Về Cam Lộ, đi chợ phiên ,,,,,,,,,,, Theo lời kể của các bậc cao niên, chúng tôi tìm về chợ phiên Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Phiên chợ bắt đầu từ mờ sáng. Không phải người hẹn chợ mà chợ hẹn người vào những phiên chợ đông vui, nhộn nhịp các ngày 3, 8, 13, 23 và 28 (Âm lịch) hàng tháng. Đi tìm chợ xưa Quang cảnh chợ phiên nhìn trên cao xuống Có mặt ở chợ phiên Cam Lộ lúc 5g sáng ngày 13-8 (Âm lịch), chúng tôi gặp một cụ bà 75 tuổi, đang ngồi bổ cau ở một lều dành riêng cho hàng Cau, chưa kịp chào thì đã nghe cụ hỏi: “Đi mua sắm hay đi thăm chợ thế”? Cô bạn đi cùng đã nhanh nhảu “chúng con đi thăm chợ”. Trước đây, chợ phiên Cam Lộ được xem là một trung tâm thương nghiệp lớn có tiếng ở nông thôn Việt Nam, được sử sách ghi lại năm 1621. Theo hồi ức của một số bô lão ở làng Cam Lộ, chợ đã được dời qua nhiều địa điểm khác nhau: trước thế kỷ XIX, chợ phiên nhóm họp ở Tân Tường (km 15 của Đường 9), về sau chuyển về Bến Đuồi, bên bờ sông Hiếu. Từ khi được chuyển về Bến Đuồi, chợ được mở mang, xưng danh là tiểu Trường An. Một dải chợ tấp nập kéo dài từ Bến Đuồi đến đình Cam Lộ, là nơi quy tụ hàng hóa, đặc sản từ mười phương gửi tới chào mời, trao đổi. Hàng từ Huế ra theo đường biển, ngược sông Hiếu lên chợ phiên Cam Lộ thường mang theo nón bài thơ, đường phèn, đường phổi, thuốc bắc, gia vị... Hàng từ Quảng Bình vào có trứng vịt, nồi đất, hàng đan lát, mây, trầm hương, trâu bò, gà heo... Còn người Lào, để kịp phiên chợ thì hàng hóa được gởi về trước 2 ngày. Năm 1776, nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng đến đây và ghi lại. Lúc này chợ phiên Cam Lộ phát triển, thuyền buôn của Nhật, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha...vào Cửa Việt lên đây, về đây giao thương. Đến năm 1930, chợ phiên Cam Lộ không đơn thuần là nơi giao thương, buôn bán mà còn là địa điểm hoạt động của các chiến sĩ cách mạng. Tại đây, đồng chí Lê Duẩn cùng với các đồng chí Hồ Xuân Lưu, Hoàng Hữu Chấp... hội bàn lập chi bộ để lãnh đạo phong trào ở chợ phiên, đã chọn tiệm thuốc bắc và rượu Xi - Ca ở phố Đông Nguyên làm nơi đặt cơ quan tài chính của Đảng. Tháng 8-1945, chợ phiên là nơi diễn ra cuộc đàm thoại giữa đại diện đặc trách của ta và Nhật, yêu cầu Nhật giữ thái độ trung lập khi ta tiến hành khởi nghĩa chống Pháp. Lúc này, chợ phiên Cam Lộ đã chuyển từ chợ thời bình sang chợ lưu động thời chiến. Năm 1946, Pháp chiếm Đường 9 và cho quân chiếm đóng, chợ phiên phải dời tới An Thái, xã Cam Tuyền. Những năm 1948 – 1950, chợ phiên được gọi là chợ Kháng chiến, đóng ở những nơi gần chùa, miếu có nhiều cây cối rậm rạp. Sau năm 1954, địch buộc người dân dời chợ đi nơi khác để chúng dễ kiểm soát, nhưng người dân Cam Lộ nhất quyết không dời, duy trì chợ cho đến ngày nay. Muốn mua vui, đến Cam Lộ...… Đứng trên đường Hồ Chí Minh nhìn xuống, chợ phiên trong mắt chúng tôi là những ngôi lều nhỏ, được lợp bởi những tấm tôn cũ kỹ, bạc màu theo thời gian trông không có gì thu hút lắm. Thế mà, vào trong chợ chúng tôi mới thật sự bất ngờ bởi sự tấp nập của người bán, người mua và đặc biệt hơn, các mặt hàng ở đây rất phong phú: từ vàng, bạc đến mắm, muối, dưa, cà.... tất cả được trưng bày rất đẹp. Hàng Cau, hàng Trầu, hàng Nếp cho đến hàng Khoai... mỗi hàng có một góc riêng. Vẫn là góc chợ xưa, vẫn còn nón Huế đưa ra, trứng vịt Quảng Bình đưa vào, nhưng khác một điều là không có voi để đổi bạc trắng, đổi súng và không còn những phiên chợ có đến 300 con trâu… như nhà bác học Lê Quý Đôn từng chứng kiến. Nhưng cứ đến hẹn là chợ phiên Cam Lộ lại nhộn nhịp, tấp nập người bán người mua. Chợ phiên như đã ăn sâu vào máu thịt người Cam Lộ và người dân Quảng Trị. Với người dân Cam Lộ, nhắc tới chợ phiên ai ai cũng tự hào, họ xem đây là một nét văn hóa lâu đời của cha ông, đã đi vào sử sách. Bây giờ, Cam Lộ có thêm chợ Cam Lộ được xây dựng to và đẹp, có đủ mặt hàng nhưng lượng khách vẫn không đông hơn chợ phiên. Nếu như người dân Bắc tự hào bởi câu ca “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa” hoặc “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến”, thì người dân Cam Lộ cũng có lời nhắn nhủ thiết tha với mọi người “Muốn mua vui, đến chợ Phiên Cam Lộ”!.
