Sorry, hơi dài, bạn Xucapochino xem có phải không nhé Chương I GIÀN THIÊU An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha...! * ** Đinh Mùi (1). Tháng Chạp. Ngày Ất dậu. Giờ dần. Thần Tông (2) hoàng đế gà gật trên kiệu vàng. Đôi chân ngắn cũn ủ trong cặp hài cong như mũi thuyền rồng, hai bên lườn hài gắn những hạt minh châu ánh biếc. Tua vàng buông rủ đung đưa theo nhịp rập rình củ những bờ vai lực lưỡng mười sáu phu kiệu. Hoàng đế ngái ngủ. Mười hai tuổi, đang là Thái tử Dương Hoán, tiên đế Nhân Tông băng, ngài được lập lên ngôi giữa lập lòe nến trước linh cữu. Dù đã được đem vào cung nuôi dạy từ lúc còn là một đứa bé lên hi, nhưng Dương Hoán còn bỡ ngỡ với hết thảy các phép tắc của một vị hoàng đế, lại càng chưa quen với những chuyến đi xa phải dậy sớm với những nghi thức nặng nề thế này. Ngài uể oải ngáp. Ầm ì như sóng biển bao phủ quang thân mình ngài ngự, trong tấm chăm hồng nhạt phớt vàng của vầng dương đang bắt đầu ló dạng, tiếng tụng kinh gõ mõ của năm mươi sáu nhà sư đi thành hàng quanh đôi kiệu vàng càng như ru vị hoàng đế nhỏ vào giấc ngủ êm đềm. Giai điệu âm u mịt mùng của lời kinh càu hồn vẫn đều đều quyện lấy kiệu vàng và đoàn tùy tùng dài như vô tận. Kính cẩn nâng quyển kinh bằng lá bối, vị thượng tọa áo vàng mình gầy gộc tiên phong đạo cốt dẫn đầu đoàn. Tiếp gót, bốn vị đại sư phất phơ phướn trên tay. Các tăng quan cà một chuỗi các nhà sư khác theo sau. Tay không ngơi lần tràng hạt, miệng họ ê a cất lên những câu kinh như gió thoảng không bao giờ dứt. An ta phạ bà pha, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ bà pha...! Sương sớm tan. Con đường nhuộm màu áo vàng cong lên lượn xuống uốn theo những sườn đồi, dần dà hiện rõ mồn một. Dân chúng trong vùng nô nức đổ ra xem, bất giác đồng thanh "Mô Phật!", lòng dậy lên niềm sùng kính đức từ bi. Tại các cổng chùa ven đường cái quan, sư trụ trì hối hả giục chú tiểu mang hương án phẩm vật ra dâng đấng tân vương và các thượng tọa đạo cao chức trọng. Chốc chốc, đoàn xa giá khựng lại vì có sư trụ trì một chùa nào đó ra dâng phẩm vật. Nhân Tông hoàng đế lúc sinh thời thường ban thưởng hậu cho những kẻ đem những phẩm vật lạ báo điềm lành cho đất nước. Thiên hạ biết vậy nên sinh thói đua tranh tìm kiếm vật hiếm quý để ra mắt tân vương. Dương Hoán Thần Tông tỉnh ngủ hẳn, mắt sáng rỡ khi thấy sư trụ trì chùa Phụng Từ quỳ trước kiệu vàng, cúi đầu hai tay nâng mâm son dâng lên một con rùa nhỏ xíu màu hoàng yến, có đôi mắt to màu vàng sậm, trên ức rùa vân sừng nổi lên hình hai chữ "Thiện đế" rõ như tay người viết bằng mực nho đen nhánh. ---------------------------------------------------------------------- (1). 1127 (2). Năm 112, vua Lý Nhân Tông băng. Dương Hoán, con trai của hoành thân Sùng Hiền Hầu - lúc đó mới 12 tuổi - lên nối ngôi, là Lý Thần Tông. Dương Hoán ngước nhìn Trung thừa Mâu Du Dô đang đứng chầu hậu liền bên, dò hỏi. Mâu Du Dô nhìn rõ dấu tay người vẽ rất khéo trên mai con rùa nhưng lặng im giây lát, chỉ nói: "Muôn tâu! Thiện đế nghĩa là một bậc đế vương nhân hậu khoan dung!". Nhà sư đảo nhanh mắt, nhìn quan Trung thừa vẻ hàm ơn rồi khúm núm: "Muôn tâu Hoàng đế, trong mỗi mắt của con rùa quý này có tới sáu con ngươi. Đó là điềm triệu cực lành, bào trước sự thịnh vượng của đại triều dưới sự chăn dân đức tân hoàng đế..." Thần Tông chưa hiếu hết những lời của sư chùa Phụng Từ, nhưng lòng mừng khôn xiết, ghé sát vào mắt con rùa, cố tìm cho ra sau con ngươi nhưng nhìn mãi chỉ thấy có hai con, trong khi các cận thần đều bảo quả thực có 6 con ngươi, liền bảo thị vệ đặt rùa vào hộp vàng, trọng thưởng cho nhà sư. Đoàn xa giá lại tiếp tục nhuộm sặc sỡ con đường lên Na Ngạn (3). Trên cao, những vì sao cuối cùng tắt hẳn. Tiếng chuông chùa Phổ Thiên đổ dài từng hồi, lanh lảnh ngân nga, đệm nền cho giọng kinh cầu hồn. Ảo não những cánh quạ bay là là trên mấy đụn rơm nhả khói nhà nông phu. Thaỏng mùi cháy khét pha vị ngọt sắt của khoai vùi quá lửa trong tro nóng. * ** ... Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau lên thuyền bát nhã. Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm vượt qua bể khổ. Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con sớm lên cõi Niết Bàn. Kính đức Đại bi Quán thế âm cho con mau đến nhà vô vi... những câu kinh "Đại bi sám pháp" da diết phả vào tiếng chuông. Buổi sáng không sương mù. Những vì sao vừa tắt thì muôn tia nắng vàng ngọy sắt như lưỡi đòng thép xuyên xuống dòng người lầm bụi. Đằng sau chuỗi người được che phủ trong cờ xí quạt tàn võng lọng rực vàng đường lên Na Ngạn là mười hai cộ gỗ. Mười hai thớt trâu đực sừng dài cong như nửa vầng trăng, lớp lông dọc sống lưng dựng cao và cứng xoắn như đám rễ tre gộc qua lửa ì ạch kéo dẫy cộ ngật ngưỡng những phiến thông lớn phả mùi thơm ngát. Ngất ngưởng trước đống gỗ thông trên chiếc cộ dân đầu được kéo bằng cặp trâu trăng bốn chân lừng lững như chân voi là một vị quan bộ trang phục áo tơi nón la mục đồng tay cầm roi bằng nhánh hoa lau có kêt tua ngũ sắc luôn tay quật vun vút lên lưng trâu. Dãi trâu rỏ thành dòng ướt mặt đường đồi đất đỏ. Những vệt cỏ đỏ chó đẻ hai bên đường bết bụi cong rũ. Để có được mười hai cô gỗ thông này, quan Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác đã đích thân giao cho tri phủ Lạng Giang sai hai trăm tiều phu cơm đùm cơm nắm lên núi kén chọn từng gốc thông già ngoài trăm tuổi. Những gốc thông mà lưỡi rựa thép chém vào ứa ra dòng nhựa vàng quánh trong như hổ phách. Khi mang được gỗ về thì những phiến gỗ thống đã nhuộmn máu ba mươi tư kẻ tiều phu xấu số. Để ngăn cản oan hồn của những người tiều phu oán hận về đòi mạng, gây bất an cho bản triều, quan Thái bảo đã theo cung cách dân gian, buộc một dài khăn sô dài lê thê ngàng sừng cặp trâu kéo chiếc cộ thứ ba. Đám rước khổng lồ nặng nhọc chuyển đi. Khi tiếng chuông chùa vừa dứt, giàn nhạc cung đình réo rắt tấu khúc bi ai. Não nuột tiếng kèn, tiếng thanh la não bạt chen giọng thương khóc Đức Nhân Tông hoàng đế mới băng. * ** Dân chúng đổ ra hai bên đường ngóng xem đám rước mỗi lức mỗi đông. Những người đàn ông gầy guộc đóng khố cởi trần tóc búi tây cầm roi tre đang cố sức giữ cho bọn trẻ khỏi túa ra đường len lén hé mắt trộm ngắm mặt rồng dưới mu bàn tay cáu bẩn che mặt. Đám dân đen tội nghiệp chỉ kịp thấy trôi qua mặt họ một gương mặt trắng xanh nhỏ nhắn với đôi mắt xếch sáng rực, ngưỡng thiên và cặp chân đung dưa tung tẩy như chân trẻ con đang vầy nước. Chiếc mũ miện nặng nề nạm ngọc bích nổi bật trên những tua vàng tua bạc buông rủ làm cặp lông mày trĩu xuống. Sức nặng của vương miện dường như quá sức chịu đựng của sợ cổ mảnh khảnh. Đi sau kiệu rồng chừng nửa dặm, một chiếc xe khổng lồ sơn son thiếp vàng khảm những đóa mẫu đơn màu đen tang tóc. Chiếc xe chầm chậm như nhẹ trôi trong không trung, được kéo bởi những bước chân đều đặn của một trăm hai mươi nữ bô lệ người Chân Lạp. Hai bầu vũ trần đen sạm trĩu nặng. Từ đầu vú run rẩy nhỏ xuống những giọt mồ hôi đặc quáng dưới ánh mặt trời. Những nữ nô lệ này chỉ vừa đôi tám, tốc vấn cao hình tháp quấn những chuỗi hoa đại trắng, nang lưng vấn xoắn váy màu vàng lơ lửng đến bụng chân. Cổ chân rám nắng quấn những cuỗi vòng vỏ ốc nhiều màu. Tiếng vỏ ốc va nhau lách cách như nhạc đệm theo mỗi bước đi. Mồ hôi loáng ướt lưng trần. Ngực tì lên những chiếc ách bằng gỗ lim đen nhẫy. Giàn nhữ nô lệ đi như một dẫy người câm không vui không buồn. Trên xe, lồng lộng giữa trời là bốn mươi chín cô gái cài vàng dát ngọc áo tía xiêm hồng đầu chít khăn ngang. Những cung nữ của hoàng đế Lý Nhân Tông vừa băng. Họ đang trên đường tới đảo Âm Hồn, lên giàn thiêu. Khi ngọn lửa giàn thiêu bốc lên, họ là những kẻ tôi đòi cười khỏi để kíp kíp tới Niết Bàn hầu hạ đức tiên đế. Những người kế nghiệp có dạn trung quân không thể để đức vua chịu cảnh phòng không gối chiếc quá lâu nơi Niết Bàn. ------------------------------------------------------------------------ (3)> Vùng đất huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang ngày nay. Thần Tông hoàng đế đã tỉnh ngủ hẳn. Ngài lệnh cho kiệu rồng dừng lại, đợi cho chiếc xe chở các cung nữ sắp bị thiêu diễu qua trước mặt. Vẻ đẹp rực rỡ của các nô lệ kéo xe cũng các cung nữ khiến Thần Tông ngẩn người. Đức vua sực tỉnh, khi nghe tiếng của Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác lệnh cho quan thủ lễ: - Lũ đao phủ đã tề tựu đủ chưa? Quan thủ lễ khúm núm: - Dạ bẩm! Đã đủ. - Liệu đây có phải là một lũ thỏ đế tái mặt run tay khi thấy lũ cung nữ sắp bước vào lửa giàn thiêu? Quan thủ lễ khúm núm: - Bẩm, không đời nào, thưa quan Thái bảo! Bốn mươi chín tay đao phủ thành thục nhất mỗi thay từng hành quyết không dưới năm mươi tử tù. Lại từng đích mục sở thị giàn chôn sống thị nữ trong đám táng Ỷ Lan Linh Nhân Hoàng Thái hậu. - Cẩn thận. Có bề gì, hãy trông chừng cái đầu của ngươi đó! Quan thủ lễ ngập ngừng, đưa mắt cầu cứu Thần Tông: - Dạ! Kẻ bất tài này không dám sơ suất... Nhưng bẩm... còn có điều không thể không nói ra. Thái bảo Lý Trác trừng mắt: - Công việc đang cấp cấp. Giờ đưa các cung nữ dâng lên đức tiên hoàng đã điểm. Sao không đi ngay lo việc, còn đứng đó huyên thuyên lắm lời? Mặt viên thủ lễ biến sắc, những vẫn cố nán lại, quỳ rạp xuống: - Muôn tâu bệ hạ! Bẩm quan Thái bảo. Xin cho kẻ hèn này tâu xin một lời trước khi đi làm phận sự, không dám trễ nải! Lý Trác lại trừng mắt. Nhưng Thần Tông đã dịu nét mặt: - Quan Thái bảo! Đừng dọa nạt người ta quá. Nhà ngươi cứ nói. Lý Trác hậm hực im lwngj. Thủ lễ tâu: - Muôn tau! Từ Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu (4) noi thep phép tắc đời Tần Thủy Hoàng phương bắc, mà trăng trối trước khi chết rằng, nhất thiết phải chôn sống ba người hầu gái để đi theo hầu hạ Thái hậu. Vì thế, mùa thu tháng Bẩy ngày hai mươi nhăm, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 8 (5), ba cung nữ đã bị chôn sống theo lễ hỏa táng của Thái hậu trên đảo Âm Hồn này. Từ đó đến nay, ngày nào cũng vậy, vào chính ngọ, dân trong vùng cứ ngửi thấy mùi thịt cháy và tiếng kêu khóc nghẹn ngào của đàn bà vọng lên từ dưới đất... Thần tông rùng mình so sánh. Lý Trác mắt đã nảy lửa, chằm chằm nhìn vào cái cổ đang phập phồng lên xuống của quan thủ lễ. Làm như không biết đến cử chỉ của quan Thái bảo, viên thủ lễ cố nói gấp gáp: - Muôn tâu! Vì thế, thiên hạ có lời đồn, vò có việc chôn sống ba cung nữ mà đức tiên hoàng cũng phần nào bị tổn thọ... Lý Trác đập tay, thét: - Loạn ngôn! Đức tiên đế ta thọ sáu mươi ba tuôit, ở ngôi năm mươi sáu năm. Xưa nay chưa từng có vị hoàng đế nào được phúc lộc thọ dồi dào như vậy! - Dạ bẩm! Quan Thái bảo dạy thế thật thông thái như thần. Nhưng năm Long Chương Thiên Tự thứ nhât (6), ngày hai mươi lăm tháng giêng, Tiên hoàng hạ sinh, tuổi Ngọ, ngay ngày hôn sau đã được lập làm Hoàng thái tử. Lúc đó Nguyên phi Ỷ Lan đã cho vời quan chiêm tinh, thái bốc vào triệu, lập lá số, gieo quẻ bói cỏ thi và mai rùa. Tất cả các quan chiêm tinh, thái bốc đều quỳ tâu lên rằng đức tiên hoàng thọ ít nhất là bảy mươi ba tuổi! Thần Tông lại rùng mình lần nữa, càng chăm chăm nghe quan thủ lễ tâu bày. Viên thủ lễ tiếp lời: - Bởi thế, hạ thần này dẫu ng* tối nhưng cũng mạo muội xin được tâu với Hoàng thượng và quan Thái bảo... Phải tính đén cái phúc họa sau này. Phải lấy thọ mệnh của đức quân vương làm điều trọng... Quan thủ lễ chưa dứt lời, Thần Tông giẫy nẩy như một đứa trẻ: - Trẫm không muốn chết! Trẫm cũng không cho bất kỳ ai chết! Thái bảo Lý Trác mím môi suy tính, rồi bất đắc dĩ cất giọng dỗ dàng ngài ngự: - Tâu bệ hạ! Bệ hạ nối nghiệp tiên vương, cai trị giang sơn xã tắc. Thiên hạ trong tay bệ hạ. Đức quân vương có ân, có uy. Ân có thể khiếm khuyến nhưng uy thì phải ngùn ngụt như hỏa diệm sơn mới mong thiện hạ khiếp phục mà phải chầu hầu, đwngj trấn áp giặc dữ can qua. Bẩm! Việc thiêu cung nữ là theo lời trăng trối của đức Tiên hoàng. Nếu ta không noi theo, thiên hạ chê trách. Tiên hoàng ở chốn Niết bàn chăn đơn gối chiếc, lẽ nào bệ hạ đành lòng? Bệ hạ đừng nghe lời sàm tấu của kẻ vì hèn nhát mà sinh cuồng ngôn kia! Thần Tông chưa kịp nói gì, Lý Trác đã xỉa tay trỏ thẳng mặt quan thủ lễ: - Chỗ của nhà ngươi là ở giàn thiêu, không phải ở đây làm rối lòng hoàng thượng. Sơ suất, đầu nhà ngươi sẽ bêu mãi trên ọc ở đảo Âm Hồn. Quan thủ lễ mắt xanh lét như tàu lá, bước giật lùi rồi vừa đi vừa chạy về phía đảo Âm Hồn. -------------------------------------------------------------------------- (4). Tên thụy của Ỷ Lan Hoàng Thái hậu khi mất (5). Năm 1117 (6). Năm 1066 * ** ... Nếu con đến núi đao Núi đao liền sụp đổ Nếu con đến nước, lửa Nước lửa liền khô tắt Nếu con đến địa ngục Địa ngục liền trống không... Những lời kinh đã dồn dập chuyển sang giọng đưa linh. Những linh hồn dường như đã chơi vơi ngoài thân xác, nửa nổi nửa chìm trong ngoài địa ngục. Trong nhịp khục khặc của bánh xe gỗ nghiến trên đường đất đỏ, vẻ đẹp u ám của những cung nữ và những khuôn mặt đợi chờ giờ chết của họ rực lên trong tang tóc như những ngọn nến cháy lần cuối giữa bình minh ma quái mà mặt trời vừa ló rạng với những ta nắng đầu tiên như phụ máu. Đường từ kinh đô lên Na Ngạn chưa đầy năm mươi dặm nhưng cũng quá xa với những bước chân và vành xe trâu. Dường như đã quá nhiều mồ hôi và nước mắt rỏ ướt trên con đường đến đảo Âm Hồn. Nhời sự đôn đốc không mệt mỏi bằng roi và gậy của quan Thái bảo cũng như chư vệ tướng quân, lúc gần trưa thì đám rước cũng đã tới. Chờ sẵn đám rước và đoàn xa giá là rừng người và cờ xí quây quanh một chiếc nhà táng. Kiệu vàng vừa dừng lại, rừng người rền vang tiếng khóc. Tiếng khóc ruột rà của thân nhân bốn mươi chín cung nữ. Họ được hưởng ân sủng của đức vua. Họ được phép tới tận đây, hưởng vinh hạnh thấy tận mắt con em của mình trong những phút giây cuối cùng trước khi lên giàn thiêu tới cõi cực lạc hầu hạ đức Tiên đế. Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác hoảng hốt thét: "Hoàng đế giá lâm!... Phủ phục!". Tiếng người khóc càng lớn. Như có một cơn bão sàn sạt đổ tới, những chiếc đầu rạp sát đất, giấu mặt giữa hai khuỷu tay. Thần Tông vướng víu ngượng ngiụ trong bộ ngự bào quá nặng nề, không để cho các quan hộ giá dìu đỡ đã vén áo nhảy tót từ trên kiệu xuống. Bàn chân nhỏ nhắn vướng vào vạt áo bào khiến ngài vấp ngã. Chỉ kịp thấy ánh mắt Lý Trác quắc lên, ngự lâm quân đã lôi xềnh xệch một kẻ bạo gan vừa bưng mặt cười khúc khích. Nghe vọng lại trên đám người một tiếng rú tắc nghẹn. Đầu kẻ khi quân lìa cổ. Và giây lát đã trừng trừng đôi mắt trắng dại trên đầu cọc cắm bên lối đi. * ** Sau hiệu lệnh của quan Thái bảo, một chiếc kiệu đặt trên vai tám phu kiệu lực lưỡng lập tức hạ xuống trước mặt vua. Các phu kiệu mặc áo đen nẹp xanh, đầu đội mũ mấn, ngang lưng thắt khăn sô rạp mình. Thần Tông được sáu cung nữ lưng mỏng như liễu má đỏ môi hồng xúm nhau dìu lên kiệu. Tám phu kiệu oằn mình đứng dậy dưới sức nặng nghiến vai của cỗ kiệu sơn son thiếp vàng theo nhịp tù và từ tay quan thủ lễ. Thanh la não bạt và chiêng chống dồn dập hoà theo. Cỗ kiệu nâng vua lên theo những bậc thang xoắn ốc xếp bằng đá trắng dẫn lên đài cao. Chót vót trên đỉnh đài là chiếc lọng vàng che nắng, riềm lụa phấp phới gió xuân. Vua ngồi xuống. Sáu cung nữ cùng đám lễ quan xúm xít hầu quanh. Đảo Âm Hồn. Màu đỏ chết chóc của sạn đạo đâm thẳng vào ngôi lầu tám mái trắng mái lợp bằng chín tầng vải sô, trang điểm bằng những búi xơ tre nhuộm đen mang hình âm dương nửa đen nửa trắng. Những cặp công, trĩ cùng những cặp uyên ương bị buộc chân vào nhau đang cất tiếng kêu thảm thiết vang vọng mấy tầng lầu. chóp lầu là một khúc gỗ gạo tạc đơn sơ hình một nữ nhân tóc xoả rướn người với tay lên trời cao. Nhà vua nhíu mày. Dưới chân ngài, một trăm cung nữ gần như được xốc dậy từng người một, nhấc ra khỏi cỗ xe mẫu đơn đen. Những thân hình đào liễu như hoa héo. Gìơ chết. * ** - ... nam mô A di đà, đá tha già đá giạ, địa giạ gia tha, a dị dô bà tỳ, a di lỵ đá tất đam bà tỳ, a di lỵ đá, tỳ ca lan đế, a ly lỵ đá tý ca lan đá già di nhị, già già na, chi đá ca lệ sa bà ha... Các vị sư áo vàng chuyển cao giọng đọc "Vãng sinh tịnh độ thần chú". Món quà hào phóng gửi cho những cung nữ sắp bước lên giàn thiêu. Quan Thái bảo đừng lên trên lầu dõng dạc: - Các cung nữ. Hôm nay, các ngươi là những kẻ may mắn, được hoàng triều đặc biệt chọn ra để đi theo hầu đức Tiên hoàng ở cõi cực lạc cho trọn. Đức Phật Thích Ca lúc sinh thời từng truyền dạy: "Từ cõi trần này sang phương Tây, qua bao nhiêu cõi khác, đến một cõi thế giới gọi là Cực Lạc Thế Giới. Ở đấy có Đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp để giáo hoá chúng sinh, mà chúng sinh trong cõi ấy không có mọi sự khổ, chỉ hưởng mọi sư sương nên gọi là Cực Lạc...". Giờ đến cõi Cực Lạc của các ngươi đã điểm. Thủ lễ! Quan thủ lễ run rẩy, sắc mặt tái xanh, đón lấy con dao nhọn màu xanh biếc như da rắn lục, lẹ làng cắt cổ đôi uyên ương do một đao phủ mang tới, hứng máu vào bồn ngọc, quỳ lạy bốn