chẳng có tiếng tăm gì – nhận được tờ lệnh của Quốc ước (Quốc hội của Pháp) phân loại và công bố tất cả những giấy tờ của Robespierre sau khi nhà lãnh đạo này lên đoạn đầu đài. Bức thư tuyệt mệnh của Marie Antoinette được tìm thấy trong mớ hồ sơ do Robespierre để lại. Khi nền quân chủ được tái lập (1814), Courtois đã trao bức thư này cho Louis XVIII và thế là 21 năm sau khi Marie Antoinetette lên đoạn đầu đài, mọi người trên thế giới mới được đọc bức thư cuối cùng của vị Hoàng hậu bất hạnh nhất nước Pháp./.