Tiêu Cùa!!! PHỤC HỒI VỊ THẾ CÂY HỒ TIÊU VÙNG CÙA Có người nói rằng, hương vị của cây hồ tiêu đã mang danh tiếng vùng Cùa đi xa. Đúng vậy, từ hàng trăm năm qua, nhiều người biết đến vùng Cùa bởi hương vị đặc trưng hiếm có của hạt tiêu nơi đây, trên thương trường, tiêu Cùa đã mặc nhiên trở thành một thương hiệu bất thành văn bởi chất lượng không thể lẫn lộn của nó. Cơn bão đại hạ giá hạt tiêu trong những năm vừa qua đã tàn phá nặng nề những vườn tiêu vùng Cùa. Chỉ trong ba năm mà diện tích hồ tiêu giảm hơn một phần ba, từ 500 ha năm 1997 xuống chỉ còn 320 ha năm 2000, và hiện nay diện tích hồ tiêu toàn vùng cũng không nhích lên được bao nhiêu mà có nguy cơ giảm xuống bởi dịch bệnh, nợ nần và sự hờ hững của con người. Và mới đây khi giá hồ tiêu trên thị trường đang có chiều hướng gia tăng, người trồng tiêu vùng Cùa mới ngộ ra một điều rằng, nếu chỉ trồng tiêu theo dạng phong trào và không nắm vững quy luật thị trường thì dù có cố gắng đến đâu cây hồ tiêu vẫn lụi tàn và người trồng nó vẫn luẩn quẫn trong cái đói cái nghèo. Xã Cam Nghĩa một vựa tiêu nổi tiếng với nhiều "ông vua vàng đen” đã tan nát sau nhiều năm giá hạt tiêu khô không vượt qua ngưỡng 20 000 đồng/kg. Trên 100 ha hồ tiêu tại đây đã bị xoá sổ và thay vào đó là sắn KM94, cao su, cỏ voi (nuôi bò nhốt) và cả cỏ dại (vì bỏ hoang). Nguyên do của vấn đề là do sự đầu tư ồ ạt theo dạng phong trào, khi hồ tiêu được giá thì nhà nhà trồng tiêu, người người vay tiền trồng tiêu để đến khi tiêu hạ giá, không bán được nhưng số tiền nợ của người dân ở ngân hàng lên đến gần 20 tỷ đồng. Sự suy sụp chóng vánh của cách đầu tư thiếu thận trọng đã giáng một đòn mạnh vào tâm lý người trồng tiêu và hậu quả cụ thể là nhiều vườn tiêu tan hoang, diện tích giảm và nhiều năm diện tích trồng mới ở mức âm. Để duy trì cuộc sống, người trồng tiêu đã phải làm đủ thứ nghề, kể cả bán đất, bán choái, làm thuê làm mướn đắp đổi qua ngày, thực tế đến nay vẫn còn nhiều gia đình vẫn chưa trả được nợ ngân hàng. Còn ở Cam Chính, vấn đề cũng không có gì sáng sủa hơn, chỉ khác một điều người dân ở đây do không dám vay nhiều nên nợ nần có đỡ hơn, nhưng thảm họa tiêu rớt giá thì không có gì khác, nhiều người đã để vườn tiêu sống ngắc ngoải do không có vốn đầu tư hoặc thiếu sự quan tâm khi đầu ra của sản phẩm không đủ bù đắp chi phí. Thực trạng trên kéo dài nhiều năm nhưng không phải không có người ở vùng Cùa vẫn gắn bó với cây hồ tiêu vì họ nắm được quy luật vận động hình sin của giá. Ông Hoàng Kim Thục ở Đại Độ, Cam Chính là một ví dụ. Khi mọi người hoảng hốt trước việc hồ tiêu đại hạ giá, ông vẫn kiên trì với việc đầu tư chăm sóc và mở rộng diện tích trồng mới vì theo ông sự sụt giảm giá chỉ có tính chất tạm thời, nếu kiên trì mai phục sẽ “thắng lớn”. Và thực tế đã trả lời nhận định của ông là đúng đắn, chỉ riêng hai năm gần đây, việc giá hồ tiêu tăng lên trên mức 50 000 đồng/kg, với diện tích trên 1 ha, bình quân mỗi năm cho sản lượng trên 1,5 tấn tiêu khô đã mang về cho gia đình ông nguồn thu nhập hàng chục triệu đồng. Và có thể kể thêm nhiều hộ gia đình kiên trì với việc trồng tiêu và thu về nguồn lợi không nhỏ như gia đình anh Cao Hữu Phước, Nguyễn Văn Lưu ở Lộc An, Nguyễn Xuân Hoài ở Mai Lộc... Từ thực tế trên nhiều người đã tỉnh ngộ ra một điều là với vùng đất Cùa không có cây trồng gì mang lại hiệu quả cao hơn so với cây hồ tiêu và chưa thể có một loại cây công nghiệp nào có thể thay thế được chúng. Do đặc điểm khí hậu và thổ nhưỡng, hạt tiêu vùng Cùa có một hương vị đặc trưng và được khách hàng nhiều nơi đón nhận, vậy có thể coi đây là một loại cây đặc sản của một vùng đất và đã là cây đặc sản thì không lý gì không duy trì và phát triển chúng. Nhận thức được điều đó, từ ba năm trở lại đây huyện Cam Lộ và các xã vùng Cùa đã có sự thay đổi trong nhận thức về việc phát triển cây hồ tiêu, đó là phải quy hoạch lại vùng hồ tiêu và phát triển cây hồ tiêu giá rẻ để người trồng tiêu có thể sống được với điều kiện giá cả hạt tiêu trên thị trường biến động thất thường. Mặt khác để tôn vinh giá trị của loại cây đắc sản này nhiều người đã nghĩ đến việc xây dựng thương hiệu và đăng ký nhãn hiệu cho hạt tiêu vùng Cùa để tìm lại được chỗ đứng xứng đáng của nó trên thương trường. Từ nhận thức đó, hai năm trở lại đây, người trồng tiêu vùng Cùa đã thay đổi trong cách nghĩ cách làm để duy trì và gia tăng giá trị cây tiêu mà họ từng gắn bó. Nếu như trước đây người dân vùng Cùa trồng tiêu bằng mọi giá thì giờ đây cây tiêu đã tìm được giá trị đích thực của nó trên những vùng đất phù hợp theo đúng quy hoạch. Đến nay, trên những vùng đất được xem là phù hợp hàng chục héc ta hồ tiêu trồng mới đã được thay thế những loại cây trồng không có hiệu quả kinh tế. Việc đầu tư cho cây tiêu cũng đã có sự thay đổi lớn, nhiều gia đình đã giảm chi phí mua choái bằng việc tận dụng những loại cây có sẵn trong vườn hoặc tìm tòi các giống cây trồng thích hợp với giá rẻ hơn việc mua trụ choái từ các nơi khác về vừa đắt đỏ vừa dễ chết do không phù hợp thổ nhưỡng. Mặt khác việc ứng dụng nông nghiệp sinh thái bền vững trong quá trình đầu tư thâm canh, hạn chế tối đa việc sử dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu không chỉ làm giảm giá thành mà còn cho sản phẩm sạch đáp ứng nhu cầu của “những nhà tiêu dùng thông thái”. Có dịp đến vùng Cùa, điều dễ dàng nhìn thấy là gần như nhà nào có diện tích tiêu lớn cũng đều có nuôi trâu bò để tạo nguồn phân hữu cơ cung cấp cho cây tiêu. Từ bài thuốc nam chữa bệnh cho cây tiêu rất hiệu quả của ông Trần Văn Miên ở Mai Đàn, nhiều người đã từ chối với việc đưa các loại thuốc hoá học trị bệnh cho tiêu lợi ít mà hại nhiều. Sau nhiều năm sóng gió với giá cả lên xuống thất thường, người dân vùng Cùa đã nhận ra một điều là để cây hồ tiêu đứng vững và trở thành cây làm giàu trên vùng đất này không có cách nào hơn là phải chung thuỷ với nó, tuy nhiên việc thay đổi trong nhận thức về quá trình đầu tư cũng đã được đặt ra. Từ nhận thức đó, hai năm trở lại đây cây hồ tiêu đã thực sự được khôi phục và đang mang lại niềm vui mới cho người trồng tiêu, nói như ông Nguyễn Quốc Đồi ở Mai Lộc, khi đã chấp nhận sống chung với hồ tiêu giá rẻ thì dù giá mỗi kg hạt tiêu khô có ở mức 20 000 đồng thì người trồng tiêu vẫn sống khoẻ vì so với nhiều loại cây trồng khác trên vùng đất này giá như vậy là có thể chấp nhận được. Theo thông báo của lãnh đạo hai xã vùng Cùa, năm nay sẽ có thêm 100 ha hồ tiêu được trồng mới (tất nhiên là kiểu trồng tiêu giá rẻ) và chẳng bao lâu nữa diện tích hồ tiêu vùng Cùa sẽ đạt mục tiêu đã được quy hoạch là trên 700 ha, cây hồ tiêu sẽ gắn bó mãi với vùng Cùa.