phương rồi nhúng móng tay trỏ dài như vuốt chim ưng vào hào rượ máu vẩy ra bónn phương tám hướng, miệng lầm rầm khấn. Rồi thủ lệ nhúng cả tay chỗ rượu máu uyên ương còn tại, vạch lên trán mỗi cung nhữ đang run rẩy một hình tam giác đỏ đọc. Cái hình tam giác nổi bật trên những vầng trán đàn bà nhợt nhạt mà trước giờ dần còn được ủ trong nhung lụa. Mộ mùi tanh lợm của máu uyên ương hoà lẫn mùi rượu theo ngọn gió hung hãn thổi xộc lên chỗ đức vua đang ngự khiến ngài lợm giọng. * ** Cánh cửa sơn đen dưới chân lễ đài bật mở. Bốn mươi chín đao phủ lầm lì trong những áo choàng cũng màu đen phủ kín từ đầu đến chan chui ra như lũ ngạ quỷ bước lên từ địa ngục. Đám đao phủ rạp đầu vái lạy bốn phương tám hướng. Những tiếng thét thất thanh bật lên trong đám dân chúng đứng xa xa bên kia đảo Âm Hồn. Riêng bốn mươi chín cung nữ vẫn cam chịu, câm lặng như đã chết. Lũ đao phủ đồng loạt quay về hướng bắc, lừ lừ bước tới bên các cung nữ. Tay mỗi đao phủ giơ ngang một áo choàng phụ nữ đỏ tía, tới sát mỗi cung nữ, rồi nhất loạt rũ tung áo xòa lên cao qua đầu và như những con diều hâu khổng lồ, chiếc áo choàng đã trùm kín đầu những kẻ tội nghiệp đang bị buộc phải đi tắt lên Niết Bàn. Trong khi tay trái giữ đầu, tay phải đao phủ thoăn thoắt kéo gấu áo. Một trăm cung nữ đã biết thành một trăm cuộn vải đỏ rực máu. Giải khăn sô chít ngang quanh đầu những kẻ sắp bị thiêu sống thõng xuống lắt lay tạn gót. Quan Thái bảo Lý Trác hài lòng nhìn khắp lượt những cuộn vải đỏ. Ngài tự hài lòng với chính mình. Trước khi các cung nữ lên giàn thiêu, ngài đã đón một đại sư về kinh thành thuyết giáo cho họ về nghĩa vua tôi, sự khổ ải càn phải được kết thúc sớm nơi trần thế và chuẩn bị cho các cung nữ học cách dọn mình bước qua cái đau đớn thể xác do ngọn lửa mang lại mà nhanh chóng nhập vào cõi Cực Lạc. Sau lời thuyết giảng của Đại sư, nhiều kẻ trong đám cung nữ đã dập đầu mong cho chóng đến cái ngày được bước lên giàn thiêu. Mắt Lý Trác chợt dừng lại ở cuộn vài đỏ cuối cùng đang bùng nhùng, cựa quậy dữ dội. Mặt quan Thái bảo cau lại. Gã đao phủ đang lúng túng bởi chiếc áo trùm quá dài so với thân hình nhỏ bé của người cung nữ đứng ở cuối hàng. Từ trong mớ vải bùng nhùng, một tiếng thét trẻ con đột nhiên lanh lảnh bật lên. Trên đài cao, Thần Tông nghe tiếng thét mà lạnh gáy. Ngài ngự cố khom người cúi xuống nhìn cho rõ cái đầu bướng bỉnh đã trồi ra khỏi chiếc áo trùm. Thì thấy dưới vầng khăn sô là một gương mặt thon mềm như vầng trăng đầu tháng. Đôi mắt trong như mắt mèo hoang mở muốh đứt khóe vì sợ. Thần Tông giật mình nhận ra đó là Ngạn La, cô cung nữ mười hai tuổi, được tuyển vào cung hai ngày trước khi Tiên đế băng. * ** Nhất thập... Nhị thập... Tam thập... Tam thập nhất... Tam thạp nhị... Tam thập tam... Tiếng hô của quan thủ lễ dóng lên, đếm nhịp cho từng toán đao phủ kéo các cung nữ bước lên sạn đạo đi vào giàn thiêu trên đảo Âm Hồn. Trống lớn dội lên như sấm động. Chuông cầu hồn lại dóng dả ngân vang. Cao vút trên tiếng kèn đơn tấu của giàn nhạc cung đình. Tiếng nức nở cố kìm nén rưng rức bật lên giữa rừng người. Những bà mẹ đau ruột khi thấy đứa con bao năm xa cách nay đang bước len giàn thiêu đợi chết. Tiếng khóc át cả tiếng kinh cầu siêu độ chúng sinh đang cố cất cao từ đám các nhà sư áo vàng. Dưới ánh mặt trời gay gắt, chen giữa màu đỏ những chiếc áo chết của các cung nữ, màu đỏ của hình tam giác vẽ bằng máu uyên ương trên các vầng trán của họ, màu đỏ của các súc gỗ làm sạn đạo, cái màu đen sẫm như cánh quạ của những chiếc áo choàng đen đao phủ gợi những bữa tiệc máu âm phủ. Soi bởi nước hồ trong vắt và bầu trời lồng lộng trên cao, cái cảnh tượng quái gở đó được phóng to ra vô tận. Chung quanh chân lầu trắng, các phiến gỗ thông đã được xếp tự bao giờ. Những túi da trâu căng phồng đựng đầy dầu tưới lên đám củi. Các đao phủ lần lượt vác từng cuộn vải đỏ đặt trên đống gỗ thông. Bàn chân nhỏ nhắn của các cung nữ đặt trên các phiến gỗ thông đẫm dầu. Họ được buộc chặt vào những chiếc cọc lớn cũng bằng gỗ thông tưới dầu đã được chôn sẵn. Chỉ chờ người cung nữ cuối cùng lọt vào giàn thiêu là lửa sẽ bùng lên. Tất thảy cung nữ không một tiếng keu la, không một lời than khóc. Họ chỉ còn thân xác mà mất đâu hồn vía. Chỉ mơ hồ nghe xào xạc bên tai tiếng gào khóc của người than đang đứt từng khúc ruột bên kia hồ. Bây giờ thì quan Thái bảo không ngăn những tiếng khóc. Ngài muốn mọi người hiểu rằng những tiếng khóc đó không phải dành cho các cung nữ xấu số mà là lòng dân trăm họ thương tiếc vị hoàng đế mới băng. Bỗng một tiếng gào xé ruột nữa làm rách toang bầu không khí câm lặng. Tiếng gào đó vở ra từ dưới chân chiếc lầu trắng tang tóc, khi gã đao phủ khổng lồ gần như dốc ngược cung nữ Ngạn La trên vai, mang tới giàn thiêu. Nàng là cung nữ thứ bốn mươi chín cho lễ hiến tế. Ngạn La vừa gào thét vừa rúm thân gồng người cắn mạnh vào bàn tay hộ pháp đang thít thật bờ vai mảnh dẻ của cô. "Buông ra! Đồ chết rẫm ! Buông ngay! Đồ ăn thịt người!". Tiếng kêu thảng thốt chợt thức tỉnh bốn mươi tám xung nữ còn lại. Họ cho rằng mình đã chết từ khi tiên đế băng, như vô cảm khi đặt chân lên chiếc xe có gắn hoa mẫu đơn đen, khi đặt chân lên sạn đạo và bị lôi đi xềnh xệch trong bàn tay của đao phủ. Tiếng gào xé ruột của Ngạn La đã đánh thức họ, báo cho họ biết rằng nàng và họ đang là những linh thể sống. Bốn mươi tám cái cổ họng đồng loạt rú lên bốn mươi tám tiếng rú tắc nghẹn. Tiếng rú được nối dài bời hàng ngàn tiếng rú phẫn uất của từng người. Thần Tông ôm ngực lảo đảo. Quan Trung thừa Mâu Du Đô ngồi phịch xuống thở hổn hển, mồ hôi rịn ra trên trán. Thái bảo Lý Trác cũng rợn tóc gáy. Nhưng quan Thái bảo cố trấn tĩnh, mím miệng giơ lá cờ ngũ sắc trong tay lên phát lệnh. Lửa lập tức bùng lên. Những lưỡi đỏ khổng lồ thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo cũng bùng cháy như một con giao long khổng lồ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa đỏ mà nuốt trọn đảo Âm Hồn. Trong bóng lửa và khói đang cuồn cuộn bốc cao, thấp thoáng bóng các đao phủ và hỏa công vun cút nhẩy lên những chiếc thuyền đợi sẵn, phóng như tên về phía bờ bên kia. Trên mặt hồ chỉ còn các phiến gỗ sơn đỏ nổi lềnh bềnh như những thây người bị xử trảm trong tiếng rú man dại của các cung nữ trong cơn quằn quại trước khi linh hồn về với cựu hoàng. Nối dài những tiếng gào thét, các đôi công, trĩ, uyên ương bị trói chân trên nóc giàn thiêu cũng đồng loạt bật lên những tiếng xé ruột. Đảo nhỏ biến thành đảo lửa. Trên cái nên đỏ ấy, nổi bật những bóng đàn bà nhẩy dựng lên trên những phiến gỗ thông ngùn ngụt cháy, chới với hai cánh tay lên trời rồi lảo đảo gục xuống, bùng lên như những bó đuốc. Mùi tanh lợm của thithj người, của lông chim cháy cuồn cuộn bốc lên phủ khắp vùng. * ** ... Nếu con đến địa ngục Địa ngục liền trống không Nếu con đến ngạ quỷ Ngạ quỷ liền no đủ... Tiếng niệm Phật, tiếng tụng kinh rối rit dồn dập phiêu dạt trong những cuộn khói dật dờ đen đặc bốc lên từ thịt người. Đám dân chúng như bị gió lốc xoáy, như lúa đổ rạp từng đám sau trận cuồng phong. Những người đàn bà bị ngất vì đau đớn đổ đống lên nhau, át cả những hồi chuông dóng dả và tiếng tụng kinh không mệt mỏi cầu siêu cho người chết. Khói giàn thiêu bốc đọng thành một đám mây hình lưỡi tầm sét õng máu treo lơ lửng ngang trời Na Ngạn. Thần Tông ôm bụng. Ngài khóc. Hai chân ngắn ngủn giẫm đất bình bịch. Ngài ngư nôn thốc tháo. Đám cung nữ hấp tấp nâng vạt áo lụa hoa đào của họ lên để kính cẩn hững lấy những gì vừa thổ ra từ trong dạ của ông vua trẻ. Khi vua mở được mắt, định thần nhìn lại thì thất Thái bảo Khu mật sứ Lý Trác đang quỳ rạp trước mặt mình: "Tâu bệ hạ...". Thần Tông nhìn thấy trong cánh tay sắt của gã đao phủ lực lưỡng cái vầng trăng non nhỏ nhắn ướt sũng và chiếc áo chết đỏ bầm. Cung nữ Ngạn La. Ngạn La quỳ rạp đập đầu xuống đất: "Bệ hạ...! Xin hãy bảo các ông ác này thả tôi ra! Tôi đã làm gì nào? Tại sao các người lại muốn đốt chết tôi?". Trong cơn kinh hoảng, đôi con ngươi biếc tím nở rộng hắt lên mặt vua một ánh mèo hoang man dại. Thần Tông như bị đánh trúng tim. Ngài nhớ đến trò chơi hồi nhỏ. Ngài từng giữ một con mèo tam thể trong tay và một cung nhân dí con chuột bạch bé nhỏ run rẩy sát miệng mèo. Trong mắt chuột bạch cũng hắt lên sự kinh hãi và vẻ man dại như vậy. Đức vua mười hai tuổi động lòng thương xót. Thần Tông biết, nàng là người cung nữ nhỏ tuổi nhất trong cung, vô tình lại đồng niên cùng ngài. Nàng vừa mới rời cánh tay mẹ. Một ý nghĩ thoáng qua đầu khiến tim Thần Tông đau nhoi nhói. * ** Buổi chiều ngày Đinh Mão, tại điện Vĩnh Quang, thần chết đã cận kề làm trắng dã đôi mắt, tái xám làn da và đôi gò má nhô lên nhọn hoắt của Phụ hoàng. Người ta đưa cung nữ Ngạn La tới. Nàng như một lạ lẫm, thơ trẻ, dẻ và linh động, uyển chuyển như một nhành liễu, khác hẳn vẻ đài các và thuần thục của các cô gái đẹp đã chứa đầy trong hậu cung. Nàng chỉ là một viên ngọc lạc loài đang lẫn trong đá sỏi mà Phụ hoàng đã chợt nhặt được khi ngài trên đường đi hành lễ tại chùa Báo Thiên. Dương Hoán nghe nội thị kể lại, khi xa giá đi qua, dân chúng phủ phục hai bên đường không dám ngẩng nhìn trộm mặt rồng. Bồng từ đám lúa dưới ruộng bùn, một cô gái lưng đeo chiếc giỏ bắt cua nhỏ xíu lem nhem đầy bùn đất chạy ào lên đón trước chiếc kiệu vua, hăm hở nhìn đoàn xa giá không chút sợ hãi. Như trẻ con lần đầu nhìn thấy vật lạ. Rồi cười khanh khách. Quan hộ giá sợ hết hồn, vội thét: "Thích khách! Bắt lấy thích khách!". Đám đông náo động. Lập tức cô bé Ngạn la bị dẫn tới trước kiệu rồng, trước trùng điệp đám linh gươm giáo tuốt trần sáng lạnh như nước. Đức Nhân Tông cau mày, nhìn chiếc giỏ cua bé xíu ngang hông cô bé, nhớ lại chuyện đức phụ hoàng Thánh Tông trong một lần đi kinh lý về miền quê Kinh Bắc đã gặp một cô gái hái dâu, đem về cung trở thành Nguyên phi Ỷ Lan, rồi sinh hạ ngài. Lưỡi đao sáng loáng kề cổ, cô bé vẫn im lặng. Tên thị vệ dùng sống đao hất ngược cằm. Gương mặt nhỏ nhắn ấy vừa ngẩng lên đã làm Nhân Tông sững sờ. Vẻ đẹp hoang lạ của cô bé bắt cua khiến vị hoàng đế già vốn đã no chán với những vưu vật của hậu cung bỗng cảm thấy sửng sốt và hào hứng. Trái tim già nua của ngài như được an ủi. Ngài náo nức lệnh ngay cho giám quan vời nàng vào cung. Nghe nói được quan Nội thị dìu lên kiệu hoa, cô bé bắt cua đã gào thét gọi mẹ, cào cấu chảy màu bàn tay ông ta. Nư quan trông coi các cung nhân đã mất nhiều công dỗ dành nàng. Bất hạnh cho đức tiên hoàng, khi con thú nhỏ đã được thuần phục đến trước mặt ngài thì ngài chỉ còn là một bộ xương được quấn trong lớp da bệch như sáp. Thần Tông nhớ rất rõ, Ngạn La đã hãi hùng hét lớn: "Ma!". Và bỏ chạy. Thật may mắn là lúc đó hoàng hậu, các hoàng thân, nội giám và các quan mải lo lắng chờ đợi những lời trăng trối của phụ hoàng không còn ai nhớ tới việc trừng phạt Ngạn La tội khi quân. Lúc đó, quên cả không khí đau buồn, Dương Hoán đã bật cười rồi chợt sợ hãi lấy tay bưng miệng... Dương Hoán đã nghĩ, nếu cô bé này bày trò chơi cùng thì chắc sẽ rất thú vị. Cô ta hẳn sẽ không nhàm chán như bao nhiêu cung nhân chỉ một mực sợ hãi chiều chuộng, mong được yên thân hoặc đón chờ ân sủng... * ** Gương mặt và tiếng nói của cung nữ Ngạn La cũng làm quan Thái bảo Lý Trác chợt rùng mình. Không phải cái tuổi trẻ và vẻ đẹp mèo hoang của cô cung nữ có thể làm xúc đọng một con người sắt đá như quan Thái bảo. Xưa nay theo luật lệ triều đình, các quan võ không bao giờ được đặt chân vào chốn hậu cung. Trừ khi có lệnh triệu vời đặc biệt của hoàng thượng. Những lúc đó, có bất chợt gặp cung nữ nào thì cung nữ nghiêng mình cúi đầu nâng khăn che mặt, đại quan rảo bước mau mắt nhìn thẳng... Nhưng lúc này không thể cưỡng lại, mắt Lý Trác cứ trân trân nhìn cô cung nữ bé nhỏ đang quỳ gục trước mặt đức vua kia. Như có bàn tay ai đó vừa thò vào, giật mạnh trái tim ra khỏi lồng ngực của quan Thái bảo. Một cảm giác sợ hãi đến ớn lạnh bóp nghẹt Lý Trác. Quan Thái bảo lập cập vòng tay trước nhà vua, giọng bất chợt như người hụt hơi: - Muôn tâu bệ hạ... xin lệnh cho trừng phạt để giữ nghiêm phép nước. Lưỡi đao sáng lạnh của đao phủ đã thọc hờ đúng chỗ mạch máu đang phập phồng trên cuống cổ mảnh dẻ. Mùi tanh lợm và khét lẹt của máu, thịt người vẫn cháy phả đến từ đảo Âm Hồn. * ** Và đám mây lưỡi tầm sét õng máu vẫn lửng lơ phía trên hoàng thành. Thần Tông bậm cặp môi đỏ chót, suy nghĩ lao lung. Tội Ngạn La trăm lần đáng chết. Luật triều đình đã định, khi vua băng, tất cả các cung nữ phải lên giàn thiêu chết theo vua. Nhưng Ngạn La đã vùng ra khỏi tay đao phủ nhẩy xuống hồ nhanh như một con rái cá hòng trốn thoát. Một gã đao phủ lực lưỡng tóm lấy Ngạn La kéo lên bờ. Trước mặt đức vua, Ngạn La vẫn run bắn người, ngoẹo cổ tránh lưỡi théo lạnh buốt như rắn. Nàng rũ xuống, lả đi. Rồi tỉnh dậy ngay sau vài khắc, giẫy giụa điên cuồng trong tay đao phủ. Những tiếng gào khóc nghẹn giọng trong cổ họng mỏng manh khiến gỗ đá cũng phải mủi lòng "... Các ngươi thật độc ác... Xuống âm phủ ta sẽ xin Diêm Vương cho ta trở lại làm quỉ dữ để thiêu chết các ngươi... Mẹ ơi! Người ta giết con. Mau cứu con! Mẹ ơi!...". Thần Tông như ngồi trên đống lửa. Đôi mắt sắc lạnh và lưỡi gươm của đao phủ đang chờ cái gật đầu của ngài để kết liễu đời cung nữ Ngạn La. Trước mắt ngài mờ mờ ảo ảo hình chiếc đầu nhỏ có đôi mắt con ngươi tím kia lìa khỏi cổ dưới lưỡi dao đao phủ. Mười hai tuổi như ngài đã kịp nhìn thấy nhiều thây cụt đầu. Nhưng đó là những thây người lớn. Còn đây lại là con mèo con uyển chuyển và hoang lạ... Và mẹ nàng. Mẹ nàng là ai?... Ngài bỗng thấy thương xót người đàn bà đó. Một giấc mơ như làn khói xám nhen tới, lan tỏa trong tâm trí của Thần Tông. Dường như ngài đã trải qua một cuộc hành trình mà ngài vừa là người đang đi trong cuộc hành trình, lại vừa phân thân bay trên cao để nhìn ngắm lại chính mình. Hình như lúc đó ngài là một người khác. Hình như là một người đàn ông bốn mươi sáu tuổi, bỗng thoát xác hóa thần đầu thai vào bụng một người đàn bà đã khô héo, đẻ được sinh ra thành đứa hài nhi tên Dương Hoán, nén lòng chờ đợ mười hai năm để kế vị ngai vàng. Vì thế, đôi lúc, ngài không khỏi ngạc nhiên khi chợt nhận ra mình bỗng già dặn như một người đàn ông từng trải, lúc lại chỉ như một đứa trẻ non nớt thích những trò nghịch ngợm. Lúc đợi phút chào đời, ngài đã thấy rõ mồn một những bắp thịt và cái tử cung êm ái bao quanh mình bỗng quặn thắt, vò xé mãnh liệt, những cơn gào thét đau đớn của người đàn bà mà ngài mượn dạ để đầu thai... Bao nhiêu máu của người đàn bà ấy đã chảy để sinh ra ngài. Ngài biết lúc đó trái tim bé nhỏ của ngài đã đập dồn hồi vì thương xót bà ta. Ngài ân hận tại sao nỡ làm một người đàn bà đau đớn đến nhường ấy. Trong phút chốc, ngài đã ngập ngừng chẳng muốn ra đời... Thái bảo Lý Trác vẫn quỳ trước mặt, giọng đã hơi gằn: - Muôn tâu... Xin bệ hạ đại xá cho thần tội khi quân. Thần buộc phải dùng lời nói thẳng... Nghiêm minh là điều tối trọng của phép trị nước. Xin... Xin bệ hạ xuống lệnh lập tức chém bêu đầu con nghịc nữ này để làm gương răn kẻ khác... Trên đài cao, Thần Tông đưa mắt nhìn quanh. Cả một rừng người, rừng cơd xí chăm chắm nhìn về phía ngài. Ngàn con mắt dõi theo ngài. Trong đám mấy trăm vị quan phẩm phục chỉnh tề kia có bao nhiều kể khẩu phục nhưng tâm bất phục, bao kẻ mắt sáng rỡ ngước nhìn ngài mà trong tâm đang thầm giễu cợt ngài, vị vua thơ trẻ. Và có kẻ nào thương xót cho cô bé này không? Lẽ nào bốn mươi tám cái chết thiêu đau đớn nhỡn tiền không mảy may làm rung động một thớ nhỏ nào trong tim họ? Thần Tông toát mồ hôi. Ngài muốn lập tức tha Ngạn La. Nhưng ngài lại sợ quan quân trong triều và dân chúng vì vạy mà sinh khinh nhờn ngài, mầm mống của sự dấy loạn sau này. Thái sư và cha ngài - Sùng Hiền Hầu hoàng thân đã dạy từ khi ngài còn mới biết đọc những chữ đầu tiên. Khổng tử nói "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng Thái sư nói "nhân chi sơ tính bản ác". "Nếu không lấy cái uy trị nước, cái ác trong dân chúng sẽ trỗi lên thành ác loạn"... Thần Tông vẫn nhìn xuống đám đông, thôi thúc ngài tìm kiếm, mong có một bàn tay dưa ra phía hàng quan nhất phẩm. Mong một lời lên tiếng tau xin tha chết cho Ngạn La. Nhưng chỉ có những gương mặt câm lặng. Lẽ nào những điều "nhân nghĩa..." ghi chép đầy rẫy trong muôn vàn pho sách chất chồng trong các tủ gỗ quý ở Quốc tử giám nơi Thần Tông cùng các hoàng tử trong triều vẫn thường ngày đem dùi mài học tập chỉ là những lời rao giảng sáo rỗng? Biết bao chùa chiền nguy nga đã dựng lên từ đức thái tổ sáng nghiệp, chùa nào cũng thờ hai chữ Từ bi. Vậy mà sao những con người trước mặt ta kia cứ câm lặng trước một sinh linh nhỏ bé vô tội sắp lìa đời? Phải chăng luật lệ quá khắt khe khiến cho các quan trong triều của một vị vua được tiếng là nhân đức như tiên hoàng Lý Nhân Tông cha ta mà lúc này cũng chỉ là một dẫy hình hài câm lặng? Vậy thì thân phận đám dân đen gày guộc mắt trũng, suốt ngày quần quật trên đồng ruộng để kiếm bát cơm, một con chữ bẻ đôi không biết kia sẽ còn cùng cực đến mức nào?... Thần Tông chán nản thở hắt ra. Hơi thở dài của một người lớn tuổi, đã nếm trải nhiều nỗi đắng cay trong cõi đời. Nhưng kìa, một vài cánh tay giơ ra từ cái đám người đang phủ phục. Mắt Thần Tông sáng lên. Đã có dăm bảy, rồi mấy chục người đã bạo gan ngẩng đầu lên giữa hai khuỷu tay. Tiếng nài xin của họ bay theo luồng khói tanh tưởi vọng vào tai Thần Tông: - Chúng con ngàn lạy vạn lạy bệ hạ tha chết cho cung nữ Ngạn La. Ngàn lạy bệ hạ...! Liền đó ngư lâm quân xốc nách dìu tới một người đàn bà gương mặt thì còn trẻ nhưng đã hơi còng và mái tóc đã bạc trắng như một bà lão... Cái tát của viên ngự lâm quân hộ pháp khiến mặt người đàn bà bê bết máu. Nhưng đôi mắt người đàn bà thì vẫn rất mực sáng láng, anh minh dưới đôi mày thưa dựng ngược. - Xin bệ hạ cho tiện dân được thưa một lời... Kẻ tiện dân này biết tội mình đáng chết. Nhưng tiện dân xin có vài lời, rồi dẫu chết cũng cam lòng. Thần Tông hăm hở: - Bà cứ nói! Người đàn bà lấy tay vuốt dòng màu đang ri rỉ từ vết thương trên đầu xuống loang đỏ khuôn mặt: - Bệ hạ! Người phải gánh gồng cả một giang sơn. Nay trong tay bệ hạ thiếu người trung nghĩa. Thiếu kẻ dám nói những lời thành thật vào tai bệ hạ. Ai chẳng hiểu việc thiêu người vô tội chết theo vua là một phép t̑