Chợ phiên bây giờ không giống như ngày trước nữa. Có lẽ mọi thứ sẽ thay đổi theo thời gian. Tình yêu ko đổi thay nhưng lòng người hay thay đổi mà!!!
Cam Lộ trầm tích! Cam Lộ trầm tích. Khu di tích trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Cam Lộ. Ảnh: Tầm Thư Số phận đã đặt tôi vào mảnh đất này như sự hội ngộ lứa đôi sâu sắc và bền chặt. Em, con gái vùng Cùa, mặt tròn da trắng, má lúm đồng tiền, đã hút hồn tôi ngay lần gặp đầu tiên tại Trường Trung cấp sư phạm Quảng Trị. Mai, Hoàng Mai ở Cùa phải không? Tôi hỏi. Vâng, em là Mai Cùa đây, còn anh có phải là... bộ đội ở gần Trường sư phạm không? Lạ kỳ rứa đó, chính từ lần gặp tình cờ và cũng khá bất ngờ này cuộc đời tôi và em đã gắn bó với nhau, từ nụ hôn đầu tiên trên cỏ mật đến đằng đẵng một năm xa nhau khi tôi đi học sĩ quan và tới đám cưới nhà binh được tổ chức giản dị nhưng vui vẻ ấm áp tại đơn vị tôi. Hai mươi lăm năm rồi, em và tôi là của nhau. Qua em, tôi có thêm một miền quê hương nghèo khó nhưng con người thơm thảo, mộc mạc và lạc quan. Đó là Cùa, là Cam Lộ yêu thương. Từ đường Chín vào Cùa chỉ non mươi cây số nhưng một nửa là đường đèo. Núi không cao lắm nhưng đường quanh co, khúc khuỷu. Ngày xưa đèo Cùa này được gọi là đèo Vắt. Cái thời cây cối rậm rạp, lối mòn in dấu cọp beo, hoẵng tác bên tai, gà rừng bay qua đầu người, sên vắt nhiều như lá, đã xa lắc xa lơ vì bây giờ đường nhựa rộng thênh, mềm mại uốn lượn qua đèo Cùa. Tên vẫn xưa và cảnh đã khác, nhưng với em và tôi, bao kỷ niệm thời hàn vi lãng mạn vẫn còn thấp thoáng lưng đèo. Mây trắng. Ráng hồng. Trái sim chín trước tháng ngâu. Hoa lau bạc se gió chạp. Con suối chảy lấp loáng dưới chân đèo. Gió Lào thổi ồi ồi qua vai áo. Tiếng chim lũng núi. Tất cả, vẫn còn đây gợi nhắc trong tôi những kỷ niệm ngọt ngào bâng khuâng khi về Cùa... Qua hết đèo, ta gặp gỡ một vùng thung lũng đất màu mỡ đỏ au là hậu duệ của những dòng nham thạch thời hồng hoang thăm thẳm. Xóm mạc quây quần. Tiêu, chè, chuối, sắn tươi tốt. Người ở giữa cây xanh, cây lên lộc kết trái bên người, cuộc sống an nhiên và hòa thái, nhiều yên tĩnh, ít ham hố tham lam. Ruộng lúa chân đồi. Bàu ao ven xóm. Hạt tiêu xứ Cùa có vị cay không gắt và thơm. Sớm sương, người đi chợ nói cười râm ran. Cuối chiều, tiếng mõ trâu lóc cóc kiệt xóm. Cưới xin, giỗ chạp cũng là dịp dựng rạp mời làng, tuy tốn kém một chút nhưng được cái đoàn tụ hàn huyên rộn ràng. Đến thời kinh tế thị trường như bây giờ, may thay cái chất chân mộc của cuộc sống ở đây vẫn được giữ gìn. Nét văn hóa thôn quê đầm ấm, trọng nghĩa trọng tình vẫn là chủ đạo. Không phải sống bon chen hối hả đến ngột thở như ở các thành phố lớn. Dòng đời chậm chậm trôi, con người từ từ sống với cỏ cây ruộng rẫy vườn tược, xóm mạc họ hàng. Gặp nhau hỏi chào xởi lởi. Cùa-một dấu lặng trong cuộc sống xã hội sôi động hiện thời. Chẳng biết có lẩn thẩn không, khi mệt mỏi ngột ngạt với bầu khí Hà Nội, tôi lại nhảy xe "tua" vào quê mình, quê vợ để được tận hưởng cái yên tĩnh xóm mạc, ăn bát canh rau lang phảng phất mùi ruốc bể do em gái nấu, hay dùng món mít thấu do mẹ vợ tôi làm... Hơn mười năm gia đình tôi ở Cùa, nơi từng là kinh đô kháng chiến của vua Hàm Nghi. Cũng gần ngần ấy thời gian sống ở thị trấn Cam Lộ, nơi Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam từng làm việc. Và nay, sống giữa lòng thủ đô Hà Nội. Cũng bởi cái điều ấy mà khi trà dư tửu hậu, tôi đã có lúc cao hứng mà rằng: số tôi là phải sống ở thủ đô. Những "thủ đô" gắn với những bước đi của lịch sử dân tộc. Tân Sở ở Cùa là "thủ đô" của phong trào Cần Vương, là "thủ đô" của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, dù rằng nó chỉ mang tính sách lược của cách mạng. Hai lần từng là trung tâm của những cuộc kháng chiến ái quốc, Cam Lộ ghi dấu tích lịch sử bi tráng, như biểu tượng sinh động của lòng yêu nước quật khởi. Giữa lòng thị trấn có nhà bia tưởng niệm 108 chiến sĩ hy sinh trong trận đánh chi khu Cam Lộ vào Tết Mậu Thân năm 1968. Trận tấn công của ta bị tổn thất nặng nề, xác bộ đội nằm rải khắp nơi, sáng mồng ba tết địch dùng dây kéo về hất xuống con hào sâu hơn hai thước rồi dùng máy ủi lấp lại. Đau hơn, là đối phương còn lát ghi sắt lên trên làm bãi đổ của máy bay trực thăng. Hết chiến tranh, thị trấn là một vùng đất trắng hoang vu lạnh lẽo. Không ai biết hài cốt các anh nằm ở đâu. Nhà tôi và hầu hết các nhà ở thị trấn Cam Lộ đều lập thêm bàn thờ ngoài trời, vào dịp mồng một ngày rằm, lễ tết thắp hương cho người đã khuất. Cam Lộ từng là chiến địa đẫm máu, không hiếm những hài cốt chưa được mồ yên mả đẹp, những linh hồn lang thang trong gió sương. Dưới những ngôi nhà, mảnh vườn, con đường của thị trấn xinh xắn nằm bên dòng sông Hiếu này, ai dám bảo không còn những hài cốt liệt sĩ ta. Cách đây không lâu, thị trấn lại phát hiện được một hầm lớn chôn 80 liệt sĩ ta tại dưới một nền nhà dân. Bên các bộ hài cốt đã vụn vữa, sắp tan hòa vào đất là những đôi dép cao su, chiếc bút máy Trường Sơn, mảnh vải dù, cái ví da... Trong lòng đất Cam Lộ đang cất giữ không ít những di vật đơn sơ của một thời máu lửa, một quá khứ bi hùng… Một Cam Lộ đang đổi thay! Chẳng khó khăn gì để nhận ra điều ấy. Năm 1994, khi gia đình tôi từ Cùa chuyển ra thị trấn thì trước mặt nhà tôi là con đường đất đỏ gồ ghề lồi lõm vết chân trâu, lũ con tôi và bọn trẻ hàng xóm còn chơi trốn tìm trong vạt bạch đàn vào xóm. Nay, trước mặt nhà tôi là con đường rải nhựa rộng thênh nối liền đường số 9 xuyên Á với đường Hồ Chí Minh. Vạt bạch đàn đã nhường chỗ cho Nhà Văn hóa trung tâm huyện khang trang với một khoảng sân thoáng đãng rộng rãi. Kề bên là Nhà thi đấu thể thao cao lớn vừa được khánh thành, rồi Công viên thiếu nhi... đã đưa vào sử dụng. Ngoài Chợ Phiên truyền thống gần cầu Đuồi sông Hiếu, chợ trung tâm thị trấn sáng sủa bên đường xuyên Á, cách Cửa khẩu Lao Bảo 60 cây số, xôn xao kẻ bán người mua. Một thị trấn Cam Lộ xinh xắn tươi đẹp đang ngày thêm khởi sắc với bao đường nét mới. Phần do công sức của nhân dân bỏ ra, phần do sự hảo tâm giúp đỡ của bè bạn trong và ngoài nước. Cam Lộ, vùng đất ghi dấu nhiều chiến công hiển hách và hy sinh mất mát trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trở thành địa danh đỏ, nơi còn lưu giữ nhiều kỷ niệm của một thời để nhớ. Trong ký ức thời gian của không ít người lính và con cháu họ, cả bên này bên kia, Cam Lộ vẫn là nỗi canh cánh tới bây giờ. Càng hội nhập, người ta càng thao thức với dĩ vãng trong tâm nguyện hướng về tương lai từ những bài học xương máu của quá khứ. Vùng đất quê hương của nhà thơ tài hoa Chế Lan Viên không còn cảnh "Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ/ Những đồi sim không đủ quả nuôi người", nhưng để xênh xang giàu có thì còn cần phải làm nhiều việc lắm… Nhà thơ NGUYỄN HỮU QUÝ
Khi search trên Google tớ chỉ tìm ra có 3 bài viết này và up lên............ Mọi người tìm được bài nào thì up lên nhá.............. Giá mà mình có năng khiếu một chút thì nhất định sẽ viết bài về Cam Lộ.........Hì hì!
Vang bóng một thời chợ phiên Cam Lộ (Thứ Hai, 23/06/2008-10:28 AM) Sau 60 năm trở về quê hương, tôi vẫn nhớ hình ảnh chợ phiên Cam Lộ ngày nào... Vào ngày 3, 8, 13, 18, 23, 28 Âm lịch, chợ phiên Cam Lộ tràn đầy hàng hóa với đủ loại nông sản, lâm sản, hải sản, đồ gia dụng với muôn hương, ngàn sắc từ khắp các vùng trong, ngoài nước đưa về. Đó là đường đen, đường phèn, đường cát, gạo nếp trái cây, vàng mã từ Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế đưa ra; đậu đen, đậu xanh, đậu ván, đậu phụng, cau trầu từ Gio Linh, Vĩnh Linh - Quảng Trị và đồ sắt, đồ đồng, đồ bạc từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đưa vào; mây song, lá nón, mật ong, trầm hương, heo, gà từ miền thượng du phía tây chở xuống; tôm, cá, muối, mắm từ miền duyên hải Quảng Trị đưa lên; trâu bò từ Ai Lao và vải vóc, nhung lụa từ HongKong, Ma Cao đưa sang. Chợ phiên Cam Lộ thời ấy sầm uất, trên bến dưới thuyền đông vui lắm. Đúng như mô tả của Lê Quí Đôn trong “Phủ biên tạp lục” cuối thế kỷ 18. Chợ phiên Cam Lộ thời nay trông tiều tụy như cái chợ chiều. Được biết, trong qui hoạch mạng lưới thương mại dịch vụ trọng điểm, tỉnh Quảng Trị không đề cập đến chợ phiên Cam Lộ. Trong qui hoạch mạng lưới vệ tinh của Trung tâm Thương mại Quốc tế Lao Bảo do các Bộ, ngành đề xuất cũng chỉ nói tới thị xã Đông Hà, thị trấn Hải Lăng và khu dịch vụ ngã tư Sòng, không nói tới chợ phiên Cam Lộ. Tỉnh và huyện không có kế hoạch đầu tư phát triển chợ thêm mà chỉ cho tiến hành trùng tu sửa sang lại. Lợi thế về đường thủy và ảnh hưởng giao thương của chợ phiên Cam Lộ bây giờ không còn như trước vì đã có tuyến đường Hồ Chí Minh đi qua huyện, trục đường quốc lộ 9 lên Lao Bảo sang Lào và Thái Lan cũng đã được cho đại tu mở rộng. Khi đề ra chủ trương mở hành lang kinh tế Đông – Tây, chính phủ 3 quốc gia đã tạo điều kiện tiên quyết để các tỉnh ở hai bên trục đường quốc lộ số 9 thuộc miền Trung Việt Nam, các tỉnh phía Nam Lào, các tỉnh Đông Bắc Thái Lan có cơ hội tập trung nguồn lực khai thác tiềm năng đất đai, phát huy thế mạnh ngành nghề, xúc tiến phát triển sản xuất các sản phẩm hàng hóa địa phương; để giao thương hỗ trợ và bù đắp cho nhau những phần còn thiếu; từng bước cải thiện đời sống nhân dân, làm giàu cho mảnh đất quê hương. Tuy nhiên, nếu cho rằng “thương hiệu Chợ phiên Cam Lộ” không còn giá trị làm điểm tựa phát triển nền kinh tế của vùng này, thì có “thương hiệu” nào tốt hơn? Đất đai huyện Cam Lộ và các huyện kế cận như Hướng Hóa, Gio Linh, Vĩnh Linh rất thích hợp trồng đại trà các loại cây công nghiệp đặc sản mà nhiều quốc gia trong khu vực không có, rất thèm muốn như: cao su, hồ tiêu, ca cao, cà phê, trà, cau, trầm hương, đậu nành, đậu phụng, nếp hương dành cho người Trung Hoa (Trung Quốc, lục địa HongKong, Ma Cao, Đài Loan, Singapore); cá khô, tôm khô, mực khô, muối, mắm vùng biển Quảng Trị