Chương II ĐÊM NGUYÊN TIÊU * ** Ngưỡng u nhược nhi lưu phán Phủ phế chi dĩ ngưng vọng Mậu Thìn. Quảng Hựu năm thứ tư. Từ Lộ ngẩn ngơ bên cây đèn lồng thứ mười bẩy. Cây đèn lồng Mỹ nhân. Chao đèn khảm hình một người con gái. Nàng giấu một nửa mặt sau tấm lụa, nghiêng nghiêng hiếng mắt, nụ cười hàm tiếu. Từ châm lửa. Cây đèn tỏa rực, nhuộm căn nhà trong làn ánh sáng nâu nẫu hồng đào. Những sợi khói trắng đầu tiên vừa uốn lượn, gương mặt mỹ nhân lung linh chuyển động. Nụ cười với làn môi mọng, khóe môi lũm xuống như hai núm đồng tiền được chiếu sáng từ bên trong, quyến rũ mê hồn. Bàn tay trái nàng cầm bút lông. Ngọn bút run rẩy trên một đóa mai chưa liền cành, mỏng manh như khẽ động thì sẽ tan biến ngay vào thinh không. Lá mai mới lìa cành màu vàng sẫm tơi bời liệng trong gió xuân. Mỹ nhân mặc chiếc áo thiên thanh, quần tha thướt xếp nếp màu hồng đào rủ trên mặt đất. Eo lưng thon bó trong dây lưng lụa ngũ sắc két nút bên hông buông chùng tới tận gót chân. Búi tóc nặng trĩu cuốn cao trên đầu cũng cài một cành chín bông mai trắng. Từ Lộ say đắm ngắm gương mặt mỹ nhân. Đường viền đi qua cằm và hai mang tai không mềm dịu. Các mỹ nhân được coi là tuyệt sắc đương thời bao giờ cũng có chiếc cằm tròn và gương mặt nở nang như khuôn trăng. Nhưng chiếc cằm có đường viền cứng cỏi của nàng lại hòa hợp kỳ lạ với đôi mắt dài như hai nét bút bay bướm được phác qua bởi cơn thần hứng của một nhà thư họa, biến thành đôi dòng sông thăm thẳm khôn dò. Nửa buồn nửa vui, khóe mắt như nước đọng. Ngự trị kiêu sa, làm sáng rực đôi mắt là đường mày màu khói nhạt dường như hơi cau, đa đoan đến não lòng. Từ Lộ đã phải nhọc công vẽ đi vẽ lại cả tháng trời mới phang phác được cái nét cau cau quyến rũ đến thiêu đốt lòng người của nàng. - Nhuệ Anh! Từ bất giác gọi lên thành tiếng, rồi thổn thức áp mặt vào chao đèn lồng mang gương mặt người con gái. Toàn thân run rẩy. Dào dạt những đợt sóng yêu đương khao khát xô bờ. Mỹ nhân là ái nữ của quan Ngũ phẩm Tôn Trinh, bạn đồng khoa của Từ Vinh cha chàng. Cách đây ba năm, Tăng Đô án Từ Vinh và quan Ngũ phẩm Tôn Trinh thực hiện lời hứa cùng nhau lều chõng, cho đôi trẻ làm lễ đính ước. Nhuệ Anh tiểu thư càng lớn càng đẹp. Bao nhiêu công tử con nhà danh giá dạm hỏi nhưng Tôn Trinh vẫn một lòng không bội ước vì đôi trẻ càng lớn lên càng quấn quýt, xứng đôi trai tài gái sắc. Hôn lễ được cử hành vào dịp cuối năm, khi Từ Lộ đủ mười tám và Nhuệ Anh vào tuổi trăng tròn. Từ Lộ mong mỏi đêm Nguyên tiêu này từ hàng tháng trước. Gia pháp hà khắc, quan Ngũ phẩm Tôn Trinh cấm cung con gái từ lúc nàng đủ 13 tuổi. Ngày ngày có thầy đến tận tư gia dạy kinh sách, lễ nghĩa, học vá may thêu thùa, dệt vải. Thi thoảng, những dịp hội chùa, lễ tết, ông cho con gái ra khỏi nhà. Mỗi khi đi nhất thiết phải có mẹ, thêm hai người hầu tháp tùng. Từ Lộ, dẫu là vị hôn phu, cũng chỉ được phép sang thăm mỗi năm vài ba bận, đi cùng Từ Vinh cha chàng. Mỗi lần gặp mặt, lúc đôi bạn già mải cuộc cờ, chén rượu, hàn huyên thế cuộc, đôi trẻ mới được mắt trong mắt ngắm nhau. Rồi Từ Lộ nâng cây sáo Tiêu Tương lên môi, thổi khúc Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như, mà tiếc rằng thời khắc sao vùn vụt trôi chẳng thương tình. Từ Vinh và Tôn Trinh lặng người lắng nghe tiếng sáo. Quan Ngũ phẩm Tôn Trinh không tiếc lời khen ngợi: "Qủa thực nghe như không phải người mà là thần tiên lựa hơi". Tăng Đô án Từ Vinh không dấu nổi vẻ hài lòng nhưng vẫn cau mày: "Hơi ngại. Tiếng sáo nghiêng về thanh chuỷ". Năm qua mưa thuận gió hoà, thiên hạ thái bình, lại dịp nhà Tống sắc phong vua Nhân Tông ta làm Nam Bình vương, đêm Nguyên Tiêu năm nay (1) triều đình mở hội dèn Quảng chiếu ở sân Long Trì. Tăng ni nối nhau đi quanh đèn tụng kinh niệm phật. Quan viên thắp hương làm lễ "chầu đèn". Quan Ngũ phẩm Tôn Trinh cho phép con gái yêu cầm đèn lồng đi chơi khoảng một canh, có người hầu gái tháp tùng. Nhụe Anh tiểu thư rạng rỡ mặt mày, cả ngày cười nói ríu ran như chim hót. Nàng đã hẹn gặp Từ Lộ. Mỗi người sẽ mang theo một chiếc đèn lồng đẻ làm hiệu nhận ra nhau trong đêm. Càng gần tới đêm Nguyên tiêu, từ Lộ chẳng thiết ăn uống, trong lòng lúc nào cũng hồi hộp, náo nức. Chàng đã mất bao công phu để hoạ bức hình Nhuệ Anh. Sau đó lại chạy đôn chạy đáo cậy thợ khéo nhất kinh thành khảm lên chiếc chao đèn. Nhuệ Anh trông thấy cây đèn này sẽ hiểu tình chàng dành cho nàng sâu nặng biết dường nào. Ngoài kia, trời dần tối. Náo nức tiếng cười. Từ Vinh phu nhân sai người đốt mười sáu ngọn đèn lồng. Nước Nam tập trung vốn không có tục mở hội hoa đăng. Nhưng từ khi thắng trận, đức vua vui mừng, cho người đi học cách chế tác đèn lồng của thợ giỏi phương Bắc, về dạy lại cho thợ kinh thành, rồi truyền mở hội. Được lệnh, những thế gia vọng tộc và những nàh có của ăn của để đều nao nức sắm đèn. Đây cũng là dịp để các nhà khoe giàu sang phú quý. Từ Vinh phu nhân cũng háo hức. Nguyên tiêu này đúng dịp cậu quý tử của bà tròn mười bảy tuổi. Bà đặt thợ khéo trong nội kinh làm cho mười bảy chiếc đèn lồng. bà tin rằng, nếu những ngọn đèn lồng đều cháy, sáng rực trong hội hao đăng, con trai bà sẽ luôn gặp may mắn và dòng họ từ sẽ càng thêm thịnh vượng. Cây đền lớn nhất có hình sáu rồng chầu châu ngọc treo giữa nhà tỏa ánh sáng lỗng lẫy rắc vàng trên những đồ gia bảo. Căn nhà lớn, cửa thấp, lối vào hun hút sâu, hai bên rườm rà những bụi trúc quân tử không cắt tỉa, những gốc hòe cổ thụ hoa vàng. Từ Vinh phu nhân lướt qua các đồ vật được bày biện trong nhà, nhưng không giấu được vẻ hài lòng. Dinh cơ của Tăng Đô án Từ Vinh càng khiến cho người ta kính nể vì vẻ huyền ảo và sang trọng. Mười một ngọn đèn lồng khác mang đủ hình mười một con giáp, hắt đủ mười một mầu quây quần dưới máy hiên quanh nhà. Trên lầu cao, bốn chiếc đèn tỏa ánh tím rực như màu cầu vồng. Cùng với chiếc đèn lồng Mỹ nhân trên tay Từ Lộ, căn nhà rực rỡ như có mười bẩy mặt trăng mặt trời cùng chiếu rọi. Từ Vinh phu nhân thong thả dạo gót ra trước bàn thờ, tra thêm trầm vào chiếc lò hương chạm bạc. Tự tay bà đánh bóng những đồ tế tửu bằng vàng để đợi quan Tăng đô án xong việc ở trong cung thì về đốt trầm lễ Trời Phật thánh thần tổ tiên ông bà. Phu nhân nóng lòng ngóng ra cửa sổ. Sáng nay chồng bà vội vã cùng hai tên gia nhân rời nhà vào giờ tỵ, hẹn đến giờ mùi sẽ về, cùng vợ con sửa soạn cho ngày tết Nguyên tiêu. Nhưng bây giờ đã là giờ dậu. Ngoài đường ngựa xe nhộn nhịp. Nam thanh nữ tú áo xiêm đẹp đẽ trầm cài ngọc giắt đổ về hướng thành nội. Phu nhân càng mong ngóng tiếng vó ngựa của chồng. Có lẽ đường đông quá, ngựa trẩy không nhanh được. Bà đưa mắt nhìn về phía Từ Lộ. Vẻ tuấn tú của cậu con trai khiến người mẹ nở nang trong lòng. Mới mười bảy tuổi nhưng con trai bà đã nổi tiếng trong vùng vì sự học cũng như các môn cưỡi ngựa chơi cờ bắn cung, đợt khảo thí vừa rồi đã đỗ chức Tăng quan. Đã thế tiếng sáo của con bà còn được coi là ngón tuyệt chiêu không ai sánh kịp. Có người quá yêu đã ví tiếng sáo của Từ như tiếng đàn của Tư MãTương Như, mỗi khi cắt lên có cả đàn chim phương bay về nhảy múa quanh người. Lòng tự hào về tài cầm kỳ thi họa của con trai nhiều lúc làn dịu đi nỗi lo lắng dội lên trong bà mỗi khi bà nhận thấy tính cương trực của Từ đôi khi hơi quá, đến mức ương ngạnh. Tiếng chuông báo giờ tuất. Ngân nga như khẽ lay những bóng sáng rực rỡ muôn màu trong bóng đem lạnh buốt. Từ Lộ với tay lấy chiếc sáo trên vách thư phòng giắt vào thắt lưng. Chùm tua đỏ lấp lánh chỉ vàng buộc đuôi cây sáo rủ xuống điểm nhịp bên hông, Từ Lộ xách chiếc đèn lồng Mỹ nhân, khoác thêm áo trừu, cúi đầu xin phép mẹ cuốu giờ tý sẽ trở lại nhà. Dù cha chưa về, Từ Lộ không chút lo lắng. Một đêm đô hội như đêm nay, ngay cả kẻ cướp cũng mải vui chơi, cha chàng sẽ không gặp điều gì nguy hiểm. Có lẽ ông về muộn là bởi các bạn đồng liêu chèo kéo nán lại chút nữa trong nội kinh để thưởng ngoạn đem hội hoa đăng hiếm hoi này. Không có gì đáng lo lắng. Cả ngôi nhà sáng rỡ, đầy ắp gia nhân. Mẹ cũng sẽ không có thời gian mà buồn vì đã có mấy bà bạn già mới tới, tay ôm lồng ấp ngồi quay quanh chiếc sập gụ giữa nhà. Họ sẽ chơi bài và ép nhau nhấp rượu phạt hay họa thơ liên vần trong lúc đợi cha chàng về vào tiệc Nguyên tiêu. ra khỏi cổng, Từ thoáng rùng mình vì lạnh. kinh thành sáng như sao sa bởi muôn ngàn chiếc đèn lồng đủ hình đủ kiêu đang lung linh chiếu rọi. Trên cao xa kia, chiếc đèn lồng màu đỏ rực, lớn ngang chiếc cót thóc nhà nông phu, đang đung đưa khiêu khích trong gió, là chiếc đèn lồng nhà Diên Thành hầu, giàu có quyền thế lệch thiên hạ. Tiền làm ra nó có thể mua cả một trang ấp. Cây đèn tỏa ánh sáng xanh lành lạnh, chao đèn mang hình đôi chữ Dũng, chữ Nhân đứng trang trọng trước cổng một sinh thự bề thế, có hào nước bao quanh, là của Thái úy Lý Thường Kiệt. Thái sư Lý Đạo Thành treo trên hai bên mái hiên rêu phong đôi đèn đơn sơ, chao ddenf mang đôi chữ Nhẫn viết theo lối thư họa tuyệt đẹp. Rực lên như một bông hồng khổng lồ giữa nội kinh là khóm đèn lòng màu tí trên Cà Nguyên điện nơi hoàng đế thiết triều. Tử Cấm thành lộng lẫy uy nghi tỏa rạng vàng son, rõ ràng là chỗ thượng đẳng dành cho thiên tử. Bao quanh Tử Cấm thành, Thúy Hoa cung, Nghênh Xuân cung, Long Đức cung, Long An điện, Long Thụy điện đêm nay cùng đua nhau khoe vẻ hào hoa, không hổ là nơi hoàng hậu, các phi tần và các hoàng tử cư ngụ. Tại Chính Dương lầu, Giảng Võ điện, Tập Hiền điện và trên bốn cổng thành Đại Hưng, Tường Phù, Quảng Phúc, Diên Đức, đều kết hàng chuỗi đèn lồng nhỏ tỏa ánh bạc như sóng sông Ngân lững lờ tỏa ra các hướng trên bầu trời. Trên những con đường trong nội kinh, theo lện của Đức Nhân Tông hoàng đế, cuộc thi đèn đã được khởi xướng. Các cung nữ, quan quân trong triều phải ăn mặc lộng lẫy, tay mỗi người xách mỗi cây đèn lồng nhỏ ngồi trên xe ngựa diễu quanh kinh thành để cho dân chúng được chiêm ngưỡng một bữa no mắt, hưởng ân sủng của hoàng đế nhân thời đất nước vào cơ thái bình thịnh trị. Từ Lộ rảo bước qua cầu Tây Dương bắc qua sông Tô. Ánh đèn rực sáng của kinh thành phản chiếu xuống dòng sông. Con sông vốn bình lặng thường ngày đêm nay bỗng biến thành một dòng sông chở đầy sao. Những lá thuyền chài đêm nay không thiu thiu ngủ như hàng đêm, mà cũng nao nức cùng ánh đèn dầu lạc của dân chài. Từ Lộ vừa qua cầu. Phía bên kia đã thấy bóng một ngọn đèn lồng nhỏ đang di động về hướng chàng. Dù ngọn đèn này lẫn trong muôn vàn ngọ đèn khác trong hội hoa đăng nhưng từ trong tim chàng, Từ Lộ cảm thấy ngọn đèn đó là của chàng, đến với chàng. Không ghìm được, Từ Lộ chạy nhanh về phía chiếc đèn nhỏ. Càng gần, bóng đèn càng hiện rõ hai chữ Tiêu tương tuyệt đẹp được viết bằng nét bút tài hoa. Chỉ riêng chàng biết căn nguyên hai chữ Tiêu tương đó. Vì yêu tiếng sáo của chàng, Nhuệ Anh đã thuê người lên núi YÊN TỬ tìm khóm trúc tiêu tương, chọn một đoạn đẹp nhất mang về làm sáo tặng cho chàng. Cây sáo này chàng luôn đep bên người, nâng niu hơn báu vật. Treo chiếc đèn Mỹ nhân vào thành cầu. TỪ dừng lại và rút sáo ra thổi. Lại như mọi lần gặp nhau, tiếng sáo réo rắt điệu phượng cầu hoàng của TƯ MÃ TƯƠNG NHƯ. Làn gió xuân mơn man trong khí xuân buốt lạnh, tiếng sáo như gọi những sợi mưa bụi từ trên trời xuống khẽ hôn vào đôi má trinh nữ nóng bừng của NHUỆ ANH. NHUỆ ANH rảo gót hài thêu hướng về đèn lồng Mỹ nhân, bỏ xa người đầy tớ gái đang vừa đi vừa chạy. Nàng nhận ra dung nhan của mình được chiếu rọi dưới ánh đèn và trong lòng tràn ngập hân hoan. Dù cuộc hôn nhân sắp tới do cha mẹ đôi bên sắp đặt nhưng NHUỆ ANH thật mãn nguyện. Đèn lồng giơ cao soi tỏ hai gương mặt. Tiếng sáo ngừng bặt. Khúc phượng cầu hoàng buông lơi. Cây đèn Mỹ nhân ghé gần búi tóc của NHUỆ ANH. Gương mặt mỹ nhân trên đèn lồng và gương mặt của NHUỆ ANH ngoài đời tỏa sáng vào nhau. Đôi mắt NHUỆ ANH đăm đắm nhìn. Cách nàng một bước chân, phía đối diện, cây đèn Tiêu tương soi tỏ gương mặt người nàng yêu. Mày rậm mắt sáng miệng như vành trăng treo. Vầng trán thanh cao, chỉ hiềm bên thái dương có chút khuyết hãm. Cha nàng đã có lần nói về cái tướng phúc phận không trọn vẹn của vành thái dương này. Nhưng ông lại nói TỪ LỘ đẹp ở tưỡng "ngưỡng nguyệt khẩu". Vả lại tướng tùy tâm diệt. NHUỆ ANH chả hiểu gì tướng số. Nàng chỉ biết ngày đêm mơ tưởng đến khuôn mặt người yêu cùng tiếng sáo mê hoặc của chàng. Và nàng biết tiếng sáo ấy ánh mắt ấy chỉ dành cho nàng mà thôi. Nghĩ đến ngày cưới của mình đã được đôi bên cha mẹ ấn định vào tháng Mười cuối năm nay lòng NHUỆ ANH rạo rực. Nàng vừa sợ vừa mong. Nàng sợ cái ngày phải rời xa cha mẹ, nơi nàng được nâng niu quấn trong nhung lụa, về một gia đình nàng chưa bao giờ đặt chân vào mặc dù cũng chỉ ở đất YÊN LÃNG này và cách nhà nàng chưa đến một dặm. TỪ LỘ bước tới. Trong lòng chàng trai đê mê dịu ngọt. Đặt cây đèn lồng xuống đất, chàng rụt rè tìm bàn tay nhỏ nhắn của NHUỆ ANH được giấu kín trong tây áo bông chần bằng lụa hồng. Đắm đuối nhìn vào mắt nhau. Đêm hoa đăng rạng rỡ của kinh thành giờ đây dường như thu cả vào trong mắt của cặp trai tài gái sắc. Thiên hạ biến mất. Chỉ còn đong đưa trên cầu TÂY DƯƠNG đôi đèn lồng Mỹ nhân - Tiêu tương và cặp tài tử giai nhân. Bỗng vang tiếng ngựa hí chói óc sát trên đầu. Đôi trai gái giật mình ngẩng trông lên. Ngay trên đầu là hai cặp móng sắt sáng loãng của bốn chân ngựa vừa bị kìm lại bất chợt, đang hung hãn chỉ trực xuống võ giẫm nát chàng trai. Đôi hàm ngựa lục ô lực lưỡng tức giận sùi bọt không ngừng cất tiếng hí rợn người. TỪ LỘ vội và kéo người yêu nép vào thành cầu. Cây đèn Mỹ nhân bị cặp móng ngựa dập xuống vỡ tan thành trong nháy mắt. Phía sau hai đầu ngựa vang lên một tràng cười. TỪ LỘ giận điên người quắc mắt nhìn lên. Ngất ngưởng trên xe, sau lưng gã đánh xe lực lưỡng vận áo đỏ là một công tử mặt trắng tai vểnh, hàng ria non đứt đoạn trên mép, mặc ấo trừu đỏ tía, đi hài mũi cong thêu đôi chim phượng. Trước thành xe có chiếc biển được chiếu rọi bởi ngọn đèn tỏa sáng từ bên trong mang ba chữ lớn "Diên Thành hầu". TỪ LỘ không lại gì người ngồi trên xe. Đó chính là công tử LÝ CÂU - cậu quý tử độc nhất của Diên Thành hầu hoàng thân. LÝ CÂU vốn ỷ thế cha, không việc gì là không dám làm, vung tiền của như hắt nước qua cửa sổ, ăn chơi khét tiếng khắp chốn kinh thành. Trong đầu TỪ LỘ lóe lên một tia chớp. Cách đây một năm, TỪ VINH cha chàng làm một việc mà sau đó người kinh thành gọi ông là kẻ vuốt râu hùm. Nhà Diên Thành hầu đã nức tiếng giàu có ở kinh thành. Nhưng lòng người tham không đáy. Mùa xuân năm ngoái, ông đã cho quân hầu đày tớ chăng dây cướp trắng hơn hai trăm mẫu ruộng của dân phía bắc hồ DÂM ĐÀM. Trong số đó có ruộng đất của nhiều nhà chùa mới khai phá. Dân mất ruộng kéo nhau lên huyện, phủ đưa đơn kiện. Nhưng Diên Thành hầu quyền thế nghiêng trời. Đám dân đen không những ra về tay trắng mà trên lưng còn lằn những vết đòn roi vì tội mưu toan chiếm ruộng đất của triều đình đã ân ban cho hoàng thân quốc thích. Là quan Tăng đô án của triều đình, cha TỪ LỘ đã đến từng chùa chiền, làng xóm trong vùng để thu thập chứng cớ. Những lá đơn của ông vẫn nối nhau gửi đến Đô hộ phủ ngục tụng để mong có ngày được rõ trắng đen. Diên Thành hầu có dễ bỏ qua cho kẻ dám vuốt râu hùm. Mối hiềm thù càng ngày càng như dầu đổ lửa khi nhan sắc NHUỆ ANH đã tình cờ lọt vào mắt công tử LÝ CÂU trong một lần đi lễ chùa. Từ đó LÝ CÂU như bị thiêu đốt. Trái với thói quen bợm bãi của những cuộc trăng gió rải rác khắp kẻ chợ cùng quê, lần này LÝ CÂU vật vã hối thúc cha mẹ đến hỏi NHUỆ ANH về làm vợ. Lời cầu hôn của cậu quý tử con nhà quyền thế bậc nhất kinh thành đã bị khước từ... Tràng cười khả ố của LÝ CÂU vụt