dành cho các tỉnh phía Nam Lào, Đông Bắc Thái Lan v.v... Vậy nếu chọn một chỗ làm chợ đầu mối giao dịch quốc tế mua bán các loại sản phẩm đắc địa nêu trên tại địa bàn tỉnh Quảng Trị, thì có chỗ nào tốt hơn Chợ phiên Cam Lộ? Vì Chợ phiên Cam Lộ có vị thế giao thương thuận lợi hơn cả. Ví dụ vận chuyển đồ hải sản từ cửa Việt lên chợ phiên bán sang Lào, Thái Lan, có phương tiện nào tốt hơn tàu, thuyền đi dọc sông Hiếu, vừa tiện lợi, lại vừa rẻ; hoặc vận chuyển hàng nông, lâm sản về chợ phiên bán sang Đài Loan, Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á thì có các trục đường quốc lộ số 9, số 1, trục đường Hồ Chí Minh. Nếu chợ phiên Cam Lộ được chọn làm chợ đầu mối hàng nông, lâm, hải sản trong giao lưu kinh tế Đông – Tây có thể sẽ kích thích mạnh tâm lý các thương gia nước ngoài và Việt kiều trong khu vực đến giao dịch, mua bán, tham quan, từ đó sẽ kích thích ngành dịch vụ thị trấn Cam Lộ phát triển. Vấn đề đặt ra, để chợ phiên Cam Lộ hội đủ điệu kiện trở thành chợ đầu mối giao lưu, buôn bán quốc tế tại Việt Nam, thì quy mô chợ phải được tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả kinh tế, về văn hoá, xã hội. Chợ cần được quy hoạch lại, đảm bảo có đầy đủ các khu vực giao thương dành cho người địa phương và các tư thương nước ngoài. Về tổ chức không gian, khu vực chợ có thể nằm cả 2 bên bờ sông Hiếu, tạo thêm tuyến du lịch đường sông từ chợ ra biển cửa Việt, tựa như tuyến du lịch sông Hương từ TP Huế ra cửa biển Thuận An. Khi ấy, thị trấn Cam Lộ không chỉ là thủ phủ của huyện Cam Lộ; mà còn là thủ phủ kinh tế, văn hóa, du lịch của cả vùng. Ngoài các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và huyện Cam Lộ, tại khu vực chợ có thể xây dựng một nhà bảo tàng lịch sử về các phong trào yêu nước, trưng bày đầy đủ các hiện vật, tư liệu hình ảnh về các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử, các nhân vật lịch sử từng in dấu tại địa bàn huyện Cam lộ từ thời Cần Vương đến cách mạng tháng 8 năm 1945, như vua Hàm Nghi và các đại thần chống Pháp của phong trào Cần Vương giữa thế kỷ 19; như Nguyễn Khóa Bảo và các chiến hữu của cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916; như các Sứ ủy trung kỳ Đảng Cộng Sản Đông Dương về chỉ đạo phong trào cách mạng tỉnh Quảng Trị thường xuyên họp kín tại đình làng Cam Lộ, các lớp cán bộ ưu tú của Đảng hoạt động tại huyện Cam Lộ qua các thời kỳ. Việc phục hồi chợ phiên Cam lộ và chọn nó làm chợ đầu mối buôn bán hàng nông, lâm, hải sản quốc tế tại Việt Nam của hành lang kinh tế Đông – Tây, không chỉ nhằm thực thi cam kết quốc tế của chính phủ Việt Nam mà còn phát huy thế mạnh đất đai, nguồn lợi thủy hải sản phong phú để phát triển nền kinh tế miền Trung. Trần Công Thanh
Làm đường cao tốc Cam Lộ - Đà Nẵng: Miền Trung chuẩn bị tăng tốc Trục đường cao tốc Cam Lộ - Đà Nẵng đang trong bước chuẩn bị đầu tư. Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi vừa được Tư vấn thiết kế là Tổng công ty Tư vấn thiết kế GTVT (TEDI) hoàn thành trình chủ đầu tư. Việc xây dựng tuyến đường này có ý nghĩa to lớn đối với cả khu vực Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam trung bộ. Trục đường cao tốc Cam Lộ - Đà Nẵng nằm trong đường cao tốc Bắc - Nam đi qua vùng trung Trung bộ sẽ được xây dựng nằm trải dài theo 3 tỉnh trọng điểm miền Trung là Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và thành phố Đà Nẵng. Đây là nơi tập trung các khu kinh tế, các khu chế xuất, khu công nghiệp, các đô thị trọng điểm miền Trung. Đường cao tốc Cam Lộ - Đà Nẵng cùng với đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi sẽ tạo động lực phát triển kinh tế các tỉnh miền Trung, đồng thời có vai trò quan trọng trong liên kết các vùng kinh tế phía Bắc với phía Nam, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vận tải ngày một gia tăng của khu vực, giải quyết ách tắc trên QL1A, tạo nên mạng lưới giao thông hoàn chỉnh của khu vực. Dự án sẽ bắt đầu tại giao của thị trấn Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị với QL9 khoảng km11+542, tức là đoạn điểm tiếp nối với cầu Đuồi (đường Hồ Chí Minh). Điểm cuối của trục đường là khu vực Tuý Loan (Đà Nẵng), nơi tiếp nối với điểm đầu của đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi. Toàn tuyến đường chia làm 3 đoạn: đoạn Cam Lộ - Nam cầu Tuần, đoạn Nam cầu Tuần - Hoà Liên và đoạn Hoà Liên - Tuý Loan. Đoạn Cam Lộ - Cầu Tuần tuyến đường cao tốc đi theo hướng tuyến đã được xác định trong dự án đường Hồ Chí Minh, từ khoảng km11+542/QL9 tuyến đi về phía đông đập Nghĩa Hy, sau đó qua vùng đồi thấp, vượt sông Thạch Hãn ở cách vị trí đập Trấm khoảng 3km về phía thượng lưu, qua khu vực núi Trường Phước, vượt sông Mĩ Chánh, Ô Lâu về Hoà Mĩ. Từ đây tuyến đường đi men theo chân núi, vượt sông Bồ và cắt tỉnh lộ 16 ở khoảng km7, nhập vào tuyến tránh thành phố Huế tại Bồn Trì, qua cầu Tuần để về Lộc Bổng (Nam cầu Tuần). Chiều dài tuyến là 97,61km. Tuyến đường đạt tiêu chuẩn đường cao tốc cấp 80-100, bề rộng nền đường 4 làn xe. Đoạn Nam Cầu Tuần - Hoà Liên, tư vấn thiết kế lựa chọn phương án tuyến đi phía Tây Bạch Mã, qua Khe Tre, đèo Đề Bay và Mũi Trâu. Theo phương án này, từ Lộc Bổng tuyến đường đi qua vùng đồi thấp và theo tỉnh lộ 14B qua đèo La Hy về thị trấn Khe Tre. Từ đây tuyến chạy sát chân dãy núi bên trái về cửa rừng số 2 để đi vào vùng đệm của rừng quốc gia Bạch Mã. Tuyến vượt đèo Đề Bay và Mũi Trâu bằng 3 hầm có chiều dài 2.600m (hầm dài nhất 900m), sau đó tuyến đi hữu ngạn sông Cu Đê về Hoà Liên. Chiều dài đoạn tuyến này là 67,9km và đạt tiêu chuẩn đường cao tốc 60-80. Bề rộng nền đường 4 làn xe từ 22-25,5m. Theo phương án này, dùng bán kính tối thiểu 140m (cấp 60) đoạn qua đèo La Hy và đoạn qua rừng quốc gia Bạch Mã. Đoạn Hoà Liên - Tuý Loan, tuyến đường cao tốc đi theo vùng bán sơn địa về Tuý Loan (điểm đầu đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi). Chiều dài tuyến là 14,865km và đạt tiêu chuẩn đường cao tốc 4 làn xe cấp 80-100. Chiều dài toàn tuyến đường là 177,74km với 6 hầm- dài tổng cộng 2.450m và hàng chục cầu lớn nhỏ-dài tổng cộng 10.513m. Tuyến cao tốc dự kiến sẽ chạy về phía tây, song song và cách QL1A hiện tại từ 7-20km. Để đảm bảo tính cơ động cao, giao thông liên tục và an toàn, con đường sẽ được thiết kế vận dụng 3 loại nút giao: nút giao khác mức có đường nối (liên thông), nút giao khác mức không có đường nối (không liên thông), các nút giao cho đường dân sinh (chui hoặc vượt đường cao tốc). Hệ thống an toàn giao thông cho tuyến đường sẽ được thiết kế đảm bảo an toàn rất cao và thuận tiện. Từ Cam Lộ đến Đà Nẵng tuyến đường dài trên 177km, dự kiến sẽ bố trí 1 trạm dịch vụ nghỉ ngơi tại khu vực Lăng Cô với quy mô lớn. Trong đó sẽ bố trí các công trình gồm cung cấp xăng dầu, sửa chữa xe, bưu điện, ăn uống nghỉ ngơi. Tổng mức đầu tư ước tính 18.000 tỉ đồng. Phương án huy động vốn đang được tính đến là BOT. Phương Dung
Quảng Trị: Gần 4 tỷ đồng phục hồi chợ phiên Cam Lộ [FONT=arial, helvetica, sans-serif]Hình thành cách đây hàng trăm năm, chợ phiên Cam Lộ (huyện Cam Lộ) mang trong mình giá trị lịch sử cũng như có những nét đặc trưng độc đáo của vùng đất Quảng Trị xưa. Tuy nhiên, trải qua thời gian, biến cố lịch sử đến nay đã xuống cấp khá nghiêm trọng.[/FONT] [FONT=arial, helvetica, sans-serif]Trước tình hình đó, mới đây UBND huyện Cam Lộ đã quyết định đầu tư xây dựng lại chợ phiên Cam Lộ. [/FONT] [FONT=arial, helvetica, sans-serif]Theo đó, chợ sẽ được xây trên nền đất cũ diện tích khoảng 1.000m2 với gần 100 lô quầy. Việc phục hồi chợ phiên Cam Lộ một phần nhằm giữ gìn nét đặc trưng mang tính lịch sử của chợ cũng như làm nơi để bà con nông dân thuận lợi buôn bán, trao đổi hàng hóa, nông sản trong vùng... [/FONT] [FONT=arial, helvetica, sans-serif]Tổng kinh phí phục hồi chợ phiên Cam Lộ là gần 4 tỷ đồng.[/FONT] [FONT=arial, helvetica, sans-serif]Hiếu Giang[/FONT]
Hờ hờ hôm qua nửa tỉnh nửa say gọi điện về nhà hình như nghe thằng em kêu là Chợ Cùa bị cháy! Chưa xác nhận lại coi mình có nghe nhầm không nửa!
Trụ sở chính phủ Cách mạng lâm thời toạ lạc ở làng Tân Hoà, xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị; cách thị xã Đông Hà 12 km về phía Tây. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền nam Việt Nam được thành lập là kết quả đấu tranh lâu dài, gian khổ và anh dũng của quân và dân miền nam. Nó đánh dấu một bước thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Chính phủ Cách Mạng lâm thời Miền nam Việt Nam đã lãnh đạo quân và dân miền Nam đấu tranh giành được nhiều thắng lợi về quân sự, chính trị và ngoại giao. Buộc đế quốc Mỹ phải tiến hành đàm phán và ký hiệp định Pari rút hết quân đội ra khỏi miền Nam. Trước tình hình Cách mạng miền nam phát triển nhanh chóng và thuận lợi, để tiến tới đánh đổ hoàn toàn chính quyền tay sai của địch, giành độc lập dân tộc, việc xây dựng trụ sở làm việc của chính phủ cách mạng lâm thời hết sức cấp thiết. Khu trụ sở chính phủ Cách mạng lâm thời khởi công xây dựng ngày 6-5-1973. Toàn bộ nguyên vật liệu được chuyên chở từ miền Bắc vào. Trụ sở được chia làm 2 khu: -Khu A gồm các nhà làm việc của chính phủ, nhà khách, nơi trình quốc thư của đại sứ các nước, có 3 dãy nhà. -Khu B gồm nơi làm việc của các nhân viên, nơi ở và làm việc của các phóng viên, có 5 dãy nhà nằm song song đối diện với cổng B. Kết cấu của các nhà ở khu trụ sở làm theo kiểu nhà lắp ghép, mái nhọn, vì kèo bằng sắt, lợp tôn trần và vách bằng gỗ. 3 mặt của khu trụ sở được đào sâu để bảo vệ. Hiện nay, khu trụ sở không còn nguyên vẹn như xưa. Năm 1991, khu trụ sở Cách mạng lâm thời được Bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tich quốc gia. Bảo tàng Quảng Trị đã xây dựng tượng đài kỷ niệm vào tháng 5-1993 và đã xây dựng lại nhà trình quốc thư và tu bổ lại một số hạng mục để bảo tồn và phục vụ đón khách tham quan.