tắt khi nhìn thấy ánh mắt bừng bừng nộ khí của TỪ LỘ đang quắc lên nhìn thẳng vào hắn. Bàn tay TỪ LỘ nắm chặt cây sáo trúc vung lên. Ánh mắt giận dữ và chùm tua đỏ buộc trên đuôi sáo trúc khiến cwpj ngựa ô đột nhiên hoảng hốt. Lại đúng lúc gã đánh xe ngẩn ngơ ngắm vẻ đẹp khác đời của NHUỆ ANH mà lơi lỏng tay cương. Đôi ngựa dựng ngược bờm, tung vó hí lên một hồi dài và hất công tử LÝ CAU ngã sóng soài trên cầu TÂY DƯƠNG. Chiếc áo cừu màu đỏ bảnh bao bết đất. NHUỆ ANH quên cả giữ ý bật cười khanh khách. LÝ CÂU vừa đau vừa bẽ mặt, không biết trút nỗi nhục vào đâu, liền vung roi da quất túi bụi lên lưng, lên mặt người đánh xe. Lưng áo người lái xe rách taọc, máu chảy ròng ròng từ mặt xuống côt ướt đẫm mà vẫn phải nén đau không dám ta thán một lời, quỳ xuống khom lưng cho LÝ CÂU giẫm lên vai mà bước vào xe. Trước khi ra roi cho ngựa phi, LÝ CÂU còn quay lại, gầm lên với TỪ LỘ: - Thằng tiêu đô án hèn mọn kia! Hãy nhớ lấy đêm Nguyên tiêu này. Nếu mày muốn giữ lấy cái mạng sống hèn mọn thì lập tức rời xa tiểu thư. Nàng là của ta. Quên điều đó thì chớ trách cha con ta xử ác! Và hắn ngoái sang, đánh mắt, cố nở một nụ cười tươi tỉnh với NHUỆ ANH: - Xin nàng đừng quên. Tết Thanh minh sắp tới, nàng sẽ nằm trên giường cưới của ta! Cỗ xe phóng vụt đi dưới sức nạng của chiếc roi da. TỪ LỘ nhìn chiếc đèn lồng Mỹ nhân với bao nhiêu công phu và tâm tình nâng niu gửi gắm của chàng bây giờ tả tơi dưới vó ngựa. Chàng giận bầm gan tím ruột, nộ khí xung thiên đuổi theo bóng ngựa. Vừa chạy được mấy bước thì nghe tiếng chân người thình thịch phía sau và tiếng gọi giật hốt hoảng: - Thưa công tử! Công tử!... Mời cậu mau về nhà. Có sự biến... TỪ LỘ khựng lại. Nhìn nét mặt hớt hải của tên gia nhân, chàng chợt nhớ hôm nay cha chàng về muộn. TỪ LỘ cúi đầu báo biệt NHUỆ ANH. Nàng cũng đang tái mặt vì lo lắng, hỏi dồn tên gia nhân: - Có việc gì vậy? Sao không mau nói ra? Nhìn nét mặt tái nhợt của tên gia nhân, TỪ LỘ linh cảm thấy có một điều gì khủng khiếp đã xẩy ra. Ngực chàng thắt lại. Chàng ngắt lời tên gia nhân đang mắt tròn mắt dẹt định kể lể, quay sang an ủi NHUỆ ANH: - Xin nàng đừng bận tâm. Ta về nhà xem có sự gì rồi sẽ nhanh chóng tin lại cho nàng ngay... Hãy tha thứ cho ta đêm nay, tài hèn sức mọn không cipj cấm cản kẻ vô hạnh. Xin nàng hãy để ngoài tai những lời sằng bậy của kẻ đó. Dù thế nào đi nữa, TỪ LỘ này chỉ mong nàng hiểu cho rằng, nàng là nhụy hoa, mà ta là chiếc đài hoa, suốt kiếp này ta chỉ sống để nâng niu cho cáng hoa được vươn nở dưới ánh mặt trời. TỪ LỘ cùng tên gia nhân tiễn NHUỆ ANH và người tớ gái qua bên kia cầu, đén cổng nhà nàng rồi quay người rảo bước. Nước mắt lưng tròng, NHUỆ ANH cùng người tớ gái lặng đứng trông theo với chiếc đèn lồng Tiêu tương đang lẻ loi hắt sáng. Đêm hội đèn QUẢNG CHIẾU vẫn tỏa ánh sáng huy hoàng. Văng vẳng lúc gần lúc xa tiếng ai hát như giễu cợt: ... Ngưỡng u nhược chi lưu phán Phủ quế chi dĩ ngưng vọng Tương tri linh hề thử ngộ Thuyên hà vị hề độc vãn... (1) * ** Vừa đặt chân đến trước cổng, TỪ LỘ đã nghe tiếng than khóc vẳng từ trong nhà. Đám tớ gái tớ trai nhốn nháo đi lại. Mười sáu chiếc đèn lồng đã bị thổi tắt tự khi nào, chỉ còn lại một chiếc lớn nhất giữa nhà soi gương mặt đau khổ như ngây dại, chứa chan nước mắt của mẹ chàng. Bà tựa lưng vào người hầu gái. Chị người hầu lớn tuổi đang vuốt ngực cho bà, cố sức khuyên giải bằng cái giọng khàn khàn cũng ướt đẫm nước mắt. Trước mặt bà, một trong bốn tên lính hầu đã đi theo cha chàng sáng nay đang quỳ sụp xuống. Áo quần tả tơi, một vệt máu chảy từ trán xuống cằm đã khô bết lại thành một vệt đen sâm như nhát chém chia khuôn mặt anh ta thành hai nửa. Tên lính không ngớt đập đầu xuống đất: - Xin phu nhân cứ trừng phạt con cho đỡ đau lòng… TỪ LỘ vội chạy vào nhà, nắm lấy vai ten lính mà lắc, hỏi dồn: - Có việc gì vậy… Cha ta đâu? Mẹ chàng từ nãy giờ kiệt sức, bây giờ bỗng oà lên nức nở: - TỪ LỘ… con. Mau đi tìm cha… Mẹ chết mất…! TỪ LỘ nhìn khắp nhà. Cái không khí rạng rỡ ban tối của đêm hoa đăng biến đâu mất. Trong nhà chỉ còn trĩu nặng mùi trầm đang toả ra từ chiếc lư bạc. Gío lạnh rú từng hồi ngoài kia, lay lay nhưng ngọn khoái trầm như bàn tay ai đang khắc khoải vậy gọi… Như trong cơn mê, chàng nghe những lời kể dài dòng tiếng nọ lấp tiếng kia của tên lính hầu. Nhưng chàng cũng đủ hiểu TỪ VINH cha chàng và bốn tên lính hầu cận vào kinh, khi đến gần TRÚC SƠN bỗng bị một toán người bịt mặt cầm gươm đao xông ra chặn đường. Bốn tên lính chưa kịp trở tay thì ba người đã bị chém gục. Cha chàng ra sức chống trả. Thường nhật, vũ dùng của quan Tăng đô án đã vào hàng cao thủ. Trong kinh thành không mấy kẻ địch nổi. Nhưng lần này, chỉ sau mấy hiệp đấu, TỪ VINH đã thét lên một tiếng tay ôm trấn lăn lộn trên mặt đất. Hai con ngươi lòi khỏi tròng rồi tắt thở. Người lính hầu còn lại cố sức lao vào cứu chủ thì bị thêm một nhát chém vào mặt. Khi tỉnh dậy không thấy thi thể của quan Đô án và ba tên lính hầu đâu nữa. TỪ LỘ dặn người nhà cố chăm sóc an ủi mẹ chàng cho chu đáo, rồi lặp tức sai thắng ngựa. Chàng cùng bảy tên gia nhân tốc lực phóng đến TRÚC SƠN. Đám người xem hội hoa đăng vần trùng trùng trẩy về phía kinh thành. Bây giờ, nhứng ánh đèn rực rõ, quần áo lộng lẫy và tiếng cười nói như những mũi dao thọc vào sâu trái tim đau đớn của chàng. Đến chân núi TRÚC, TỪ sai gia nhân đốt đuốc. Bảy bó đuốc thắp lên sáng rực, soi tỏ cả từng bụi cây rậm. Chàng và đám gia nhân quần nát cả một vùng, vạch từng gốc cây tưừngngọ cỏ để tìm cha. Tìm đến lúc trời gần sáng vẫn không thấy thi thể của TỪ VINH và ba tên lính hầu. Loang lổ trên mặt đất những vũng máu đã khô cứng. Tiếng chim lợn ăn đêm đến hồi về tổ cất lên từng hồi não ruột. Tiếng chuông chùa PHỔ AM vẫn thong thả ngân vang báo đã qua giờ sửu sang giờ dần. Trời rạng sáng. TỪ LỘ cùng đám gia nhân mệt nhoài bơ phờ trở về. Nước mắt đã khô hoen trên má chàng trai. Đừng trước bàn thờ, TỪ LỘ đốt ba nén hương. Chàng quỳ xuống dập đầu khấn cha, những tiếng khô khốc bật ra từ cổ họng: - Lạy cha… Hồn cha có thiêng xin ứng nghiệm. Xin cha hiể linh cho con trai cha biết tên kẻ lòng lang dạ sói. Con xin nguyện bỏ hết đèn sách công danh sự nghiệp, nếm mật nằm gai để trả thù này… \ Một cơn gió lạnh buốt thổi thốc vào nhà. TỪ LỘ sởn da gà. Ba nén hương chàng thắp bỗng cháy bùng như ba cây đuốc đỏ. Chiếc lư trầm cổ kính thoắt đen xám lại như một lời nguyền. Mọi người trong nhà rởn tóc gáy. Trời sáng hẳn. Những tia nắng đầu tiên của một ngày xuyên quá ánh sáng vàng vọt của những cây đèn lồng cuối cùng còn lại trong kinh thành. TỪ LỘ đứng lên. Mẹ chàng nhợt nhạt nằm thoi thóp thở trên giường. Người thầy thuốc giỏi nhất kinh thành đã được mời đến. Ông ta vén tay áo, bắt mạch cho mẹ chàng bằng những ngón tay dài xương xẩu. Giọng người thầy thuốc luận bệnh nghe đều đều buồn nản bên tai TỪ LỘ: - Bệnh của phu nhân do uất khí mà thành. Uất khí ở tâm nghịch lên não khiến tâm thần hôn mê. Bệnh này không nặng mà xũng không nhẹ. Cần uống mươi thang thuốc đề thăm dò. Rồi sau đó tuyd tình thế mà tìm thuốc trị tiếp. May ra mới khỏi được… Tôi không dám đoan chắc có cứu được hay không. Cùng còn là tuỳ thuộc vào vận số của phu nhân… TỪ LỘ nán lại bên gường mẹ, ngắm nhìn mãi gương mặt trắng bệch như sáp của bà. Chàng đau xót nhớ lại, chỉ mới đêm qua mẹ còn tươi đẹp, đường bệ đi lại trong nhà, tự tay sửa soạn bàn thờ, đốt những ngọn đèn lồng cho gia nhân treo, đợi cha chàng về mở lễ Nguyên tiêu. Vậy mà giờ đây… Tai hoạ đổ ập xuống làm tan tác cả một nhà đang ngập tràn hạnh phúc. Quan Tăng đô án là một quan triều đình cai quản hàng nghìn tăng ni, nổi tiếng là chính trực. Cả đời chỉ vì điều thiện. Kẻ nào đã sát hại cha chàng? Nhớ lại lời kể của tên lính hầu sống sót và nhìn những vũng máu đọng trên đất, ruột gan TỪ LỘ như bị một thuốn sắt đỏ xuyên qua. Chàng bật dậy, nhảy lên mình ngựa điên dại phóng khắp kinh thành trong nỗi vô vọng tìm cha. Đã qua hai ngày. Người ngựa, gia nhân nhàTỪ LỘ đều mệt lả. Triều đình cũng đã cử quan quân đi tra xét khắp nơi. Tăm tịch vụ sát hại Tăng đô án TỪ VINH vẫn mù mịt. Khắp kinh thành xôn xao bàn tán về vụ kỳ án. Người ta nói chỉ có bàn tay của quỷ sứ mới có thể giết người một cách tàn bạo mà thần bí như vậy. TỪ LỘ và các quan quân đã thuê dân chài buông lưới khắp các sông hồ để tìm xác TỪ VINH. Vẫn không thấy. TỪ LỘ lại bắt đầu nhen nhóm Hưng Yênvọng cha còn sống. Người có việc gì, ở đâu đó và nay mai lại sẽ trở về với mẹ con chàng… Tảng sáng ngày thứ ba, TỪ thiếp đi sau hai ngày đêm mệt lả vì tìm kiếm. Bỗng mơ màng thấy cha. Khuôn mặt đẫm máu, đôi tròng mắt lồi ra khỏi hốc. Vẻ đau đớn khôn cùng. TỪ vùng dậy gọi "Cha!". Gương mặt chập chờn như gần như xa rồi biến đi sau lối cửa chính. TỪ bàng hoàng tỉnh dậy, chạy theo. Chợt nghe tiếng chân thậm thịch ngoài đường cái. Tiếng người xôn xao gọi nhau đổ về phía bờ sông Tô. Không hiểu sao, đôi chân đưa TỪ như lướt qua dòng người đang chạy. Tới nơi, TỪ đã thấy người kín đặc hai bên bờ. Giữa dòng sông Tô, xác một ai đó nổi lên từ lúc nào, nằm sấp, đang từ từ trôi ngược dòng về phía cầu QUYẾT. Năm chiếc thuyền chài, mỗi chiếc có ba tên lính đang gắng sức chèo thuyền lại gần, quăng câu liêm, vàng lưới để vớt xác lên. Nhưng mỗi khi có thuyền đến gần thì xác người lại dướn bứt hẳn, lao vùn vụt lên phía trước. Cả những chiếc thuyền và đoàn người chạy dọc hai bên bờ sông Tô chỉ còn cách hớt hải chạy theo đường trôi của xác người. Mặt ai nấy đều lộ vẻ kinh hoàng, nhưng vẫn chạy theo như có một sức hút vô hình đang cuốn đi. TỪ cũng vậy. Chàng chạy chân đất băng băng theo cái thây trôi ngược. Chân dẫm gai mảnh sành tướp máu cũng không hay. Vượt qua một khúc quanh, thây người và những kẻ vớt xác đã đến chân cầu QUYẾT. Từ dưới sông, đã nhìn thấy ngôi lầu nguy nga của nhà quan Diên Thành hầu in bóng trên mặt sông. Như có một sức mạnh phi thường đẩy từ bên dưới, thây người vụt rướn ngược lên, gấp gáp. Khi vừa chạm vào bóng toà lầu của Diên Thành hầu đang soi bóng xuống nước, xác người bỗng dựng đứng dậy. Búi tóc xoả tung bết nước quấn quanh hình hài một người đàn ông đẫy đà trong bộ quan phục sũng nước. "Tăng đô án TỪ VINH". Dòng người ken kín hai bên bờ sông TÔ cùng sửng sốt kêu thất thanh. TỪ LỘ bủn rủn chân tay. Chàng đổ sụp xuống. Rồi cố bíu vào vai mấy người đứng quanh để nhoài ra nhìn cho rõ. Thây người vừa dựng đứng dậy trên sông chính là Tăng đô án TỪ VINH. Cha chàng. Đôi tròng gần như bật ra khỏi hốc mắt. Từ trong hai hốc mắt sâu hoắm những giọt máu tươi ứa ra chảy loang tran đỏ nước sông Tô. Và cái xác của Tăng đô án TỪ VINH không trôi nữa, sừng sững đứng thẳng trên mặt nước, cánh tay cứng đờ giơ cao chỉ đúng cổng nhà Diên Thành hầu. Đám đông hai bên bờ sống Tô đồng loạt rú lên kinh hoảng khiến đàn có trắng vốn thường ngày đậu trĩu nặng trên rặng tre bên sông hốt hoảng vụt bay, để rớt xuống mặt sông những tiếng kêu xao xác như tiếng hú khóc. Đang giữa trưa mà gà trong sân các nhà bên sông táo tác gáy. Chó trong vùng thảng thốt tru lên từng hồi dài không dứt. Trong nhà Diên Thành hâu đang như ông vỡ tổ. Tên gia nhân vừa mở cổng, nhìn thấy thây người dựng đứng ngay trước mặt, tay chỉ thẳng vào nhà thì gã quị xuống. Gắng gượng mãi nó mới lết vào được bên trong để cấp báo. Diên Thành hầu đang ngồi uống rượu với pháp sư ĐẠI ĐIÊN trên lầu cao. Chung quanh mâm là mấy cô nàng hầu nỉ non hát. Nghe tin cấp báo, Diên Thành hầu quát: - Loạn ngôn! Rồi gạt cô hầu non kề bên, Hầu xốc ấo bước ra cửa lầu nhìn xuống. Lập tức Diên Thành hầu nhìn thấy thấy người dựng đứng trên mắt sông dưới cửa lầu. Thây người đó đang ngước khuôn mặt đầm máu và hai hốc mắt sâu hoắm trừng trừng, chỉ thẳng tay vào mặt ông ta. Buông chén rượu trong tay, thet một tiếng khiếp hoảng, Diên Thành hầu lùi lại ngã ngồi xuống bậc thềm. Pháp sư Đại Điên vẫn thản nhiên gà gật bên mâm. Một cô người hầu chuố rượu. Cô khác dùng đũa ngọc gắp từng miếng yến sào cua biên đưa tận miệng pháp sư. Pháp sư khoảng trên năm mươi tuổi, vóc người mập mạp, dưới hai vành lông mày rậm rạp, đôi mắt nửa khép nửa mở. Khi khép như mắt mèo ngái ngủ. Khi mở thì trừng trừng dữ dội như cọp đói. Tròng con ngươi thoáng oáng đỏ. Cái nhìn của pháp sư bao giờ cũng ngước lên cao. Lủng lẳng trước ngực áo choàng rộng màu già là một quả bầu khô đựng rượu vẽ hình bát quái. Cây thiền trượng tạc hình con mãng xà hai đầu há miệng đỏ lòm trên đoạn tay cầm. Diên Thầnh hầu gạt cô hầu non, bò lết vào. Đại Điên mở mắt. Chỉ thấy Diên Thành hầu líu lưỡi, tay cuống cuồng chỉ ra phái giữa sông: - Pháp sư… Nó…Nó… - Hả? - Nó… Nó…! Đại Điên đủng dỉnh đứng dậy bước ra. Trên sông Tô, đám gia nhân nhà Diên Thành hầu đã phần nào lấy lại hồn vía, đang dùng gậy dùng sào hoặc câu liêm đứng ở bên bờ cố sức đẩy cho thây người đổ xuống. Nhưng thây TỪ VINH vẫn đứng trơ trơ. Chung quanh thây người và cả một đoạn sông Tô, oán khí ngùn ngụt bốc lên thành một đám mây đen đặc vần vu che mờ cả mặt trời. Và gương mặt đẫm máu của thây người càng nổi bật, càng lúc càng tưởng như sáp gần lại mỗi mặt người đứng trên bờ. Từ trên lầu, Đại Điên nhìn thấy tất cả. Không một thớ thịt chuyển động trên mặt pháp sư. Càng lúc, Diên Thành hầu càng cảm thấy gương mặt đẫm máu của TỪ VINH với đôi môi mím chặt và tròng mắt lồi ra như sắp chạm vào mặt ông ta. Sóng sông Tô dồi lên hung bạo. Và cái thây của TỪ VINH càng lúc càng chuyển độ như muốn áp lên tận mặt Diên Thành hầu. Ruột gan Diên Thành hầu tưởng như tuột xuống chân. Ông chới với về phía Đại Điên lắp bắp: - Pháp sư…! Chẳng lẽ… pháp thuật của ngài… Đại Điên nhìn xuống Diên Thành hầu bằng cặp mắt mèo ngủ, khinh miệt: - Ta xong việc đã ba ngày… Còn bay giờ là chuyện của hầu… Ngiệt dĩ…! Ngiệt dĩ…! Diên Thành hầu ôm đầu rên rỉ: - Vàng ròng sư phụ đã nhận. Không phải chỉ để lấy hồn. Phải lấy cả xác hắn…! - Giọng pháp sư ĐẠI ĐIÊN vẫn rè rè như cô hồn: - Pháp thuật chỉ diệt được nhân thân chứ không diệt được nghiệt dĩ! Diên Thành hầu quì sụp, mấy ngón tay quặp vào gấu áo màu già cáu bẩn của ĐẠI ĐIÊN: - Sư phụ… Xin gia ân… Kẻ này làm sao sống được trước cái thây dựng ngược kia…! Lúc đó ĐẠI ĐIÊN mới đủng đỉnh quài tay với cây thiền trượng dựng phía sau, tay kia nâng quả bầu âm dương dốc ngược lên. Trong khi cây thiền trượng trong tay ĐẠI ĐIÊN phóng vụt vào ngực cái thây đứng trên sông, miệng pháp sư lầm rầm niệm chú. Cặp mắt cọp đói ngước lên nhìn trời. Bỗng từ miệng quả cầu âm dương, một luồng khí hôi thối xanh lẹt như một chùm rắn lục bao phủ lấy vầng oán khí màu dden đang vần vũ trên sông. Một tiếng sét nổ giữa trời khiến Diên Thành hầu giật mình, hai tay bịt chặt tai. Khi Diên Thành hầu mở mắt ra thì đám hắc khí đã tan biến. Thây của TỪ VINH lảo đảo, và cây thiền trượng đã trở lại trong tay ĐẠI ĐIÊN, để lại trên ngực TỪ VINH một lỗ bầm máu. Nhưng cái thây chỉ lảo đảo chứ không chịu đổ hẳn, không chịu trôi đi. Cặp mắt lồ của TỪ VINH càng hoăm hoắm xoáy sâu vào Diên Thành hầu và ĐẠI ĐIÊN. Đám người đứng hai bên bờ sông Tô rú lên. Từ lúc nhìn rõ mặt cha, TỪ LỘ như không còn tri giác. Chàng đứng trân trân nhìn xác cha sừng sừng giữa dòng mà chỉ tay vào Diên Thành hầu. Chàng nhìn thấy Diên Thành hầu, pháp sư ĐẠI ĐIÊN, lập tức hiểu ra nguyên do cái chết tức tưởi của cha. Khi cây thiền trượng trong tay ĐẠI ĐIÊN phóng thẳng vào ngực cha, TỪ LỘ sực tỉnh. Chàng thét lên một tiếng khủng khiếp và lao xuống sông. Nhưng sự căng thẳng trong ba ngày qua khiến TỪ LỘ bất tỉnh ngay khi vừa chạm mặt sông Tô. Khi đó cái thây của TỪ VINH chợt hơi xoay nghiêng, hướng về phía con trai ông. Nhưng tức khắ, mấy ngón tay dữ dội ấy lại xoay ngang chỉ thẳng vào nhà Diên Thành hầu. Đám quân lính trên thuyền chài mau mắn kéo được TỪ LỘ lên bờ. Mọi người xáo xác tìm kiếm xung quanh. Cuối cùng mới lô lên được một thằng bé tám, chín tuổi. Một người nhanh tay kéo tụt cái khố trật khỏi mông thằng bé. Thằng bé giảy giụa, khóc thét. Mặc. Ba bốn bàn tay thay nhau phát mạnh vào cái mông bé nhỏ. Thẳng bé ưỡn người. Dòng nước đái trẻ con vọt ra xói thẳng vào miệng TỪ LỘ đang nằm bằn bặt dưới đất vừa được những bàn tay khác hè nhau cạy mở… TỪ LỘ dần mở mắt. Và cái điều mà TỪ LỘ nhìn thấy đầu tiên là hai hốc mắt sâu thẳm của cha đang hướng về phía chàng. Và khi nhận được nhỡn quang của TỪ LỘ, hai hốc mắt mắt đó chợt có anh sáng loé như anh chớp. TỪ LỘ lẩy bẩy trỗi dậy trên đám bùn lướt mướt những đám cỏ gai cỏ chỉ và nước tiêu trẻ con. Chàng chắp hai tay vái về phía thây cha, vái trời, vái đất. Những âm thanh phát ra từ cổ họng Từ, rít chặt lại: - Lạy cha…! Kiếp này không phải của con. Con chỉ sống để trả oán này…! Xin trời đất cao dầy chứng giám…! TỪ khấn ba lần. Đến lần thứ ba, trên mặt sông, thây TỪ VINH khẽ rung động. Và bất chợt cái thây dựng lên một lần cuối cùng, chạm mặt Diên Thành hầu trên lầu, rồi từ từ đổ, nằm xuống mặt sông. Đôi con ngươi trở lại nằm trong hốc mắt. Mắt khép. Và TỪ VINH trôi ngược trở lại, xuông dòng nước. * **