Vùng Cùa, mấy nẻo vui buồn... Từ đường Chín vào đến chợ Cùa chỉ xa chừng bảy cây số nhưng phải vượt qua một con đèo quanh co dài năm cây số. Bây giờ người ta gọi nó là đèo Cùa nhưng nghe đâu thời xa xưa nó có tên là đèo Vắt. Bố vợ tôi bảo: Quãng đường này thời đánh Pháp rừng rú còn rậm rạp, trên những lối mòn thỉnh thoảng lại bắt gặp dấu chân hổ beo và vắt thì nhiều vô kể. Trời mưa mà cuốc bộ qua đèo thì cực lắm, vắt bám lầy nhầy bắp chân, gạt đi không kịp. Hai mươi lăm năm về trước, vào cái thời tôi yêu mê mệt cô gái vùng Cùa là vợ tôi bây giờ, đèo Cùa đã quang quẻ lắm. Miên man năm cây số đường đèo uốn khúc, gập ghềnh, chỉ rặt những bụi cây lúp xúp, sim móc mọc chen nhau nhiều vô kể. Bom đạn tàn phá, chất độc màu da cam hủy diệt suốt mấy chục năm chiến tranh ác liệt lại thêm cái khắc bạc của thiên nhiên Quảng Trị làm cho những cánh rừng ở đây sớm bị lụi tàn, trơ trụi. Thời ấy tôi còn trai trẻ, dù đang hừng hực ngọn lửa tình yêu nhưng mỗi bận đạp xe vượt đèo Cùa cũng mệt bở hơi tai. Đường dốc, có cả cua tay áo, một bên là vách núi, một bên là vực sâu, non tay lái hoặc đứt phanh là “hy sinh” như chơi. Đường vào Cùa khi mới thi công. Con đường vào Cùa hôm nay đẹp như một dải lụa vắt qua núi. Đường miền núi nhưng rộng rãi, mặt rải nhựa phẳng lì, những đoạn dốc cao đã được bạt xuống, không còn cua tay áo nữa. Từ chợ về các thôn một số đoạn đã được nhựa hóa, bê tông hóa và kém lắm cũng rải cấp phối. Chương trình đường nông thôn theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” thực sự hiệu quả cao ở Cùa. Vùng Cùa heo hút ngày nào bây giờ quá gần với huyện lỵ là thị trấn Cam Lộ và thị xã Đông Hà. Cùa gần hơn với cả nước và cả thế giới nhờ mạng điện thoại di động Viettel và Mobi đã phủ sóng tại đây. Quả là một bước ngoặt về thông tin ở vùng đất chiến khu xưa này. Cuối năm ngoái tôi về thăm bố mẹ vợ có mang theo máy di động nhưng nó bị biến thành cái cục sắt vì Cùa nằm ngoài vùng phủ sóng của tất cả các hãng viễn thông. Giờ thì nói như em vợ tôi là “gọi vô tư” rồi và sóng lại rất mạnh. Người dân không ngần ngại rút hầu bao để mua sắm phương tiện hiện đại phục vụ cho mình theo tôi cũng là một dấu hiệu tốt đẹp của nền kinh tế đang phát triển và chất lượng cuộc sống được cải thiện. Dù chưa giàu nhưng bộ mặt cuộc sống ở vùng đất lịch sử có căn cứ Tân Sở của vua Hàm Nghi và từng là chiến khu chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ này đã sáng sủa hơn rất nhiều. Chương trình điện- đường- trường-trạm, cơ bản đã được thực hiện ở Cùa. Điện lưới quốc gia thắp sáng mọi nhà, không ai còn phải chịu cảnh sống trong ánh đèn dầu tù mù nữa. 100% gia đình có ti vi và trên 80% gia đình có xe máy. Các trường tiểu học, trung học phổ thông mang tên nhà cách mạng Lê Thế Hiếu đã được xây dựng cơ bản, khá khang trang và bề thế. Con em nông dân đến trường không ai phải mặc áo vá, ăn cơm độn sắn khoai như trước đây. Trạm xá khu vực xây cách đây mười lăm năm, chưa được tân trang mở rộng thêm nhưng vẫn là nơi khám chữa bệnh có uy tín của nhân dân trong vùng. Với 56 ha diện tích trồng lúa, xã Cam Chính tập trung gieo cấy các loại giống có năng suất cao, gạo ngon và chống chịu sâu bệnh tốt như XI 23, Khang Dân. Mạnh dạn đưa cây lạc vào trồng tại các vùng đất phẳng và đủ độ ẩm như ở thôn Mai Lộc 1, Mai Lộc 3, Mai Đàn, Sơn Nam, Thiết Xá. Nhưng cây mũi nhọn của xã là cao su, hồ tiêu và trồng rừng. Xã tập trung chăm sóc tốt 402 ha cao su đang kiến thiết cơ bản, chủ động đề nghị với dự án và ngân hàng giải ngân vốn sớm cho bà con mua vật tư chăm sóc cây. Cây hồ tiêu vẫn là cây chủ lực trên vùng đất Cùa; ngoài việc tiếp tục chăm sóc tốt 137,5 ha đã có, tiếp tục trồng mới, trồng dặm thêm 10 ha ở các vùng dân cư mới. Trồng rừng hiện nay thu được hiệu quả kinh tế rất cao đối với người dân nên Cam Chính tập trung chăm sóc tốt 1.000 ha rừng đã có và tiếp tục trồng thêm 50 ha rừng ở vùng đồi núi trọc... Đối với tôi, Cùa đã trở thành quê hương thứ hai thân thiết. Tôi thực sự mừng vui trước những đổi thay của mảnh đất trước đấy vô cùng nghèo khó này. Đã có lần tôi nghe mẹ đọc câu ca buồn bã: Ai ơi chớ lấy trai Cùa Quanh năm quần cụt, bốn mùa áo nâu. Cùa đất đỏ bazan, tơi xốp mỡ màu, rất hợp với cây hồ tiêu. Hạt tiêu vùng Cùa bé những chắc và cay nồng nàn. Cái vị cay ấm nức mà không gay gắt. Nói đến Cùa là phải nói đến hạt tiêu. Thế mà trước đây chẳng hiểu sao dân Cùa vẫn chịu cảnh đói nghèo từ đời này qua đời khác. Chẳng nói đâu xa, những năm tám mốt, tám hai khi tôi đã trở thành rể Cùa, lên nhà bố, mẹ vợ phải còn ăn sắn củ thay cơm. Thời chưa đổi mới, xóm làng hầu hết là nhà tranh, cứ bốn, năm năm phải lợp lại một lần. Vợ tôi ra trường, về quê dạy học, được xã cấp cho mấy sào làm nhà, lập vườn. Một ngôi nhà gỗ, vách đất, mái tranh bé nhỏ được dựng lên trên đất đỏ bazan. Vợ chồng tôi tranh thủ ngày nghỉ cuốc đất trồng mít, trồng chuối, trồng sắn. Nhà chúng tôi ở trên đồi, ngay đầu xóm, gió thổi lồng lộng. Tôi làm việc ở Đông Hà, cuối giờ chiều thứ bảy mới được lên nhà. Mùa nắng, đạp xe theo đường Chín ngược chiều với gió Lào thổi như bão khan, mệt tưởng đứt hơi. Mùa mưa, qua đèo Cùa đất đỏ dính bết vào bánh xe, chốc chốc lại phải xuống xoi. Sau xe bao giờ cũng thủ sẵn một que xoi bùn. Ai đến Cùa vào mùa mưa cũng bảo “Đất chi mà mến khách dữ rứa”. Ba đứa con tôi, hai gái một trai đều sinh ra ở Cùa. Cuống rốn của các con tôi đã