Chương 3 CÔNG ĐƯỜNG Khi gương mặt trắng bệch của TỪ VINH dựng ngược lên mặt sông, ập vào mặt Diên Thành hầu khiến ông ta cất tiếng rú hoảng loạn, TỪ VINH phu nhân đang mê man bất tỉnh bổng bật dậy. Bà vươn cánh tay ra khoảng không, cặp mắt hoang dại rõi về phía cửa chính, gọi thảm thiết: “TỪ CÔNG…! TỪ CÔNG…!”. Vẫn vươn tay, bà đi thẳng ra cửa, mắt vẫn hương xa xăm. Đám người hầu sợ mất vía mà không dám gọi. TỪ VINH phu nhân lùi lũi đi. Cho đến khi trán đập vào cánh cổng gỗ lim, máu chảy loang mặt, bà quay nhìn ngơ ngác như sực tỉnh cơn mơ. Bất chợt, bà trở vào nhà, đĩnh đạc vẫn tóc, đòi gia nhân đưa cơm nước tới. Bà lặng lẽ ăn hết một mạch ba bát canh sâm. Rửa tay bằng nước thơm, bà đứng dậy mở tủ chọn bô xiêm y đẹp nhất đã mặc trong ngày cưới, vận vào người. Đánh phấn thoa son xong, cẩn thận cất chiếc tráp khảm trai vào tủ, ngắm mình giây lâu trong mặt gương đồng, khẽ bật lên một tiếng cười sắc lạnh, bà thoăn thoắt đi lại trong mấy gian nhà rộng, như chưa hề hôn mê bất tỉnh ba ngày trên giường. TỪ LỘ không biết mình đã về đến nhà bằng cách nào. Toàn thân tê dại, bê bết bùn đất, mặt nhợt nhạt vì mệt nhọc, chất chứa uất hận. Chàng đi vào nhà nửa mê nửa tỉnh. Mãi đến lúc chạm mặt cô hầu gái của TỪ phu nhân đang rối rít chạy, TỪ mới sực nhớ rằng mẹ chàng còn đang hôn mê trên giường. Trong lònh chàng nhói lên nỗi xót xa ân hận rằng mình vô tình, bất hiếu, đã không chầu chực bên gối mẹ trong cơn nguy kịch. TỪ hoảng hốt chạy tới vén bức trướng che giường mẹ. Giường trống không. Mẹ đã có mệnh hệ gì rồi ư? Hay bà đã bị bắt đi bởi quỷ kế của Diên Thành hầu? TỪ cuống cuồng cất tiếng gọi mẹ. Tiếng gọi tuyệt vọng của chàng vang lên, đập vào những bức tường hoang lạnh, dội lại. Chàng hối hả chạy trong ngôi nhà hun hút sâu, tìm khắp cả ngoài sảnh và mấy gian từ đường, cả dưới những khóm trúc, vẫn không thấy. Kiệt sức, tuyệt vọng, TỪ ngã xuống nền nhà, hai tay ôm mặt, bỗng nghe tiếng gọi lanh lảnh “TỪ con…”. Giật mình ngẩng mặt lên, thì thấy một người đàn bà gầy guộc, gương mặt quý phái hốc hác, vận bộ xiêm áo ngày cưới may bằng vóc màu hồng có đính kim tuyến, dáng đi như lướt trong cảnh tranh tối tranh sáng đang tiến về phía chàng. Theo sau bà, đám gia nhân ríu rít lo lắng. TỪ thất kinh khi nhìn thấy gương mặt của mẹ dưới vành khăn cưới. Đau khổ quá, mẹ chàng đã phát điên rồi chăng? Chàng rợn cả tóc gáy, không rõ mơ hay thực. Mẹ chàng cũng đã đi theo cha và oan hồn của bà đang hiện về kia? TỪ LỘ đang ngơ ngác thì mẹ chàng nhoẻn miệng cười nói tiếp: - … TỪ… con!... Cha con đang đứng bên cửa điện thứ ba của Diêm vương. Ông đang đợi ngày ẹj con ta trả được oán này. Hồn oan ức đói rét ở ngoài cửa điện. Đêm ngày chầu chực… TỪ nức nở: - Vâng, thưa mẹ, cha con chết oan bởi ĐẠI ĐIỆN và Diên Thành hầu… Mẹ chàng giơ một ngón tay lên trời: - Ta biết. Hồn cha con về dẫn ta đi. Ta vừa trôi trên sông cùng cha con. Nước sông Tô lạnh lắm. Đêm nay cha con không ngủ. TỪ chắp hai tay: - Con xin mẹ! Mời mẹ vào nằm nghỉ. Đã có con lo chu toàn mọi việc. Phu nhân vẫn tiếp tục: - Cha con đêm nay mắt không nhắm, chồn chân mỏi gối chầu bên cửa điện Diêm vương. Mỗi canh giờ lại nghe một trăm hai mươi ba lần tiếng rú của những người bị tra tấn dưới ngục A tỳ. Ngắm bảy lần rừng đao, bảy lần rừng kiếm lạnh như rắn mà đau cả ruột gan. Nhìn thấy mười tám cái vạc đồng nấu người mà chịu dầu sôi rót vào ngực… TỪ quỳ xuống, đưa hai tay đỡ mẹ: - Mẹ!... Xin mẹ hãy tỉnh lại. Con đau ruột lắm rồi! Mắt phu nhân vãn hướng vào khoảng không. Những ngọn lửa cuồng dại nhảy nhót trong mắt bà: - Kia là cha con đang đếm, mắt sắp vuột ra khỏi mí. Này địa ngục Hàn băng. Này địa ngục Hắc ám. Địa ngục Kiếm luân. Địa ngục Tiêu nhiệt. Địa ngục hoả xa. Địa ngục Phí sì. Địa ngục Lạm thang… Kìa địa ngục Hôi hà. Địa ngục Kiếm luân. Địa ngục Thiết sang. Kìa Đồng trụ, này Thiết luân, Thiết quật, Thiết hoàn, Tiêm Thạch, Ẩm đồng… Cha con đợi ngày những kẻ giết cha con bị đày vào đó tám trăm năm… Bà bất chợt quay quắt, đổ vào người TỪ LỘ, những ngón tay bấu chặt vai con, hổn hển: - Đến khi oan khuất được minh bạch thì mới lên cõi Phật. Nếu không, phải xuống địa ngục làm mồi cho ngạ quỷ… Hai bàn tay gầy mảnh của TỪ VINH phu nhân, nghiến vào vai đau nhói. Sức mạnh mù quáng nào đó đã nhập vào tay bà. TỪ đau đến chảy nước mắt, cố sức gỡ tay mẹ: - Mẹ! Con lo việc trả thù cho cha. Xin hãy bình tâm lại! Phu nhân bỗng ghé sát mặt cậu con trai, đăm đăm nhìn xói vào mắt, rồi phá lên cười, vồ lấy vạt áo cưới, lau lên mặt TỪ: - Con trai ta! Con trai của ta và TỪ công. TỪ van vỉ: - Mẹ! Cha đã mất rồi. Con chỉ có mẹ. Xin mẹ bình tâm, giữ gìn ngọc thể, con mới được phận nhờ… Phu nhân oà khóc. Nước mắt bà rơi từng giọt nóng bỏng xuống vai TỪ LỘ: - TỪ LỘ con! Người ta đi đầy đường kia. Người ta không đi xem đèn, mà đi xem thi thể của cha con trôi ngược trên sông. Ông lìa bỏ mẹ, đi rồi.! Mẹ giữ lại không được. Hồn ông còn bận chầu chực bên cửa địa ngục. Người ta đi xem cha con chết. Nhưng mẹ không đi xem. Mẹ mặc áo cưới. Mẹ đứng ra đây cho cha con tỏ, để ông biết dù âm dương cách biệt, ta và cha con vẫn sắt son. Ta sẽ làm lại đám cưới cùng ông trước cửa điện Diêm vương. TỪ vén tay áo lau nước mắt cho mẹ: - Được rồi, được rồi, mẹ! Cha con dù mất đi, vong hồn của người vẫn không lìa xa chúng ta… Mặt TỪ VINH phu nhân tươi lên. Đã có chút sinh khí: - Vong hồn cha con phải được an ủi… TỪ LỘ! Thân mệnh của ta và con không phải của riêng chúng ta, mà của cha con… Nay thân xác ở lại mà hồn ta đã đi cùng cha con…! TỪ LỘ quỳ sụp xuống: - Xin mẹ bình tâm. Giữ gìn ngọc thể. Thần này từ nay có sống teen đời cũng chỉ là để trả thù cha và đền bồi ơn sinh thành của mẹ mà thôi. Ngay ngày mai con sẽ tìm diệt Diên Thành hầu và Đại Điên… TỪ VINH phu nhân đau đớn nhìn lướt từ đầu xuống chân con trai. Bà giơ một bàn tay trắng muốt nổi đầy gân xanh tím, mười móng tay dài cong vút mấy ngày không đước chải chuốt đã trở nên khô xác, nghiêm sắc mặt: - Cạn nghĩ rồi. Nước còn có minh quân, còn có triều chính. Đức hoàng đế chi tôn đã đặt ra chin bậc phẩm quan tước. U tối chỗ này nhưng sang láng ở chỗ khác. Lại còn đèn trời soi tỏ ở trên. - Thưa mẹ, đèn trời không phải lúc nào cũng sang. Nếu sang, những kẻ như Diên Thành hầu đã không còn có ở trên đời này. Giọng TỪ phu nhân bổng dưng sang sảng: - Bình thường con quen đọc sách, chơi cờ, thổi sao, sức vóc học trò sao địch nổi thủ đoạn của lũ ác tặc. Để tỏ oan cho cha, trừng trị lũ mặt người da thú, không gì bằng mẹ con ta kiện lên Đô hộ phủ ngục tụng, nhờ quan Đô hộ tra xét rõ sự việc, buộc kẻ gieo ác phải bị trừng trị dưới lưỡi gươm công lý của đức hoàng đế. Như vậy mới giải được tận gốc nỗi oán thù này… TỪ LỘ ngập ngừng: - Thưa mẹ, Diên Thành hầu thế thức chất ngất chùm thiên hạ. - Con thật hồ đồ…! Đức hoàng đế là bậc minh quân. Người từng phá Tống bình Chiêm, định ra thi thư lễ nhạc, mở QUỐC TỬ GIÁM… Cớ chi một chuyện này ngượi lại có thể không tra xét tỏ tường?… “Thượng bất chính hạ tắc loạn”. Hẳn đức hoàng đế chí tôn hiểu hơn ai hết! Nghe mẹ nói, TỪ LỘ chợt cất được gánh nặng. Phải rồi, nước NAM ta từ thời ÂU LẠC, qua ngàn năm bắc thuộc, trải nhiều đời vua phải chịu hẩm hiu trong tước GIAO CHỈ QUẬN VƯƠNG mà các hoàng đế TRUNG HOA gia ân. Nay đương kim hoàng thượng lập nhiều võ công hiển hách. Nam, bắt vua CHIÊM CHẾ CỦ, thu phục CHIÊM THÀNH, mở mang bở cõi. Bắc, đem mười vạn quân phá TỐNG khiến triều đình bắc phương phải khiếp hãi, cắn răng ngậm nhục mà tấn phong Người tước NAM BÌNH VƯƠNG. Việv nông tang trong nước lựa bề sửa sang, dạy dân đắp đê CƠ XÁ giữ cho đất kinh thành khỏi nạn ngập lụt. Về trí đạo dung lối khuyến dụ, mở khoa thi năm ẤT MÃO chọn kẻ hiền tài đặt lên ngôi vị chăn dân. Năm BÍNH THÌN xuống chiếu cầu lời nói thẳng, chọn người vào QUỐC TỬ GIÁM. Năm BÍNH THÌN chọn người vào Hàn lâm viện, khởi sự Nho học để giáo hoá chúng dân. Năm KỶ TỴ định quan chế, chia phẩm bậc ngăn nắp, dẫu rằng mô phỏng theo lối triều đình nhà Tống, nhưng có công lớn trong việc khai hoá văn hiến nước nhà. Lại biết dung những bậc siêu quần như Thái sư LÝ ĐẠO THÀNH, Thái uý LÝ THƯỜNG KIỆT… làm rạng rỡ nghiệp nước. Một nahfvô đạo như Diên Thành hầu nay còn được dung dưỡng chẳng qua là bởi Đức hoàng thượng chưa tường tận, chưa rảnh tay cứu xét, trừng trị kẻ ác mà thôi. TỪ LỘ vội vào thư phòng của cha, lấy nghiên mực ngọc thạch có khắc hai chữ “Quần sư” để lại từ thời ông nội chàng, một vị túc nho uyên bác, từng có hang trăm học trò đến quỳ gối trước ngưỡng cửa thỉnh giáo. Chàng vén tay áo cầm cây bút long “Cảo di”. Và cái chết oan khuất đau đớn của cha chàng trào ra theo ngọn bút, phủ kín tấm lụa bạch. Khi treo miếng lụa lên trước gió để ráo mực, TỪ LỘ giật mình. Trước anh sang nhập nhoạng buổi chiều, trông nghiêng nét mực hăng hăng đỏ như màu máu khô. * ** Đô hộ phủ ngục tụng TRẪN DĨNH ra công đường. Ngài vừa nhậm chức thay người tiền nhiệm tên là PHỤ QUỐC, người Ái châu, vừa bị biếm. PHỤ QUỐC vốn xuất thân con nhà nghèo, thuở thiếu thời làm nghề chài lưới trên sông Mã, từng dũng mãnh bắt được kẻ cướp cá ở chợ giao cho nhà chức trách. Lớn lên xung quân, nổi tiếng gan dạ. Đóng khố cởi trần bôi nhựa cây vào người, cầm đục lặn xuống đục thủng thuyền giặc. Lập công hiển hách trong cuộc chiến phá TỐNG trên sông NHƯ NGUYỆT, PHỤ QUỐC được vua yêu vì. Đến khi ông ta bị thương hỏng một mắt, không thể tham gia chiến trận, vua bèn cắt nhắc vào chức Đô hộ phủ ngục tụng, mong ông ta lấy cái dũng khí trong chiến trận ngày trước, đem vào việc minh định rõ những vụ oan án, ngõ hầu yên dân. Ngày đầu tiên nhậm chức, trông thấy công đường với chiếc án thư sơn son thiếp vàng sang chói, hàng đống giấy tờ sách vở chất ngất, quân lính cầm giáo đứng canh hang lối nghiêm ngặt, PHỤ QUỐC hoảng sợ, quỳ xuống lạy như tế sao: - Tâu bệ hạ, con vốn ít chữ, chỉ quen nghề chài lưới trên sông. Hỏi khúc sông nào có cá thì con biết, chứ hỏi con ở đâu có oan án thì con làm sao biết? Nay bệ hạ muốn thưởng công cho con, xin người cứ cho cấm hẳn một khúc sông cho con, kẻ khác không được chài lưới trên khúc sông đó, thế là may phúc cho con lắm! Vua nghe, cả cười, mà rằng: - Cái thằng PHỤ QUỐC này mới thật thà làm sao! Ta yêu chính cái ngây ngô của ngươi đó. Cứ vững dạ làm Đô hộ phủ ngục tụng. Chuyên tra xét các án đã có bọn tay chân giúp. Lũ mọt sách đó học hành bao nhiêu năm là để cho ngươi sai phái đó. Ta cần có một kẻ thật thà dũng mãnh như ngươi, để bọn cường hào ấc bá, bọn quý tộc trong triều không thể cậy quyền cậy thế lo lót làm loạn phép nước. Phép nước đã loạn, ta làm sao giữ được sự nghiệp của Tiên đế? PHỤ QUỐC càng hoảng sợ: - Tâu hoàng thượng, con chỉ mê thích những khúc sông lắm cá. Thường nhật, nhìn qua màu sông hồ cũng cso thể nói ngay nơi nào nông hơn nơi nào, lắm cá ngão hay cá chép. Nay hoàng thượng buộc con phải kề cận bọn mọt sách, hai bên vốn chẳng ưa nhau, chẳng qua chỉ làm cho con them khó xử trước chúng mà thôi. Vua càng cả cười, càng lúc càng tỏ ra vui thích: - Ngươi nên nhớ, khi ngươi là kẻ bề trên, lệnh của ngươi là tối thượng. Kẻ nào bất tuân thượng lệnh, nhẹ thì roi gậy, nặng có thể chém đầu, cứ theo hình luật mà giữ phép nước. Đã thế, làm gì có kẻ mọt sách nào dám lấy vài bồ chữ mà giỡn cợt ngươi. Ta cất nhắc ngươi không phải chỉ do yêu vì ngươi. Đã có hai tên quan tiền nhiệm trước bị biếm truất làm thứ dân do nhạn vàng của một gã phú hào để chuyển từ án giết người sang tha bổng rồi đổ tội cho kẻ khác. Than ôi! Trị nước khó thay. Ta có vô số những chiến binh dũng mãnh, sẵn sang xông pha nơi chiến trường, đứng trước hiểm hoạ da ngựa bọc thây chẳng từ nan. Vậy mà tìm được một kẻ làm chức Đô hộ phủ ngục tụng sao khó đến vậy! Thế là PHỤ QUỐC nhậm chức Đô hộ phủ ngục tụng. Những ngày đầu, ông ta buồn chán, thường chốn ra bờ sống CÁI ngắm những ngư dân buống chèo thả lưới cho đỡ nhớ nghề, lắm khi nước mắt chảy ròng trên má. Bọn thư lại thường phải đi tìm, lựa lời khuyên giải. Được ba tháng, PHỤ QUỐC không ra sông nữa, dần quen công việc, quen với chiếc án thư sơn son thiếp vàng và biết sai bảo lính tráng, kẻ hầu người hạ. Tại chức được hai năm, PHỤ QUỐC có ba trăm mẫu ruộng tốt. Được bốn năm, ông ta thay ngôi nhà đang ở bằng một biệt lâu lộng lẫy, có nào nước cắm chông bao quanh, có quân lính tua tủa đứng gác. Lối dẫn vào biệt lâu là một chiếc cầu ghép bằng đá hoa cương màu đỏ. Trong nhà, tầng trên nuôi con hát, tầng hầm nhốt những kẻ tội đồ. Đám lính canh có đứa nhẹ miệng kể rằng, ban ngày, trước cửa của quan Đô hộ phủ nườm nượp kẻ nghèo hèn áo vá đến kêu oan. Kêu thì có kêu nhưng oan thì không thấy giải được. Quan đô hộ chưa nghe tâu bày đã quát tháo. Có kẻ yếu bong vía sợ vợ mật mà chết. Kẻ nào khôn ngoan hơn muốn mau được xét đơn, phải ngầm đút lót cho lũ thư lại. Những kẻ có máu mặt thì không đến ban ngày. Đêm đêm, ngựa xe nườm nượp đến viếng thăm biệt lâu. Chủ nhà ngồi xổm, mười ngón chân như mõng chân con gà đang đậu trên cành, quặp lấy chiếc đêm da cáo trên chiếc kỷ cần vàng trong nhà, ngeh tiếng chân bước chân trên cầu đá mà định lễ đón khách. Khách, trước khi đến, đã tìm biết tường tận sở thích của chủ. Trong nhiều món lễ vật, nhất thiết phải có gà chọi thiện chiến. Một đôi gà chọi thiện chiến có thể ân giảm được một năm tù cho người thân của khách. Trong ba năm PHỤ QUỐC làm Đô hộ phủ ngục tụng, giá gà chọi trong kinh thành tăng vọt. Ông ta kén tới mười kẻ thạo việc chuyên chăm sóc và luyện gà chọi sao cho mỗi trận chọi nhau là một cuộc huyết chiến. Khách đến nhờ cậy thường lấy ớ đến xem chọi gà, ở lại với gia chủ, lặng lẽ đặt vào chiếc đĩa vàng của ông một hạt trân châu hoặc một vài thoi vàng. Hôm nào gà chọi hay, chủ nhà cao hứng bày tiệc thiết khách, cho con hát máu may uốn lượn làm trò vui. Khách cao hứng, có thể chọn con hát mà ngủ lại, biết là biết điều lặng lẽ để lại thêm lễ vật vào chiếc đĩa vàng. Nhưng hôm nào gà chọi dở, PHỤ QUỐC tức giận gầm thét, hồng hộc lao xuống tầng hầm nhốt những kẻ trị tội, trở ngược cán giáo đánh đến nát lưng cho hà giận. Đôi khi, xác những kẻ xấu số được ngầm đưa ra quẳng xuống sống CÁI vào lúc nửa đêm để phi tang. Việc PHỤ QUỐC có nhà nuôi con hát, chuống lớn nuôi gà trọi, cả thiên hạ đồn thổi, nhiều quan lại trong chiều biết, trong long tức giận nhưng biết vua yêu vì PHỤ QUỐC nên không dám tố giác. PHỤ QUỐC thả sức ăn chơi, giàu có ức vạn, mỗi khi tra xét một vụ oan án thì lại gieo tiếp những oan án khác. Nếu không vì một kẻ thuộc hạ, vốn được PHỤ QUỐC giao trông coi tầng hầm nhốt người, do bị chủ phạt đánh đòn mà chạy ra tố cáo với Thái sư LÝ ĐẠO THÀNH, PHỤ QUỐC sẽ vẫn được yên lành. LÝ ĐẠO THÀNH nghe, thất kinh mà nói “Ta đã đoan chắc rằng gã đánh cá này không đảm đương nổi. Nhưng lại đổ đốn đến mức này ư?”. LÝ ĐẠO THÀNH cải trang đi dò biết thực hư, rồi cấp cấp vào triều tâu vua: - Bệ hạ! Đánh trận có thể chỉ cần dũng mãnh. Nhưng việc tra xét án đồ, định danh tội trạng thì phải là những kẻ có học, có liêm chính. Viên tướng lập công trong trận mạc năm xưa, bây giờ tối tăm mặt mũi với uy quyền, đã trở thành yêu quái. Nếu bệ hạ không mau ra tay trừng phạt, e rằng nghiệp lớn của nhà LÝ ta sẽ bị lung lay vì những kẻ càn rỡ như PHỤ QUỐC… Vua cau mày, tỏ vẻ không thích nhưng biết nghe lời phải của Thái sư. Sáng hôm sau liền dẫn một đoàn tuỳ tùng đến biệt lau tra xét, thấy cái lầu nuôi con hát và cái chuồng chạm trổ bằng gỗ lim nhốt tới vài trăm con gà trọi thì đùng đùng nổi giận, cho đập phá biệt lâu, thả hết chọi, thích chữ vào mặt các con hát và thả về các lầu xanh. PHỤ QUỐC bị biếm truất đi làm lính canh áp giải những kẻ tội đồ bị đày lên châu QUẢNG YÊN. Cái hoạ bất ngờ của người tiền nhiệm lại khiến TRẦN ĐĨNH được thăng trật trước niên hạn, được chuyển về nội kinh. Vốn dòng dõi thi thư nho nhã, TRẦN ĐĨNH đã đọc nhiều sách, tốn nhiều bút mực viết những áng hùng văn nhiệt huyết bàn luận về cái đức và hành xử của bậc chính nhân quân tử. Khi đương chức tại hạt HẢI DƯƠNG, ông từng thẳng tay trừng trị những kẻ cường hào ác bá cậy quyền cậy thế áp bức dân lành. Nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, TRẦN ĐĨNH được bệ rồng biết đến và được vời về kinh nhâm chức Đô hộ phủ ngục tụng vừa khuyết. TRẦN DĨNH cho rằng đó là một cách đấng chí tôn tưởng thưởng cho sự trung chính của ông. Khi được vua vời vào triều để ban chức, TRẦN DĨNH vô cùng phấn chấn, ngửa mặt lên trời xanh: - Thân này xin được trọn đời làm khuyển mã, mong lấy gan óc lầy đất để trả lại sự công bằng cho đám lệ dân. Nghỉ ngơi vài ngày, thu xếp chỗ cư ngụ cho tư gia, TRẦN DĨNH ra công đường. Trên chiếc án thư, một chồng đơn chất ngất phủ bụi, cao ngang mày đang náu mình chờ ngài tự bao giờ. Ngài cau trán. Chẳng lẽ ở chốn gần mặt trời mà có nhiều nỗi uẩn khúc oan khiên thế này? Ngài lướt đôi mắt sắc sảo ra cửa quan. Một dãy người đứng ngồi lổm ngổm, đa phần là quần nâu áo cộc tím tái trong tiết trời ẩm lạnh và cơn mưa phùn lay phảy của độ lập xuân. Chỉ còn thấy cặp mắt quầng thâm tụt vào trong hốc mắt trên những gương mặt xanh xao má hóp đang khắc khoải nhìn vào chốn công đường. Quan Đô hộ phủ ngục tụng vươn người nhìn cho rõ hơn. Đứng đầu trong đám thứ dân kia lại là một thư sinh. Gương mặt tuấn tú của chàng trai khuất một phần dưới chiếc khăn ngang. Sợi dây chuối thắt ngang lưng áo sô gai. Tay chàng đỡ một người đàn bà. Nhưng kỳ lạ là người đàn bà đầu đội khăn tang mà mình lại mặc áo cưới. Là kẻ điên hay người tỉnh? Đô hộ phủ ngục tụngTRẪN DĨNH lật từng tờ đơn theo thứ tự từ trên xuống, soi tên từng nguyên đơn. Ngài thở dài. Lại vẫn giống như ở hạt HẢI DƯƠNG, chín phần mười số đơn là kiẹn cáo các cường hào các bá quan lại cậy quyền ỷ thế chiếm ruộng cướp trâu cưỡng đoạt con gái nhà lành. Trong vô số những lá đơn, ngài để ý một xấp mười hai lá đơn của cự Tăng đô án TỪ VINH khiếu tố lên đấng cửu trùng về việc Diên Thành hầu cưỡng chiếm hơn hai trăm mẫu đất của nhà chùa và dân vỡ hoang phía bắc hồ DÂM ĐÀM, cận kề ngay cửa ngõ kinh thành. Ngài chú ý thấy ở góc mười hai lá đơn đều có dấu khuyên của cự Đô hộ phủ ngục tụng PHỤ QUỐC với chữ đề “Hồi!”. Quan tân Đô hộ phủ ngục tụng sửng sốt quay hỏi người thư lại: - Nhà ngươi có tường tận vụ này không? Viên thư lại ý tứ: - Dạ bẩm… Xin thượng quan tha tôi… Chẳng lẽ ngài không hay biết gì về cái thây dựng đứng ba ngày đếm trước cửa lầu Diên Thành hầu? - A… ta có nghe. Tăng đô án TỪ VINH là thầy ta. Thầy ta chết tức tưởi… Nhưng có liên quan gì đến việc này. TRẦN DĨNH đặt bàn tay lên trồng án tố giác mang tên cựu Tăng đô án TỪ VINH. Ngài như cảm thấy những nét chữ cứng cỏi của người đã khuất xôn xao dưới bàn tay. - Thưa… Người đã chết thì dẫu có minh oan cũng chỉ để cho giun dế dưới mồ nghe. Xin ngài cẩn trọng. Vợ con cựu Tăng đô án đang đội đơn đứng chờ ngoai kia đã ba ngày nay. TRẦN DĨNH giật nảy người: - Đâu? Tại sao nhà ngươi không nói trước. Mau cho mời vào. Viên thư lại thong thả bước đến trước mặt TỪ LỘ và TỪ VINH phu nhân, khoát tay ra dấu mời vào. TỪ LỘ dìu mẹ vào công đường, chắp tay thi lễ trước mặt tân quan Đô hộ phủ ngục tụng. TRẦN DĨNH lật đật đứng dậy, bước tới đỡ TỪ VINH phu nhân: - Hạ quan từ hạt khác được thánh thượng gia ân cho chuyển về kinh thành nên không hay biết phu nhân và công tử hạ cố tới công đương. Xin thứ cho hạ quan tội thất lễ! Hạ quan xưa là học trò của cố quan Tăng đô án vừa sớm xa chơi nơi cực lạc. Nghĩa thầy trò thieng liêng bền chặt, hạ quan không bao giờ quên… TRẦN DĨNH đưa tay áo thụng gạt nước mắt. TỪ LỘ nhìn quanh. Chàng không ngờ có ngày mình lại phải bước tới chốn này. Chồng đơn cao chất ngất trên chiếc án thư lầm lì giữa công đường và những lính hầu câm lặng mặt sắt lại cùng những đồ nghi vệ sáng choang đủ sức làm khiếp vía bất kỳ kẻ nào không may mắn đã dặt chân đến chốn này. TỪ LỘ nhớ, tại phủ Tăng đô án của cha chàng trước đây, có lần vãn việc, hai cha con từng ngồi trò chuyện. Lúc cao hứng, cha bào chàng tấu vài điệu sáo. Nghe tiếng sao của chàng, có lần ông nói: “Được. Nhưng tiếc rằng thanh âm chưa tròn đầy. Còn chút uỷ mị. Phần âm quá dầy mà phần dương lại mỏng. Con ta gần gắng sức. Xưa nay phàm con người ta yêu thích điều gì thì lượnh mạnh yếu, mỏng dầy của điều đó cũng thường vận vào số phận của kẻ đa đoan…”. Chàng nhớ, lúc đó, khi lời cha vừa dứt, một cơn gió nửa nóng nửa lanhnbỗng từ đâu thổi tới, mang mùi nước hăng tanh của dòng nước tù đọng khiến chàng rùng mình. Chàng hỏi: - Thưa cha! Gần đây, cha có điều gì không vui chăng? Cha chàng cố nở nụ một cười, mép ông hằn những vất nhăn chua chát: - Con ta quả là tinh mắt. Trong những ngày này, ta thấy buồn nản rã rời! TỪ ngạc nhiên: - Vì sao, thưa cha? Cha làm Tăng đô án, cai quản ngàn vạn tăng ni. Đức vua sùng Phật. Cả nước cũng sùng đạo. Cha được trọng vọng, phúc lộc vua ban đủ chi dùng dồi dào… Cha chàng ngắt lời: - Con nói phải. Ta làm Tăng đô án. Kể ra thì đắc thời. Máy chục năm nay, các đế vương triều LÝ ai cũng dốc lòng thờ Phật. Đức Thái tổ xưa, mới lên ngôi hai năm đã cho xây dựng tám chùa ở phủ THIÊN ĐỨC, trùng tu chùa quan ở các lộ, riêng ở kinh sư đã độ cho làm tăng tới cả ngàn người. Tới thời vua, Thái tông, Thánh tông và đương kim hoàng thượng ta, chùa quan càng được xây đắp bồi bổ nhiều khôn xiết. Mắt sáng rực, TỪ hớn hở tiếp lời: - Vâng, thưa cha, sử sách ghi lại, từ thời đức Thái tổ mới lập nghiệp, đã có gần nửa dân đi làm sư sãi… TỪ VINH xua tay, lắc đầu chán ngán: - Phải. Đám dân chúng khoẻ mạnh còn lại không làm sư sãi thì đi lính. Bao nhiêu tiền của sức dân đều được vét sạch để xây chùa quán, nuỗi sư sãi, nuôi quân và chế tác khí giới đánh giặc. Ngay trong đams tăng đạo cũng có nhiều kẻ đục nước béo cò, lợi dụng thời thế, tín ngưỡng của nhân dân mà tranh thủ trục lợi, “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”, lại chia bè phái, dùng tà đạo để ám hại lẫn nhau. Ta thấy nhục nhã vì không trừ diệt được tính tham ác ngay trong đám tăng lữ mà ta cai quản. Đã thế, mỗi lần bê bát cơm lên ăn, ta như nghe thấy tiếng nói vẳng lên từ đáy bát: “Chúng tôi dói! Chúng tôi đói!”. Sao có thể không đắng miệng! TỪ đăm đăm nhìn cha. Từ lúc mới sinh ra, được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, mọi thứ đều có sẵn, chàng không bao giờ biết đến nỗi khổ sở của đám lê dân ngoài kia và bầu tâm sự của cha. Cha chàng lại nói: - Càng ngày, ta càng thấy mình như kẻ sống thừa. Biết tất cả mà chẳng làm gì được cho thiên hạ. Chỉ việc phải trái rõ như ban ngày àm phải viết đến mười hai lá đơn, gửi lên Đô hộ phủ ngục tụng và đức vua, những mong đức vua phân định kẻ có tội, ngõ hầu yên dâng, vỗ về xã tắc. nào ngờ, những lá đơn rút từ máu huyết của ta lại gửi vào tay một kẻ chuyên lấy việc vét máu mỡ cảu dân làm trò tiêu khiển… Cha chàng bước ra khép cửa, buông mành. Gáy ông trĩu xuống dưới búi tóc đốm bạc… Ngồi trước công đường, mà giờ đây trước mặt TỪ LỘ như đang đung đưa những búi tóc bạc xơ xác vì buồn nả của cha. Nhìn mẹ, người đàn bà quý phải chỉ mới ba ngày sau khi cha mất đã rộc rạc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, cũng phải đội đơn quỳ trước công đường, trước mặt một đứa học trò cũ của chồng., TỪ LỘ bội phần xót xa. Cái phận tôi đòi đội đơn thưa kiện này trước đây không dành cho mẹ con chàng. Đô hộ phủ ngục tụngTRẪN DĨNH lật từng tờ đơn theo thứ tự từ trên xuống, soi tên từng nguyên đơn. Ngài thở dài. Lại vẫn giống như ở hạt HẢI DƯƠNG, chín phần mười số đơn là kiẹn cáo các cường hào các bá quan lại cậy quyền ỷ thế chiếm ruộng cướp trâu cưỡng đoạt con gái nhà lành. Trong vô số những lá đơn, ngài để ý một xấp mười hai lá đơn của cự Tăng đô án TỪ VINH khiếu tố lên đấng cửu trùng về việc Diên Thành hầu cưỡng chiếm hơn hai trăm mẫu đất của nhà chùa và dân vỡ hoang phía bắc hồ DÂM ĐÀM, cận kề ngay cửa ngõ kinh thành. Ngài chú ý thấy ở góc mười hai lá đơn đều có dấu khuyên của cự Đô hộ phủ ngục tụng PHỤ QUỐC với chữ đề “Hồi!”. Quan tân Đô hộ phủ ngục tụng sửng sốt quay hỏi người thư lại: - Nhà ngươi có tường tận vụ này không? Viên thư lại ý tứ: - Dạ bẩm… Xin thượng quan tha tôi… Chẳng lẽ ngài không hay biết gì về cái thây dựng đứng ba ngày đếm trước cửa lầu Diên Thành hầu? - A… ta có nghe. Tăng đô án TỪ VINH là thầy ta. Thầy ta chết tức tưởi… Nhưng có liên quan gì đến việc này. TRẦN DĨNH đặt bàn tay lên trồng án tố giác mang tên cựu Tăng đô án TỪ VINH. Ngài như cảm thấy những nét chữ cứng cỏi của người đã khuất xôn xao dưới bàn tay. - Thưa… Người đã chết thì dẫu có minh oan cũng chỉ để cho giun dế dưới mồ nghe. Xin ngài cẩn trọng. Vợ con cựu Tăng đô án đang đội đơn đứng chờ ngoai kia đã ba ngày nay. TRẦN DĨNH giật nảy người: - Đâu? Tại sao nhà ngươi không nói trước. Mau cho mời vào. Viên thư lại thong thả bước đến trước mặt TỪ LỘ và TỪ VINH phu nhân, khoát tay ra dấu mời vào. TỪ LỘ dìu mẹ vào công đường, chắp tay thi lễ trước mặt tân quan Đô hộ phủ ngục tụng. TRẦN DĨNH lật đật đứng dậy, bước tới đỡ TỪ VINH phu nhân: - Hạ quan từ hạt khác được thánh thượng gia ân cho chuyển về kinh thành nên không hay biết phu nhân và công tử hạ cố tới công đương. Xin thứ cho hạ quan tội thất lễ! Hạ quan xưa là học trò của cố quan Tăng đô án vừa sớm xa chơi nơi cực lạc. Nghĩa thầy trò thieng liêng bền chặt, hạ quan không bao giờ quên… TRẦN DĨNH đưa tay áo thụng gạt nước mắt. TỪ LỘ nhìn quanh. Chàng không ngờ có ngày mình lại phải bước tới chốn này. Chồng đơn cao chất ngất trên chiếc án thư lầm lì giữa công đường và những lính hầu câm lặng mặt sắt lại cùng những đồ nghi vệ sáng choang đủ sức làm khiếp vía bất kỳ kẻ nào không may mắn đã dặt chân đến chốn này. TỪ LỘ nhớ, tại phủ Tăng đô án của cha chàng trước đây, có lần vãn việc, hai cha con từng ngồi trò chuyện. Lúc cao hứng, cha bào chàng tấu vài điệu sáo. Nghe tiếng sao của chàng, có lần ông nói: “Được. Nhưng tiếc rằng thanh âm chưa tròn đầy. Còn chút uỷ mị. Phần âm quá dầy mà phần dương lại mỏng. Con ta gần gắng sức. Xưa nay phàm con người ta yêu thích điều gì thì lượnh mạnh yếu, mỏng dầy của điều đó cũng thường vận vào số phận của kẻ đa đoan…”. Chàng nhớ, lúc đó, khi lời cha vừa dứt, một cơn gió nửa nóng nửa lanhnbỗng từ đâu thổi tới, mang mùi nước hăng tanh của dòng nước tù đọng khiến chàng rùng mình. Chàng hỏi: - Thưa cha! Gần đây, cha có điều gì không vui chăng? Cha chàng cố nở nụ một cười, mép ông hằn những vất nhăn chua chát: - Con ta quả là tinh mắt. Trong những ngày này, ta thấy buồn nản rã rời! TỪ ngạc nhiên: - Vì sao, thưa cha? Cha làm Tăng đô án, cai quản ngàn vạn tăng ni. Đức vua sùng Phật. Cả nước cũng sùng đạo. Cha được trọng vọng, phúc lộc vua ban đủ chi dùng dồi dào… Cha chàng ngắt lời: - Con nói phải. Ta làm Tăng đô án. Kể ra thì đắc thời. Máy chục năm nay, các đế vương triều LÝ ai cũng dốc lòng thờ Phật. Đức Thái tổ xưa, mới lên ngôi hai năm đã cho xây dựng tám chùa ở phủ THIÊN ĐỨC, trùng tu chùa quan ở các lộ, riêng ở kinh sư đã độ cho làm tăng tới cả ngàn người. Tới thời vua, Thái tông, Thánh tông và đương kim hoàng thượng ta, chùa quan càng được xây đắp bồi bổ nhiều khôn xiết. Mắt sáng rực, TỪ hớn hở tiếp lời: - Vâng, thưa cha, sử sách ghi lại, từ thời đức Thái tổ mới lập nghiệp, đã có gần nửa dân đi làm sư sãi… TỪ VINH xua tay, lắc đầu chán ngán: - Phải. Đám dân chúng khoẻ mạnh còn lại không làm sư sãi thì đi lính. Bao nhiêu tiền của sức dân đều được vét sạch để xây chùa quán, nuỗi sư sãi, nuôi quân và chế tác khí giới đánh giặc. Ngay trong đams tăng đạo cũng có nhiều kẻ đục nước béo cò, lợi dụng thời thế, tín ngưỡng của nhân dân mà tranh thủ trục lợi, “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”, lại chia bè phái, dùng tà đạo để ám hại lẫn nhau. Ta thấy nhục nhã vì không trừ diệt được tính tham ác ngay trong đám tăng lữ mà ta cai quản. Đã thế, mỗi lần bê bát cơm lên ăn, ta như nghe thấy tiếng nói vẳng lên từ đáy bát: “Chúng tôi dói! Chúng tôi đói!”. Sao có thể không đắng miệng! TỪ đăm đăm nhìn cha. Từ lúc mới sinh ra, được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, mọi thứ đều có sẵn, chàng không bao giờ biết đến nỗi khổ sở của đám lê dân ngoài kia và bầu tâm sự của cha. Cha chàng lại nói: - Càng ngày, ta càng thấy mình như kẻ sống thừa. Biết tất cả mà chẳng làm gì được cho thiên hạ. Chỉ việc phải trái rõ như ban ngày àm phải viết đến mười hai lá đơn, gửi lên Đô hộ phủ ngục tụng và đức vua, những mong đức vua phân định kẻ có tội, ngõ hầu yên dâng, vỗ về xã tắc. nào ngờ, những lá đơn rút từ máu huyết của ta lại gửi vào tay một kẻ chuyên lấy việc vét máu mỡ cảu dân làm trò tiêu khiển… Cha chàng bước ra khép cửa, buông mành. Gáy ông trĩu xuống dưới búi tóc đốm bạc… Ngồi trước công đường, mà giờ đây trước mặt TỪ LỘ như đang đung đưa những búi tóc bạc xơ xác vì buồn nả của cha. Nhìn mẹ, người đàn bà quý phải chỉ mới ba ngày sau khi cha mất đã rộc rạc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, cũng phải đội đơn quỳ trước công đường, trước mặt một đứa học trò cũ của chồng., TỪ LỘ bội phần xót xa. Cái phận tôi đòi đội đơn thưa kiện này trước đây không dành cho mẹ con chàng. TRẪN DĨNH quát lính hầu pha trà nước mới, ân cần hỏi han sức khoẻ và gia cảnh mẹ con TỪ VINH phu nhân. Nhưng TỪ VINH hầu như không nghe thấy gì. Đôi mắt bà nhìn về phía quan Đô hộ phủ ngục tụngvừa sắc nhọn như anh kim cánh thép, vừa xa vời, mờ ảo như có sương có khói. Giọng nói cũng như vẳng lên từ một cõi sâu thẳm xa xôi nào: - Thưa thượng quan… Thượng quan mới chuyển về tại phủ này, nhưng chắc người cũng đã nghe hết nỗi oan khuất của gia đình chúng tôi. Mẹ con tôi đợi trước cửa ngài đã ba ngày nay… * ** TRẪN DĨNH chong đèn ngồi trước án thư tới tận canh ba. Ngài đọc đi đọc lại mười hai lá đơn cảu TỪ VINH để lại trước đây và lá đơn mới viết ướt đẫm nước mắt mà mẹ con TỪU VINH phu nhân vừa đệ lên cách đây nửa tuần trăng. Cả hơn chục ngày nay, ngài đã cho sai nhân đi tra xét ngọn ngành moi việc liên quan đến những những điều được ghị rõ trong mười ba lá đơn. Lúc này, cái chết oan nghiệt của TỪ VINH đa hiện lên rõ trước mặt ngài giữa những dòng chữ. Và tất cả đều gắn với một cái tên Diên thành hầu. Quan Đô hộ phủ ngục tụng tự hỏi mình có nên tâu lên đấng cửu trùng về nhừng tội ác của cha con Diên Thành hầu? Mười hai lá đơn của TỪ VINH đã bị người tiền nhiệm ách lại dưới bốn chân lầm bụi cảu án thư này. Không rõ trước đây PHỤ QUỐC đã đẹ đơn lên đức hoàng thượng chưa? Diên thành hầu lại là hoàng thân, nếu ta tâu trình vạch tội, không biết hoàng thượng có muốn nghe? Nếu có nghe, không chắc ta đã thoát những ngón đòn hiểm của Diên Thành hầu. Cái chết của TỪ VINH là một tấm gương tày liếp. Diên Thành hầu giết TỪ VINH mà vẫn vô can, bởi ông ta mượn tay pháp sư ĐẠI ĐIÊN. Ba đêm liền, TRẦN DĨNH băn khoăn tự hỏi. Nhìn tháy vợ và năm đứa con, ngài xót xa nghĩ, nếu ta có mệnh hệ gì, vợ con ta sống ra sao? Làm vợ, làm con của một ông quan thanh liêm đã khổ, nếu làm vợ goá của một ông quan dám vuốt râu hùm, dám đụng đến thanh danh của hoàng tộc, lại càng nguy nan. trứng chọi đá. Liệu ta có nên đẩy vợ con vào các khổ nạn đó? Nhưng Đức hoàng thượng đã đưa ta từ hạt HẢI DƯƠNG về đây, bổ ta giữ chức này, là bởi người biết ta xưa nay luôn giữ được lòng trung thành ngay thẳng. Ta không thể phụ lòng người. Diên thành hầu là hoàng thân quyền thế. Nhưng Đức hoàng thực là bậc minh quân ân đức đã trùm thiên hạ. Bây giờ, biết đâu với cái chết oan khốc của chính đô án TỪ VINH, lại là dịp tấu những thư này như một ánh chớp xé ngang cái màn đen đặc sệt bao trùm, vượt qua tầng tầng phủ đệ mà lay tới đấng cửu trùng? Trong lòng TRẪN DĨNH bỗng ngùn ngụt cháy ngọn lửa chính trực. Hàng vạn dân đen con đỏ đang ngày đêm mỏi con mắt trông đợi ngọn bút của ngài. Nếu phá được cụ án Diên Thành hầu, kỷ cương trong nước sẽ được lập lại. Những kẻ quan lại chuyên ức hiếp dân lành, toan dùng một bàn tay che lấy mặt trời sẽ láy đó làm sự răn đe mà chùn tay. Rường mối quốc gia nhờ sự công bằng minh định thì mới được vững chãi. TRẦN DĨNH như thấy trước mắt vong linh của người thầy đang ngậm oan đứng đỏ mắt chầu chực bên cổng địa ngục. Rưng rưng muốn khóc, lòng đầy cảm khải vì đất nước, TRẪN DĨNH cả quyết với tay lên giá bút. Trông điểm canh ba vừa dứt thì tờ tấu của quan Đô hộ phủ ngục tụng cũng vừa ráo mực. Ngài tự tay cuộn tờ tấu lại, cẩn trọng cho vào ống quyển chờ sáng mai sẽ giao cho thư lại chuyển lên Tam pháp ty để đệ trình đức vua NHÂN TÔNG. Trong lòng ngài nhẹ nhõm, khoan khoái, tưởng nhưu cất được gánh nặng đè trĩu trên vai từ bấy lâu. Ngài tự hài lòng với mình, phóng bút viết một đại tự lớn, gia nhân lồng khung bạc, treo lên giữa công đường. Nét chữ đẹp như rồng bay phượng múa. Đó là chữ “tâm”. * ** Giờ mão. Quan Đô hộ phủ ngục tụng TRẦN DĨNH chưa tỉnh giấc thì đã có gia nhan vào bẩm có người của phủ Diên Thành hầu đang chờ trước cửa. TRẦN DĨNH ngạc nhiên, hơi khó chịu, nghĩ “Bắt đầu rồi đây!”. Diên Thành hầu cho người đến sớm thế này làm gì nhỉ? Hẳn rằng ôngãe dùng uy lực doạ dẫm. Lời nói của Diên Thành hầu là lời sấm, lời sét giữa triều đình. Ông ta không những quyền cao tước lớn, mà còn là nội thân với đức đương kim hoàng thượng. TRÀN DĨNH hơi lo, nhưng nghĩ lại, trước những cuộc duyệt quân ra trận, tại các hội thề, trước công đường, bao giờ đức vua cũng nêu cao năm đại tự “Quân pháp bất vị thân”. Hẳn rằng sau khi đọc biểu tấu của Đô hộ phủ ngục tụng, hoàng thượng sẽ có phán xét. Nghĩ thế, Đô hộ phủ TRẦN DĨNH thong dong búi tóc sửa khăn rồi ra lệnh cho gia nhân mở cửa mời khách vào. Khách là một người trạc tuổi trung niên, quần áo là lượt khăn nhiễu tím, thoạt nhìn cũng biết ngay là thuộc loại người chạy việc trong các phủ đệ lớn ở kinh thành. Khách mang theo hai lực sĩ mặc nhung phục, mặt mũi xấc xược, trên đầu mỗi người trĩu nặng một mâm đồng phủ nhiễu đỏ. Khách thong dong bước một, cười nửa miệng tiến đến trước mặt TRẦN DĨNH. Ghé tai nói nhỏ: - Quan Đô hộ phủ mới đến chưa tường mọi tục lệ của đất kinh thành. Diên Thành hầu chủ nhân sai tôi đến truyền lại với ngài đôi điều… TRẦN DĨNG không dấu nổi tức giận: - Ta dù lạ nước lạ cái nhưng luật lệ triều đình chính thì ở nơi nào cũng vậy… Điều này, chí ít thì ta cũng đã được vỡ lòng trước khi dám chài tay nhận ấn tín vua ban… Không biết đổi sắc mặt, khách cười nhạt: - Kẻ này dám đoan chắc với quan Đô hộ phủ rằng chỉ sau một tuần trăng nữa ngài sẽ nói khác. - Khác cái gì? - TRẦN DĨNH dằn giọng. - Sẽ khác! Không mềm giọng, khách quay lại bảo hai lực sỹ: - Bay đâu… Đặt lễ! Hai lực sỹ nhất loạt đặt mâm lên án thư giữa nhà. Khách đủng đỉnh chỉ dùng hai ngón tay dài màu ngà voi xương xẩu gẩy nhẹ mảnh lụa phủ trên mâm. TRẪN DĨNH giật mình, mắt nổ đom đóm. Vô số thoi vàng chói lọi bất ngờ hiện ra như phù phép. Cả đời ông chưa bao giờ trông thấy nhiều vàng đến thế. Những thoi vàng mượt óng, ngon lành, nằm hiền hoà như vô can trên mâm đồng, Năm gian nhà ngói, ba gi