vùi vào đất đỏ dưới những gốc cau do tôi trồng. Mười năm gia đình tôi sống ở Cùa, cực khổ nhưng bình an, thanh thản lắm. Bà con láng giềng ai cũng thương yêu, đùm bọc. Chẳng mảy may có sự khác biệt đối xử giữa dân chính gốc và dân nơi khác đến. Nhiều anh bộ đội đánh Pháp, đánh Mỹ, quê Bắc sau chiến tranh tự nguyện ở lại Cùa, lấy vợ sinh con, lập nghiệp ở đây. Người dân miền Cùa rất mộc mạc, chân thực và ngay thẳng. Ta sai, họ nói liền, nói xong là thôi, không để bụng, không thù oán dài lâu. Sau này sống ở nơi khác gặp phải người hẹp bụng, thù dai, tôi lại tơ tưởng đến những ngày sống ở Cùa. Gia đình tôi chuyển ra thị trấn Cam Lộ xa Cùa một ít và bây giờ như định mệnh ra sống ở Thủ đô Hà Nội, càng xa Cùa, miền đất đỏ ấy hơn. Bây giờ, mỗi khi vợ chồng tôi trở về thăm Cùa thì bà con vẫn đối xử ấm áp như thuở hàn vi nào. Cùa còn là vùng đất lịch sử mà theo tôi hiện nay ít nhiều đang bị bỏ quên. Chắc nhiều người đã biết đây là nơi có căn cứ Tân Sở của thời vua Hàm Nghi- một vị vua yêu nước của triều đình nhà Nguyễn. Lịch sử đã ghi rõ: Vào năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn đã từng bước nhượng bộ và đầu hàng giặc. Trước nguy cơ mất nước, Thượng thư Bộ binh Tôn Thất Thuyết và quan phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường cùng phái chủ chiến của triều đình đã tiến hành xây dựng khẩn trương khu căn cứ Tân Sở ở vùng Cùa núi non hiểm trở (thuộc làng Mai Đàn, xã Cam Chính hiện nay). Căn cứ được bắt đầu xây dựng từ năm 1883 và hoàn thành vào năm 1886. Thành được xây dựng theo cấu trúc hình chữ nhật dài 548 mét, rộng 418 mét với tổng diện tích là 22,9 ha. Thành ngoại có đủ bốn cửa: tiền, hậu, tả, hữu, đắp bằng đất, phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hệ thống hào sâu bao quanh. Xung quanh thành, mỗi phía trồng bốn hàng tre ken dày đan kín, gai góc um tùm. Bờ tre ngoài cùng cách bờ tre thứ hai 21 mét, bờ tre thứ hai cách bờ tre thứ ba 13 mét, bờ tre thứ ba cách bờ tre thứ tư 5 mét. Giữa các bờ tre là tường thành đắp bằng đất nện chặt. Bên trong thành ngoại có nhà cửa, trại lính, kho tàng, bãi tập trận của voi ngựa. Tiếp đó là thành nội được xây dựng vững chắc và ở giữa là nơi làm việc của vua quan. Sau vụ binh biến đêm 23/5/1885 tại kinh thành Huế, phái chủ chiến tiến hành đánh úp giặc Pháp nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi cùng các quan đại thần của phái chủ chiến và đoàn tùy tùng phụ xa giá ra Tân Sở. Tại đây, giữa núi non vùng Cùa hiểm trở, ngày 13/7/1885, thay mặt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã ban hịch Cần Vương kêu gọi nhân dân phụng sự vua đánh giặc Pháp. Đường vào Cùa hôm nay đẹp như một dải lụa vắt qua núi. Hiện nay, khu di tích lịch sử đã được xếp hạng Tân Sở đã trở thành phế tích. Chẳng còn gì cả ngoài mấy bụi tre gai sót lại. Cả một vùng đất được gọi là di tích trống trơn hoang vắng. Tôi thầm mong có một bảo tàng Cần Vương được dựng lên ở đây, trong đó người ta phục dựng lại một góc căn cứ Tân Sở cũ, ví như một đoạn thành, mấy khúc hào, vài bờ tre, trại lính, bãi tập... Đến lúc đó, một hướng kinh tế mới sẽ được mở ra với Cùa là du lịch. Khách thập phương đến Cùa tham quan di tích Tân Sở và những khu vườn, cánh rừng sinh thái...Giờ đây, việc cần làm ngay là dựng cho Tân Sở một tấm bia di tích đàng hoàng và xác định, kiểm tra lại diện tích đất có lấn chiếm không. Nơi khu vực này đang hình thành một làng tái định cư Cồn Trung và đã mọc lên một ngôi trường trung học cơ sở. Tân Sở là một di tích lịch sử quan trọng, ghi dấu ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta lẽ nào phải chịu cảnh phế tàn bỏ quên như thế. Thời chống Pháp, chống Mỹ gian nan, Cùa là chiến khu vững chãi của cách mạng ở Quảng Trị. Thời chín năm kháng chiến chống Pháp ở đây đã có trường cấp hai mang tên Lê Thế Hiếu, một trong ba đại biểu đầu tiên của tỉnh Quảng Trị tại Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa một. Ông Lê Thế Hiếu sinh năm 1892, là con đầu của cụ Lê Thế Vỹ, một sĩ phu yêu nước của phong trào Cần Vương và là anh ruột của đồng chí Lê Thế Tiết, Bí thư đầu tiên của Đảng bộ Đảng Cộng sản tỉnh Quảng Trị. Cùa là xứ sở của núi non hữu tình, in đậm những dấu tích lịch sử đáng trân trọng và con người ngay thật, cởi mở. Con gái Cùa nổi tiếng về dáng vóc đẹp, lam làm, khéo tay và chiều chồng. Đến chợ Cùa vào những dịp tết, không hiếm dịp khách phương xa phải ngẩn ngơ bởi cái dáng thắt đáy lưng ong và những khuôn mặt trái xoan hiền thục của những cô gái vùng bán sơn địa ở chốn này. Và, chao ôi, má lúm đồng tiền, hình như tôi chưa hề thấy ở đâu con gái lại nhiều má lúm đồng tiền như ở Cùa. Bút ký: Nguyễn Hữu Quý
Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý hiện là đại tá trưởng ban thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trước đây từng sống ở CÙA rùi cả ở thị trấn Cam Lộ nhưng hiện tại ở Hà Nội mất ùi... Là ông già của đứa bạn (con gái) học cùng lớp cấp 3 ở Thị trấn CL...
mấy ông bày đặt đổi từ khóm thành khu phố cứ như là thị xã hay tp vậy.. mấy cái adv viết cũng đã đến lúc thay hết ryi đó. dạo này đường vô cùa,chợ phiên khu chính phủ,bệnh viên... hay mấy tuyến đường trung tâm của thị trấn cũng đẹp hơn nhiu rùi....có khi còn hơn nhìu huyện khác ở qt đó chứ mà kiếm đâu ra mấy cái ảnh dg vô cùa xấu thế. đường nhựa đẹp vậy mà ko chụp cái..nhưng mà đg đó đi cũng ngoằn ngèo nguy hiểm...