Chương 4 ĐẠI ĐĂNG KHOA Không mưa. Không mây. Giao trì yến. Từng cánh bích đào rụng lạng hoàng kim ddienje Rèm châu nửa cuốn hương trời Khúc nhạc nổi tiếng thường được tấu len trong cung của Hoàng đế nhà TỐNG rộn ràng ngân trên những còn đường đất lỗ chỗ vết chân trâu bên bờ sông NHUỆ. Tiếng kèn, tiếng tỳ bà, tiếng ngũ huyền cầm, tiếng đàn tranh réo rắt pha lẫn tiếng sênh rộn ràng làm náo động cả một vùng. Trên con đường dẫn vào làng NHA THƯỢNG bên bờ sống NHUỆ nước sông in bóng một đoàn người xiêm áo sặc sỡ rồng rắn kéo nhau đi làm đỏ cả một khúc sông. Dẫn đầu đoàn người là ông mai bà mối áo vóc hồng miệng bỏm bẻm nhai trầu mắt lúng liếng như người trong cơn say. Tay ông mai bà mối nâng moọt giải lụa hồng bay phất phơ trong gió xuân. Mười hai cô gái thanh tân môi hồng đào răng đen nhức áo tứ thân cổ viền trắng uyển chuyểnđội trên đầu mười hai cổ quả sơn son thiếp vàng. Những mái tóc buộc túm cao trên đỉnh đầu cài trâm sừng trạm bạc hình chim phượng khiến đuôi tóc xoè ra như những đuôi công. Họ bước đi như múa trong tiếng nhạc thảy ra từ ngón tay của mười hai nạhc sông trong giáo phường đang mải miết bùng trên đàn sáo. Gío rung rặng ổi ven sông NHUỆ rắc những cành hoa trắng muốt của mùa xuân trên vai trên tóc đoàn người. Công tử LÝ CÂU xuống ngựa. Hai tiểu đồng để tóc trái đào cúi khom lưng nhấc vạt áo thụng xanh chùng quết đất để lộ dáng hài mũi cong có đính những hạt minh châu màu hồng. Một tiểu đồng áo đỏ đang đứng đằng sau vội bước lên phía trước, hấp tấp quỳ dang trước mặt công tử một bộ điếu bát khảm vàng với chiếc điếu là đoạn trúc ngà cong vút. Một tay tựa vai tiểu đồng một tay LÝ CÂU xoè ra vít ống điếu. Tiểu đồng tra thuốc lào voà nõ điếu rồi quay mặt che người chắn gió thận trọng kéo bùi nhùi châm lửa. Lửa từ chiếc đóm vừa bén vào dúm thuốc lào vàng rộm, LÝ CÂU ghé miệng ngậm lấy ống điếu rồi chúm môi như trẻ con mút vú mẹ. Tiếng rít qua nõ điếu tanh tách vang giòn. LÝ CÂU khoan khoái vươn cổ ngửa mặt lên trời. Từng cụm khói màu trắng nối nhau phun ra khỏi miệng công tử. Một chén ngọc nước chè mạn đã được tiểu đồng rót sẵn trên tay tiểu đồng để công tử chiêu cho ngọt giọng. Xong đâu đấy, công tử oai nghiêm phất tay áo rộng. Đàn sáo lại vang lừng. Đoàn người sặc sỡ nối nhau nhịp nhàng chuyển bước. Trao dây cương cho tên lính hộ vệ, LÝ CÂU xênh xang nhập vào đoàn người, đi cùng ông bà mai mối. Theo sau LÝ CÂU có bốn tiểu đồng khác lặc lè khiêng một thúng tiền đồng. Kèm bên thúng tiền là một bà già tóc bạc da hồng, mặt mũi phúc hậu, môi ăn trầu cắn chỉ, cứ hai mươi mốt bước lại sục tay vào vốc một nắm tiền tung hú hoạ lên đầu đám người hiếu kỳ kéo ra xem đông nghịt ven sông. Người lớn reo hò la hét tranh nhau nhặt tiền. Cứ mỗi lần như vậy, trên mặt LÝ CÂU lại giản nở một nụ cười tự đắc. … Mây xuân cùng trúc lẻ Mềm mại hẹ cùng Tiêu Hán Má hồng ngất ngây thanh thản… Từ trong nhà, quan Ngũ phẩm TÔN TRINH đã vẳng nghe tiêngd đàn sáo rộn ràng từ xa vọng tới. Ông chậm rãi leo lên lầu ngóng đợi đoàn người đáng đến làm lễ Đại đăng khoa cho LÝ CÂU và NHUỆ ANH con gái yêu của ông. Ký ức những ngày qua dồn đập đổ về khiến lòng ông chua xót. * ** Bạn đồng liêu là Tăng đô án TỪ VINH bị người hại chết trong đêm Nguyên tiêu. TÔN TRINH buồn đau, bối rối. Nỗi oan trái của nhà Tăng đô án giáng lên đầu mẹ con TỪ LỘ khiến cho tương lai tưởng đã rạng ngời của NHỤÊ ANH bỗng sập tối như bị một dám mây đen phũ phàng che kín. Gia thế họ TỪ không hẳn vào hàng đại phú nhưng nề nếp gia thư danh giá nổi tiếng khắp đất kinh kỳ, mà chỉ trong chưa đầy một tuần trăng đã tan nát. Bao nhiêu tài sản quý giá từ thời ông cha để lại nay như có chân chạy về nhà Diên Thành hầu và lũ tay chân nha lại. TỪ VINH phu nhân lìa đời. TỪ LỘ bị khép tội vu oan giá hoạ cho hoàng thân nhất đẳng công thần Diên Thành hầu. Tội đáng xử trảm. May được ân vua mở lòng khoan thứ nên mới thoát chết. Không biết TỪ công tử phiêu bạt nơi đâu. Nghĩ đến tình bạn và lời hẹn ước cũ, TÔN TRINH đã cho người bí mật đi dò tìm tông tích mong có thể giúp đỡ được phần nào chàng trai lúc hoạn nạn. Những người biết TỪ LỘ đều quả quyết là chàng không đi đâu ra khỏi kinh thành. Tai hoạ giáng xuống, lòng quá đau đớn phẫn uất nên TỪ chủ tâm lánh mặt mọi người mà thôi. NHUỆ ANH, sau khi TỪ LỘ bỏ đi không thiết ăn uống, suốt ngày than khóc, ban đêm giam mình trong thư phòng với những vần thơ sầu oán bạc mệnh… Giữa lúc đó Diên Thành hầu sai người đến đánh tiếng mai mối NHUỆ ANH cho công tử LÝ CÂU. TÔN TRINH chẳng ưa gì LÝ CÂU. Diên Thành hầu là bậc quyền thế thiên hạ, lời sấm giọng sét chỉ sau đấng chí tôn nhưng ngươờikinh thành ai chẳng có lần truyền tai nhau về những điều mờ ám mà cha con ông ta đã làm. Chuyện cái thây TỪ VINH bỗng dưng trôi ngược trên sông, dựng đứng ba ngày ba đêm, tay cứ chỉ thẳng vào nhà Diên Thanh hầu đã ám ánh TÔN TRINH. Đêm ông không ngủ, tâm ttrí không thoát ra được câu chuyện oan khốc nhà TỪ VINH. Ông ngờ vực mối liên quan giữa Diên Thành hầu và cái chết tức tưởi của người bạn đồng liêu. Ông biết TỪ VINH từng dâng lên đấng cửu trùng những tờ tấu tố cáo tội lỗi của cha con Diên Thành hầu, vì được che chở nên nên cha con nhà này vẫn vô sự. Công tử LÝ CÂU cũng không thèm giấu giếm sự tức tối và nhiều lần cho người giở giọng doạ cha con ông sau khi NHUỆ ANH khước từ lời cầu hôn của hắn, chỉ một mực trao duyên gửi phận cho TỪ LỘ. Tai tiếng của công tử LÝ CÂU đã danh khắp đất này. Chưa qua hai mươi tuổi mà trong nhà công tử Câu đã nuôi một lũ nàng hầu con hát lả lươớtkhêu gợi đủ vẻ. Ấy thế mà ra đường gặp con gái nhà lành mặt mũi tươi tắn là lập tức cho gia nhân túm tóc lôi tay đưa về dinh thự ép chuyện mây mưa rồi mới thả. Nếu không phải là quý tử của Diên Thành hầu, hẳn giờ này LÝ CÂU đã nằm rũ trong lao kinh nội. Trước đây, khi mai mối đến ngỏ lời dạm hỏi, TÔN TRINH đã uốn lưỡi khéo chối. Nại cớ tuổi NHUỆ ANH còn ít, nhà lại chỉ có một gái, nên chưa muốn xa con. Những tưởng khi mai mối ra khỏi cửa là chuyện đã xong. Nhưng tới tuần trăng sau, vào dịp tết hoa nở ngày rằm tháng Hai, bỗng có người khiếng đến đặt trước sân nhà ông một chiếc quả lớn đựng đầy trầu cau bánh trái thượng hạng. Hỏi ra là gia nhân trong phủ Diên Thành hầu theo lệnh công tử LÝ CÂU mang quà Tết đến. Vợ chồng TÔN TRINH chưa kịp nói câu nào, lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu đã lặng lẽ rút đòn khiêng, kéo nhau mất biến sao dậu tre ngà đầu ngõ. Thế là ván đã đóng thuyền, mặc dù NHUỆ ANH lăn lộn khóc lóc một mực xăm xăm đòi trả trầu cau. NHUỆ ANH và cô hầu gái xoã tóc, mặt mày không điểm trang, cố tình ăn mặc rách rưới lê lết khiêng chiếc quả ra đến đầu ngõ toan mang đi trả. Đón nàng đầu ngõ là ngũ phẩm phu nhân tay cầm con dao cau sắc như nước: - NHUỆ ANH! Cứ mang mâm trầu đi. Nhưng hày dùng dao này đâm cổ mẹ trước đã. NHUỆ ANH dừng sững lại. Mẹ nàng vật mình khóc: - Dù con có hứa hôn với công tử TỪ LỘ nhưng bỗng dưng nhà có trọng tội với triều đình. Nhà cửa tan nát. Vị hôn phu của con thì biệt tăm tích không lời nhắn gửi, không biết sống chết ra sao. Nếu nó có lòng với con, ít ra cũng phải có lời từ biệt… Nay công tử LÝ CÂU cũng là người khôi ngô, con nhà danh giá. Con gái có thì… Chuyện ăn chới đối với đám công tử con nhà quyền thế như vậy âu cũng là lẽ thường tình. Đàn bà là phận tôi mọi, nếu để bụng chuyện ấy thì không sống nổi đâu con ạ. Con không thấy đó sao, ở kinh thành này đã bao nhà tan nát vì trái ý Diên Thành hầu… Cha mẹ sinh con ra chưa mong con báo đáp điều gì… Nay chỉ xin con… đừng đang tâm hãm hãi cha con vào vòng lao khổ… Dứt lời, bà mẹ lùi mấy bước, quì thụp xuống, hai tay cháp lại vái sống về phía con gái. NHUỆ ANH rụng rời. Chân nàng dính chặt xuống mặt đất. Rồi không nói một lời, NHUỆ ANH buông mâm lễ vật. Chiếc mâm đồng rơi xoảng và những tấm bánh, buồng cau lăn lóc tung toé trước ngõ. NHUỆ ANH cắn vào môi bật máu. Từng bước câm lặng, nàng giẫm lên la liệt trầu cau, bánh trái, rồi như một cái xác không hồn lặng lẽ trở vào buồng. Nửa đêm hôm đó, NHUỆ ANH mặc áo cánh ngắn, tóc vận gọn cài trâm gỗ, bó rơm vào đế giày để chân đi không phát ra tiếng động. Nàng rón rén bước qua mình cô hầu thân tín đang ngủ mê kêu ú ớ, nhẹ bước như một con mèo lẹ làng ra khỏi nhà. Băng mình qua đêm tối, quên cả sợ hãi, NHUỆ ANH đi tìm TỪ LỘ. Nhiều người đồn rằng TỪ đã bị pháp sư ĐẠI ĐIÊN dùng bùa phép giết chết. Riêng NHUỆ ANH biết chỗ chàng ẩn náu. Cái am nhỏ thờ thần đất ấy nằm bên cạnh bờ sông gần cầu QUYẾT nhưng đã nhiều năm không hương khói mà thành hoang phế, chung quanh là cánh rừng rậm rịt những tầng mây gai tối sẫm, lại thêm tiếng kẽo kẹt ghê người phát ra từ những thân tre khô xác cọ vào nhau mỗi khi gió thổi khiến người bạo gan cũng sởn gai ốc. Chốn ấy hầu như không có ai đặt chân tới. Tiết Thanh minh năm ngoái, nàng và TỪ chốn cha mẹ, lựa lúc cô hầu gái và lão bộc đang mải xem thiên hạ lễ bái tảo mộ, mới rủ nhau lẻn đi chơi. Hai người mải mê trò chuyện, không nhận ra mình đã đã lạc bước tới tận cầu QUYẾT, lạc tới cửa miếu hoang. NHUỆ ANH nhìn bụi cây dày đặc, thấy trời sắp tối, lại lo về muộn, chả quở mắng, oà lên khóc. Nàng càng khóc, TỪ LỘ càng hoảng hốt, vừa rỗ rành vừa loanh quanh mãi không tìm thấy đường về. Mãi sau, lão bộc sốt ruột chạy bổ đi tìm, may mới đón được họ. Tại hoạ xẩy ra, TỪ mất tích. Bằng linh cảm, nàng luôn cảm thấy chàng đang sống, đang ở đâu đây, rất gần. Sau nhiều lần cho gia nhân lùng sục dò tìm, nàng bí mật ăn mặc như một người hái củi tha thẩn khắp nới. Tay vờ nhặt củi khô mà mắt thì sục sạo dõi tìm. Cuối cùng NHUỆ ANH tới ngôi miếng thổ thần hoang phế bên sông. Trong miếu, giữa tấm thân rỗng của bức tượng thổ thần mà mối đã ăn mất một bên chân, TỪ đang ẩn náu, tím ruột bầm gang tìm kế trả thù. Chàng đã thành một người khác. Không còn dấu vết gì của chàng trai hào hoa phong nhã nồng nàn. Gương mặt tuấn tủ yêu dấu ngày nào nay xanh tái. Đôi mắt dịu dàng tình tứ trước đây nay như bốc lửa dưới đôi mày rậm. Nhièu lúc đang nói chuyện cùng nàng mà cái nhìn cảu TỪ như đặt vào khoảng không. Trong con ngươi của đôi mứt rừng rực ấy loé lên một ngọn lửa man dại. NHUỆ ANH biết, trong lòng chàng giờ đây chỉ có hận thù. Chàng nghĩ đến cái chết oan khiên của song thân. Nỗi đau của TỪ như một thứ phong thấp nhập tâm phế. Nó khiến chàng câm lặng, ngày đêm nung nấu trong trí não một điều gì ghê gớm. Cháy ruột vì thương xót, NHUỆ ANH vẫn không khỏi chạnh lòng khi hiểu rằng với TỪ, nàng không phải là tất cả của chàng, ngự trị trọn vẹn trái tim chàng như trước đây nàng đã lầm tưởng. Bây giờ nàng mới hiểu rằng trong con người TỪ có một mảng tối mà nàng không hiểu và không thể với tới. Vẻ lặng lẽ u uẩn của TỪ như muốn xua đuổi NHUỆ ANH. Nước mắt ròng ròng, tim đau như xé, chiều đã muộn, TỪ vẫn ngồi cắm môi bật máu, cố không nhìn nàng. Nàng đành nín lặng ra về. Ngắm những vệt gai cào trên má in rõ mồn một trong tấm gương đồng treo đầu giường, NHUỆ ANH đổ vật xuống giường, ôm mặt khóc nức nở. Khi chiếc gối ướt đẫm nước mắt phả vào mặt nàng một mùi mặn lành lạnh, nàng như người sực tỉnh, đứng vụt dậy, giật đứt tấm lụa màu thiên thanh đang dệt dở trên khung cửi trùm kín chiếc gương đồng. Những vuông lụa dệt dở rủ xuống xơ xác như khăn tang, Đêm rằm tháng Hai, NHUỆ ANH lần đến được ngôi miếu thì trống trên chòi điểm canh ba. Bụi cây đen ngòm quanh miếu khiến nàng chợn rợn như có bóng người rình rập. Trong bụi tr gai kẽo kẹt tiếng quỷ đưa võng. Giữa trời le lói vài ngôi sao nhợt nhạt. Tiếng chim lợn bay ngang qua đầu kêu “éc..éc..!” như đánh rơi những điềm gở. Vầng ngực của NHỤÊ ANH thốt đau nhói vì sợ hãi. Nàng quay ngoắt ra phía sau. Không có gì đáng nghi ngại. NHUỆ ANHn vững dạ hơn chút ít. Nàng thận trọng gõ lên cánh cửa ọp ẹp của ngôi miếu ba tiếng khoan ba tiếng nhặt. Đó là ám hiệu mà nàng đã dặn TỪ LỘ. Bên trong vẫn im ắng. NHUỆ ANH lặp lại ám hiệu thêm hai lần nữa, trong lòng rối bời. Chàng ốm… Chàng đã dại dột làm điều gì đó để bị bắt. Chân tay nàng bủn rủn. Cố định thần nhìn kỹ cánh cửa, thấy hơi hé mở. Dường như có một làn hơi ấm mong manh phả ra từ bên trong, lẫn giữa mùi lá mục và oai oai rêu phong. Làn hơi ấm đó chính là TỪ. Cái mùi quen thuộc ấy không thể lẫn vào đâu được. Nàng dấn bước. Bóng tối trong căn miếu lập tức bưng chặt lấy mắt. Ánh đèn đom đóm soi rõ pho tượng thổ thần đắp bằng đất sét giờ đã bị mủn mất nửa đầu. Con mắt còn lại đang lừ lừ nhìn nàng từ trên cao. NHUỆ ANH chột dạ cố trấn tĩnh để khỏi sợ hãi. “Lạy thổ thần phù hộ. Con đến đây không phải vì tà tâm…!”. Nàng nín thở, cố nhướn mắt trông cho rõ người con trai đã khiến trái tim nàng ngày đem bị bóp nghẹt. - NHUỆ ANH. Xin nàng đừng tim ta nữa. Tiếng nói vang lên từ phía sau khiến NHUỆ ANH giật bắn người. Tựa lưng vào bức tượng, TỪ LỘ ngồi xếp bằng trước một trang giấy đang viết dở. Những dòng chữ sẫm tối dường như hắt lên ánh đỏ. NHUỆ ANH nhìn kỹ. Trong cái bát sành trước mặt TỪ không phải là thứu mực Tàu thông thường. Đây là một thứ nước sền sệt phả lên mùi mặn. Nàng nhìn đầu ngón tay trỏ của TỪ LỘ. Đầu ngón tay đã bị cắn nát dù được dịt lại bằng mạng nhện nhưng vẫn đang rỉ máu. NHUỆ ANH hiểu rằng những dòng chữ đó được viết bằng máu của chàng. - … Ta chỉ sống nốt kiếp này để báo thù!… NHUỆ ANH lao tới ôm lấy bàn tay TỪ LỘ, ấp lên ngực. Nàng khóc tức tưởi. Nước mắt của nàng làm ướt tay chàng. Hơi ấm của dòng nước mắt phút chốc làm tan băng giá giá trong lòng TỪ LỘ. Từ khi song thân mất, TỪ chỉ còn là một con thú bị săn đuổi. Ở đâu chàng cũng cảm thấy có hình bóng của bè lũ Diên Thành hầu và pháp sư ĐẠI ĐIÊN truy tìm lùng sục. "Nhỏ cỏ phải nhổ cả rễ…". Chàng đã nghe người ta nói lại những lời đắc ý của ĐẠI ĐIÊN khi hắn giết được cha chàng và thây cha chàng đứng sững trước cửa nhà Diên Thành hầu. Chàng đã chọn ngôi miếu hoang này làm nơi ẩn náu để tránh mọi điều bất trắc, nuôi chí, đợi cơ hội trả thù. Nhưng đêm nay dưới ánh mắt nồng nàn của người yêu, lòng TỪ dịu lại, mềm ra thoáng chốc. Chàng đăm đắm ngắm gương mặt NHUỆ ANH. Chiếc cằm thanh tú hơi nặng ra vì khóc nhiều, những sợi tóc mai bơ phờ rối tung trước trán, rủ thành lọn bên thái dương, bết lại vì nước mắt mà trông càng quyến rũ. TỪ LỘ xót xa bội phần ngắm vị hôn thê. Nếu cha chàng không chết vì tay ĐẠI ĐIÊN và Diên Thành hầu thì gương mặt đẹp não lòng và thân hình trời cho này sẽ mãi mãi kề cận bên chàng, mãi mãi là của chàng. Đó là điều mà nhiều vương tôn công tử ở đất kinh thành này đều mơ ước. Nhưng giờ đây, mọi cánh cửa đều sập lại trước mặt chàng. Thù nhà khiến chàng không nghĩ được đến bất cứ một điều gì khác ngoài tiếng gọi báo oán. Trái tim TỪ rắn trở lại. Tay chàng nắm chặt. Một dòng máu tươi rỉ xuống từ đầu ngón tay trỏ mà chàng đã cắn nát để viết bức huyết thư trước mặt. NHUỆ ANH rùng mình khi cảm thấy hơi lạnh từ trong tim TỪ chuyền qua những đầu ngón tay của bàn tay mà nàng đang ôm trước ngực. Bất giác NHUỆ ANH buông tay nhích về phía sau. Nhưng không thể kìm nén được, nàng lại nhoai thân đổ gục hai vai vào lòng TỪ LỘ: - Chàng ơi… Nguy rồi!… Sáng nay, Tết hoa nở, gia nhân của LÝ CÂU lại đội lễ vật tới…! Vừa nghe thấy mấy tiếng "LÝ CÂU…" khắp người TỪ LỘ rúng động. Chàng nắm hai vai NHỤÊ ANH, đẩy nàng ra. Mấy ngón tay TỪ BÓP chặt đôi vai mảnh dẻ của NHỤÊ ANH. Đôi mắt TỪ như lồi ra, trừng trừng nhìn vào mắt nàng. Ánh mắt đó khiến đầu lưỡi NHUỆ ANH líu lại: - …TỪ LỘ! Hãy đưa em đi…! Hãy đưa em đi bất kỳ nơi nào. Đôi ta như cây liền cành… Đôi mắt TỪ vẫn mở trừng trừng trong bóng tối miếu hoang. Tưởng như chàng không còn nhìn thấy vị hôn thê phủ phục trước mặt, không ngeh giọng nói van nài khẩn thiết của nàng. Một làn gió từ bên ngoài lọt vào cửa miếu, đốm đèn đom đóm trên bẹ thờ thần vụt tắt. Im lặng. Mãi sau trong bóng tối âm u, tiếng của TỪ mới lại vang lên rành rõ, ớn lạnh, vô cảm vô hồn: - NHUỆ ANH… Xin nàng hãy quên ta đi. Xin nàng hãy coi nhưu ta không còn trên cõi đời… Đời ta, dẫu sau này có thác xuống làm ma nơi âm phủ hay đầu thai vào kiếp khác… Ta vẫn vĩnh viễn mang ơn nàng…! NHUỆ ANH còn chưa hết bàng hoàng vì những lời của TỪ thì nàng đã thấy đôi bờ vai của mình trùng xuống chạm nền gạch lạnh toát của miếu hoang. TỪ đã xoay người. Giờ đây chang quay lưng lại phía nàng, úp mặt về phía tường rêu, hai con mắt vẫn mởi trừng trừng lạnh lẽo… Khi NHUỆ ANH tức tưởi chạy đến cổng nhà thì đã quá canh ba. Đôi bàn chân trần bé nhỏ tướp máu. Nỗi uất ức tuyệt vọng bóp nghẹt tim nàng. NHUỆ ANH lặng lẽ đẩy cánh cửa để vào nhà mà không nhận ra cha nàng đã bí mật theo sau nàng, đau đớn ngắm nhìn nỗi tuyệt vọng của con. Ông đã về trước, rút sẵn chốt cửa chờ con. Trong lòng quan Ngũ phẩm TÔN TRINH vừa đau xót lại vừa gần nhưu nhẹ nhõm. Ông nghĩ, vậy là việc nhan duyên của con gái mình với LÝ CAU đã là số mệnh, hoạ phúc thiên định. Cha con ông không phải là kẻ thất phu sai lời hẹn năm xưa với Tăng đô án TỪ VINH. Ông lại tự hứa với mình, dẫu buông xuôi cho con gái lấy LÝ CÂU nhưng ông sẽ ngầm lo liệu giúp TỪ LỘ khi có dịp. Âu cũng là trả cái nghĩa với người bạn đồng liêu năm xưa. * ** … Xe vàng chuyển Cờ nghê bóng quyện Tiêu xa luyến… Tiếng đàn sáo đã vang lừng trước cổng kéo TÔN TRINH trở lại thực tại. TÔN TRINH tái người khi nhận ra đây là nhã nạhc chỉ dành cho bệ rồng. Công tử LÝ CÂU lại ngông cuồng đến mức này ư? Ông nheo mắt che tay nhìn kỹ, cố tìm trong đám người theo sau ông mai mối xem có thấy gương mặt song thân chú rể. Theo phong tục cha ông để lại từ bao đời nay, Đại đăng khoa bao giờ cũng là lễ trọng nhất và không thế vắng mặt song thân chú rể. Nhà Diên Thành hầu đã ngạo nghễ bỏ qua lễ vấn danh, lễ sơ vấn mà vào ngay lễ Đại đăng khoa này. Một sự ngạo ngược đã đành. Vậy mà nay trong dòng người đã đến trước cổng nhà ông kia vẫn không thấy mặt vợ chồng Diên Thành hầu. Họ cậy thế cỏi rẻ người quá lắm. Trong lòng TÔN TRINH trào lên niềm uất tủi. Nhưng nhìn lại, ông thấy bà vợ mình đã loe xoe xiêm áo bên cạnh… Không thể dừng lại được nữa rồi. Quan Ngũ phẩm đành sửa mũ xốc áo quát lũ gia nhân ra mở rộng hai cánh cổng. Cổng vừa mở, LÝ CÂU đã hấp tấp gạt đám tiểu đồng vây quanh, vượt lên chen qua ông mai bà mối để vào sân trước. Trong thâm tâm, vị công tử ăn chơi này cũng ngạc nhiên vì những hàng xử khác thường của chính mình. Từ lcú còn là một đứa trẻ mười ba tuổi, LÝ CÂU vỗ ngực không biết bao nhiêu gái đẹp đã qua tay mình. Từ các tố nữ yểu điệu trông chốn phòng khuê cho tới những bông tầm xuân hé nụ nơi thôn dã. Từ bọn ca kỹ nhẵn mặt khách làng chơi đến các tiểu hư con quan nhất nhị phẩm, mỗi khi LÝ CÂU muốn thì lập tức trong phủ đệ của hắn lại phấp phới những bóng hồng. LÝ CÂU như con ong hoang cả thèm chóng chán, không đậu cánh hoa nào được vài tuần trăng. Điều này không phải không gây cho LÝ CÂU và vợ chồng Diên Thành hầu nhiều tai tiếng phiền nhiễu. Nhưng công tử là con một. Theo phép vua ban, LÝ CÂU sắp đến tuổi tập ấm tước cha. Diên Thành hầu phu nhân đã có ý chấm nhiều đám mon đăng hộ đối. Nhưng cậu con trai ngỗ ngược không nghe. LÝ CÂU nhìn thấy tiểu thư NHỤÊ ANH trong lễ VU LAN ở chùa DIÊN KHÁNH năm ngoái. Vẻ đẹp khác lạ của người con gái đứng mơ màng bên bụi hoa ngâu trước sân chùa khiến công tử họ LÝ ngẩn người. Đến lúc người con gái quay toan dời bước vào lễ Phật thì công tử CÂU vội len theo. Trên tay công tử là chùm hoa ngâu vừa hái mong tặng cho người đẹp. Nhưng cô tiểu thư dửng dưng. Nàng cúi chào sư trụ trì rồi cùng mấy cô bạn ríu rít soạn lễ. Công tử CÂU vỗ tay gọi kẻ hầu. Nhưng vẻ xăng xái, nể trọng của mấy tăng ni nhận lễ và dáng vẻ đoan trang lạ thường của người con gái khiến công tử phải chùn tay. Lập tức cho người dò hỏi, biết nàng là tiểu thưu con quan Ngũ phẩm TÔN TRINH, thì trong dạ mừng thầm, tưởng chừng như vưu vật đã nằm gọn trong tay rồi. Nào ngờ NHUỆ ANH đã hứa hôn với TỪ LỘ, con quan Tăng đô án TỪ VINH. Hoa đã có chủ. Nhưng với LÝ CÂU thì điều đó chẳng hề gì. Những cản ngại đối với gã bao giờ cũng làm tăng thêm sự hấp dẫn. Mỗi lần gặp, nhan sắc khác thường của NHUỆ ANH lại thêm một lần nữa làm LÝ CÂU bồn chồn nghiêng ngả. Những đêm dài sau cuộc truy hoan, lần đầu tiên công tử LÝ CÂU thấy trong lòng trống trải. Và bóng dáng NHỤÊ ANH với nét mày đa đoan nằm ngang trên đôi mắt long lanh, mới nhìn như vui, ngắm kỹ như u uẩn sầu đong đã ngày đêm ám ảnh. LÝ CÂU thấy mình đang nằm úp trên gương mặt quyến rũ kỳ lạ ấy, hai khuỷu tay ngập trong mớ tóc mây xoã tung của nàng và cuộc mây mưa đạt đến khoái lạc khôn tả trong tiếng gào thét của NHUỆ ANH. Tỉnh dậy, vạt đệm da cáo trắng ướt đầm dưới chỗ gã nằm. Từ đó, những cuộc ân ái với mọi giai nhân khác đều trở nên nhạt như nước ốc. Cơn thèm khát càng dâng cao tột độ. LÝ CÂU hiểu rằng, hắn sẽ héo mòn tâm can nếu không độc chiếm vợ chưa cưới của TỪ LỘ về làm của riêng. Nhưng dù đã hãm hại được gia đình Tăng đô án TỪ VINH, nhưng trong mắt NHUỆ ANH vẫn chỉ có hình bóng TỪ LỘ độc chiếm. NHUỆ ANH càng xua đuổi, càng cao ngạo, ngọ lửa dàm mê càng rừng rực thiêu đốt LÝ CÂU. Một buổi tối, khi song thân của LÝ CÂU vừa thưởng thức món hùng trưởng hầm sâm, đang ngồi xỉa răng bằng tăm ngà, thì giật nẩy mình khi cậu quý tử chạy vụt tới. Đồng thời, từ tay cậu, một lưỡi đao sáng loáng cấp phập xuống chiếc sàn gỗ lim, rung lên bần bật. Phu nhân lẩy bẩy. Diên Thành hầu vốn biết tính nết cậu quý tử, đứng vụt dậy nhìn con trừng trừng. Cậu quý tử một mực đòi cha mẹ phải đến hỏi NHUỆ ANH về làm vợ. Nếu cứ ngăn cản, cậu sẽ dùng lưỡi đao này đâm chết cha mẹ rồi tự đâm vào cổ mình. Việc LÝ CÂU bỗng dưng gắn bó với một người con gái, mà đó lại là vị hôn thê của con trai Tăng đô án TỪ VINH, khiến cả vợ chồng Diên Thành hầu vừa ngạc nhiên, bừa phẫn uất… * ** Ông bà mai mối nhả miếng trầu đang nhai dở, hai tay nâng cái dải lụa hồng, còn đang định lựa lời mở miệng thì LÝ CÂU phất tay sải ba bước tới mặt vộ chồng TÔN TRINH đang đứng trên thềm nhà. Cúi mặt vái hai vái mà mắt vẫn ngước lên dáo dác tìm kiếm: - Hôm nay, nhân ngày lành tháng tốt, song thân tôi cho mang lễ vật tới làm lễ Đại đăng khoa. Hẹn sau mười ngày nữa, lễ Tiểu đăng khoa cử hành, đón NHUỆ ANH tiểu thư về cùng tôi gá nghĩa trăm năm. Nghe câu nói sỗ sàng thất lễ, ông mai bà mối đưa mắt nhìn toan len tiêng đỡ lời. Nhưng LÝ CÂU dã quay lại. Mười hai thanh nữ nhất loạt tiến lên, đồng loạt nhún chân hạ dẫu qủa sơn son. Các tiểu đồng răm rắp thành hàng ngang, lẹ tay mở những chiếc quả đựng lễ vật. Sáng loà giữa đám lễ vật là một buồng cau lớn những quả cau bằng bạc khối mà chỉ khẽ đụng vào thì tiếng bạc cũng ngân rung. Một trăm cặp bánh phu thê làm bởi những tay thợ khéo nhất kinh thành được gói bằng lá dong xanh mướt cột lạt nhuộm đỏ tươi rói. Hai mâm xôi gấc hạt mọng thẫm, hai mâm xôi trắng ngật ngưỡng, trên đỉnh mỗi mâm là một thủ lợn kếch sù có gài bông hoa đỏ chói bằng lụa nơi mõm. Khi nhìn đến chiếc quả sơn son cuối cùng, mọi người đều ồ lên một tiếng kinh ngạc trước bộ nữ trang quý giá mà Diên Thành hầu tặng con dâu. Một đôi hoa tai xoè sáu cánh vàng uốn cong, nhuỵ hoa là một viên ngọc ánh hồng như hút lấy ánh sáng toả ra từ ngộn nến mà lũ tiểu đồng nhà LÝ CÂU vừa thắp lên. Trong chiếc hộp ngà trạm trổ tinh xảo là hai con rồng vàng chầu mặt nguyệt uốn cong thành một chiếc kiềng đỡ hai chữ "phúc lộc". Nằm sum vầy giữa hộp là đôi vòng cũng bằng một thứ ngọc nổi vân đen trên nền xanh biếc. Mộ chiếc trâm bằng đồi mòi có sáu dây tua mà lủng lẳng mõi đầu dây là một viên trân châu. LÝ CÂU nhìn khắp mọi người, vẻ tự mãn làm tròn đầy, nở nang khuôn mặt. Công tử quay sang nhìn vào mặt TÔN TRINH hỏi: - Thưa nhạc phụ… sao không để NHUỆ ANH tiểu thư ra nghênh tiếp? Tôi muốn nhìn thấy bà mối đeo kiềng vàng cho tiểu thư! TÔN TRINH nghiêm sắc mặt: - Nhà công tử nhiều châu báu lắm, chúng tôi biết. Nhưng con gái nhà chúng tôi có đi lấy chồng đi chăng nữa cũng không phải vì chuộng kiềng vàng đâu. Song thân nhàcông tử đâu, sao không diện kiến. Xưa nay con nhà nề nếp chưa từng có ai tự đi hỏi vợ bao giờ. Vả lại, công tử còn không biết phép nước, dám dùng nãh nhạc của cung đình đem rong ruổi trên đường như một bầy hát rong. Phiền công tử hãy mang lễ vật trở về nhà. Đứng cạnh chồng, TÔN TRINH phu nhân nghe những lời của chồng thì rụng rời chân tay. Bà vội vàng đỡ lời, nói như người hụt hơi: - Kìa phu quân, sao hôm nay ông quá lời làm vậy? Gia đình hoàng thân là chốn cao sang thì có bao giờ lại không biết phép tắc? Chẳng qua… có lẽ hôm nay ngài bận vào triều luận bàn quốc sự… TÔN TRINH quắc mắt nhìn vợ: - Bà chớ ng*ỵ ngôn với ta để bênh vực cho những điều trái nề nếp gia phong… Thấy tình thế nguy ngập, bà mối vội bước lên, uốn lưỡi dẻo quẹo: - Thôi mà. Trăm sự xin ông bà lượng thứ. Công tử chúng tôi tuy còn trẻ người non dạ nhưng một lòng yêu thương NHỤÊ ANH tiểu thư. Ông bà ta xưa đã dạy: "Thật thà bằng ba khôn khéo". Sinh ra làm phận gái ai cũng phải lấy chồng. Nay ông bà được kết thân với nhà Hoàng thân quyền thế lệch thiên hạ, còn hưởng nhiều phúc lộc về sau. Tiểu thư được sánh đôi với LÝ công tử, mỗi bước chân đi ngập trong châu báu, gấm vóc. Cái vinh hạnh chất ngất ấy thử hỏi trên đời ai là người không mơ ước? Xin nghĩ đến tương lai của tiểu thư mà cẩn trọng. Đừng làm cho Hoàng thân bất ý một lần nữa. TÔN TRINH không nói thêm được lời nào. Ý muốn của công tử LÝ CÂU cứ như một dòng thác lũ bất cần lẽ phải. Đám lễ vật sáng loá trước mắt cũng xoa dịu sự bực bội của ông đôi phần. Ông tự an ủi rằng dẫu thế nào đi nữa, ái nữ của ông cũng được một chỗ ấm thân. Dẫu LÝ CÂU vốn là một kẻ ngông cuồng càn rỡ nhưng con gái ông vốn bướng bỉnh, biết đâu với sắc đẹp và tài trí của nó, nó sẽ thuần phục được con ngựa hoang toàng kia… Nghĩ đến đây, tâm trạng căng thẳng đối phó của quan Ngũ phẩm TÔN TRINH chùng xuống. Ông sai gia nhân: - Vào mời tiểu thư ra đây. Chưa dứt lời đã thấy tiếng NHỤÊ ANH vang lên ngay sau lưng ông: - Thưa cha mẹ, xin cha mẹ thứ có con tội thất lễ. Con xin có mấy lời với công tử. TÔN TRINH giật mình quay lại. Con gái ông xoã tung tóc, mắt ráo hoảnh, mặt không son phấn. Nàng nhợt nhạt nói với LÝ CÂU đang ngẩn người: - NHỤÊ ANH tôi xin cảm ơn sự chiếu cố của công tử. Tôi xét mình phận mỏng, kém quyền thế, không xứng kết đôi cùng công tử, công tử mang lễ vật về ngay cho. Nói xong nang phăm phăm chạy đến bên mâm cau bạc, nhặt lấy chiếc hộp trang sức đang hắt anh sáng chói lọi rồi đặt vào tay LÝ CÂU. LÝ CÂU đang ngơ ngác chưa kịp hiểu ra chuyện gì, bất giác hai tay đỡ lấy mâm đứng như trời trồng giữa sân. Cả đám đông lặng im, há miệng nhìn. TÔN TRINH phu nhân tái mặt, lật đật chạy ra quát: - Hỗn nào! NHUỆ ANH! Phận gái cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Phải biết giữ bổn phận. NHUỆ ANH nhìn mẹ: - Thưa mẹ, mẹ có chóng quên quá không? Cha mẹ đã sắp đặt cho con một lần và con đã nghe theo. Con quyết không lấy ai ngoài TỪ công tử. Xin cha mẹ đừng ép duyên con. LÝ CÂU cười nhạt: - TỪ công tử?… Lẽ nào nàng chẳng biết cái thằng dở điên dở khùng ấy đã mắc vào tội vu oán giá hoạ cho người khác, may nhờ hồng ân của cha ta nên mới khỏi bị xử trảm. Mà có khi hắn đã chết rũ xương nơi nào rồi… Không biết được sự tình nỗi oan trái của TỪ LỘ là do cha con Diên Thành hầu gây nên, nhưng NHUỆ ANH cảm thấy rất rõ giọng nói của gả công tử đang dứng trước mặt nàng một vẻ khoái trá dã thú khiến nàng ghê sợ. NHUỆ ANH khinh miệt nhìn gã, ngắt lời: - Công tử chớ quá lời. Chớ khoái trá khi nói về nỗi bất hạnh của kẻ khác. Trời có mắt. Ta không bao giờ tin người trung nghĩa nhưu cha con TỪ công tử lại có thể làm điều gì không xứng đáng. Trong lòng ta chỉ có TỪ LỘ mà thôi. Ta tin sẽ có ngày chàng giải được nỗi oan khuất này. LÝ CÂU vằn mắt: - Nàng chớ hão huyền. Muốn gì thì mươi ngày nữa nàng cũng đã nằm trên giường cưới của ta. Ta đã hẹn với nàng trên cầu, vào đêm Nguyên tiêu. Cho đến nay, lẽ nào nàng chưa hiểu tính ta. Ta đã nói, đã muốn cái gì thì dẫu sét đánh ngang tai cũng mặc. Hôm nay, vì sắc đẹp của nàng, ta bỏ qua cho nàng tội bất kính. Lúc này ta chỉ muốn chạy nhanh tới đêm tân hôn. Và hãy nhớ, cái gì công tử LÝ CÂU này đã muốn ắt phải được. Rồi đĩnh đạc, khoan thai, LÝ CÂU mở một nụ cười với vợ chồng TÔN TRINH: - Bây giờ ta phải về, Cha ta đang mở tiệc khoản đại bạn bè khách khứa. Chắc ông bà tuổi cao, từng trải cũng biết rõ lẽ thiệt hơn mà làm cho tiểu thơ bớt bướng bỉnh. Gã quay sang cười với NHUỆ ANH đang đỏ bừng mặt vì tức giận: - Khi tiểu thư tức giận trong càng bội phần xinh đẹp. Ta thích ngay cả sự bướng bỉnh của tiểu thư. Mười ngày nữa, nàng sẽ còn dịp mà phô vẻ tức giận trước mặt ta. Giáo phường lại nổi nhạc. Mười hai cô gái đội lên đầu những chiếc quả rỗng không, cùng ông mối bà mai và lũ tiểu đồng nhún nhẩy trở về. LÝ CÂU đi sau cùng. Xe ngựa ghé sát thềm. Trước khi bước lên xe, còn quay lại ghét vào tai vợ chồng quan Ngũ phẩm TÔN TRINH: - Ông bà hay cấm cung tiểu thư NHUỆ ANH ngay từ bây giờ. Đừng để tai vạ đến cả dòng họ. Xin hãy bảo trọng. Chương 5 CỬU TRÙNG Tháng ba. Kinh thành đỏ rực hoa. Hàng cây gạo bên sông CÁI, sông NHỤÊ, sông TÔ nghiêng những con rồng lửa quấn quýt nực nội xuống dòng sông. Những cánh hoa rơi lăn lóc trên mặt cỏ như bùi nhùi rơm nhỏ xíu lập loè cháy. Mênh mông mang đầy trời tiếng ong bay. Vua LÝ NHÂN TÔNG ngự lãm điểm binh ở cánh đồng GIẢNG VÕ. Bao quang đài cao là đội Ngự lâm quân do quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ chỉ huy. Vòng ngoài là mười vệ Điện tiền cấm quân gươm giáo sáng loà, trùng trùng lớp lớp trải rộng, cờ xí rợp trời, kéo dài tới tận sát nơi chuồng ngựa chuồng voi KIM MÃ, CỐNG VỊ. Các đoạ TẢ QUẢNG THÁNH, HỮU QUẢNG THÁNH. TẢ NGỰ LONG, HỮU NGỰ LONG. TẢ BỔNG NHẬT, HỮU BỔNG NHẬT. TẢ THẦN ĐIỆN, HỮU THẦN ĐIỆN… Trên trán mỗi cấm quân đều thích ba chữ son đỏ: "Thiên tử quân". Khi triều đình truyển mộ trai tráng vào các đạo cấm vệ quân, Thái uý LÝ THƯỜNG KIỆT đã tâu lên vua: "Bẩm bệ hạ. Ta nên chọn dân châu HOAN. Dân đó xưa này dù mang tiếng gàn dở nhưng một dạ trung thành. Bệ hạ sai chúng gác cổng Cấm thành, chẳng phải chỉ kẻ lạ mặt mà dẫu cha chúng nó xin vào thành nhổ một ngọn cỏ rồi trở ra tức khắc, chúng cũng quyết không cho!…". - Hoàng thượng giá lâm! Tiếng hô của quan Tả đô cấm vệ chỉ huy sứ. Cả biển người chuyển động, hô theo như sám rền: - Thánh thượng vạn tuế! Thái hậu vạn tuế vạn vạn tuế! Xa giá tới. Thớt voi trắng dẫn đầu cỗ xe THÁI BÌNH. Bành voi Bồng la nga cẩn vàng. Cổ voi đeo một chuỗi ba mươi sáu chiếc chuông bạc, mỗi bước đi, tiếng chuông ngân lên trong vắt. Hai quan Chánh phó Điện tiền chủ huy sứ cưỡi ngựa trắng hộ tống hai bên. Đức NHÂN TÔNG ngồi trên bành voi, mặc áo bào tía, đầu đội mũ hành phục quan màu vàng có đính hạt châu. Ngài ngự đang ở tuổi hai mươi hai. Da đỏ hồng hào. Trán dô. Cái nhìn như đóng đinh người ta. Hàm vuông miệng rộng. Tay dài quá gối. Bên cạnh Ngài, Thái hậu Ỷ LAN mặt tròn như trăng rằm, mày tằm, mũi như trái mật treo, quyền cốt nổi rõ dù đám thị nữ đã khéo che phủ bằng một lớp phấn màu hoa đào. Thái hậu đội mũ thêu cửu long chầu nguyệt, tóc búi cài đôi trâm vàng có chữ thọ kết bằng ngọc quý. Mặc áo bào dệt bằng tơ đậu tám sợi thêu rồng. Xiêm cũng dệt bằng tơ đậu tám sợi màu trắng thêu chim phượng. Đi sau Nhà vua và Thái hậu là Thái uý LÝ THƯỜNG KIỆT và nhà sư KHÔ ĐẦU, vị quốc sự mới được nhà vua tấn phong hồi tháng Giêng, tay cầm tiết việt. LÝ THƯỜNG KIỆT đã vào tuổi lục tuần nhưng tráng kiẹn trong bộ võ phục màu đen nẹp trắng, đai tơ sẫm màu, trước ngực thêu hình đầu hổ chỉ bạc. Dưới vành mũ Thái uý là gương mặt đẹp uy nghi. Dải mũ bản to quá khổ nhằm che khuất chiếc cằm trắng không râu. Đi sau nữa là các hoàng thân quốc thích, quan lại từTứ phẩm trở lên đội mũ phốc đầu, chân đi hia đế cao. Diên Thành hầu dẫn đầu. Áo bào đỏ viền đai cẩn ngọc quý, hầu là vị quan nhất phẩm được vua NHÂN TÔNG nể vì. Là vị vua có hiếu với mẹ, Đức vua rất hài lòng khi thấy vợ chồng Diên Thành hầu thường xuyên đến thăm Thái hậu, dâng hương liệu lạ, châu ngọc quí và có những câu pha trò khiến Thái hậu vui. Đến trước đài cao, theo hiệu lệnh của quản tượng, voi trắng rống lên một tiếng trầm đục rồi quì hai chân phủ phục. Thái giám, thị vệ, thị nữ xúm xít đỡ Vua và Thái hậu. Ba hồi chín tiếng trống dóng lên. Theo nhịp trống, Vua và Thái hậu dẫn đầu cùng các quan văn võ bước lên đài. Đức NHÂN TÔNG kiêu hãnh phóng tầm mắt. Dưới chân đài, một rừng quân tướng hàng ngũ chỉnh tề, khí giới sắc quắc đứng nín thở chờ đến lúc Ngài phát lệnh điểm binh. Xa hơn, đội kỵ binh và đội tượng binh uy nghi bên tả, bên hữu… Và xa hơn nữa, đám dân chúng chen chúc nhau mong được trộm ngắm mặt rồng. Đức NHÂN TÔNG vui mừng trong dạ. Đất nước qua bao cơn bĩ cực đã tới tuần thái lai. Mười sáu năm về trước, NHÂN TÝ, THÁI NINH năm thứ nhất, mới mười bảy tuổi, Thái tử CÀN ĐỨC nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế. Mưa tầm tã hàng tháng trời. Vừa kịp rước Phật PHÁP VÂN về kinh để cầu tạnh thì xảy đến chuyện nhật thực u ám đất trời. Khắp kinh thành, trong các làng xóm thôn xã, người người chạy ra đường gào thất thanh: "Gấu ăn mặt trời! Gấu ăn mặt trời! Đuổi gấu! Đuổi gấu…". Nhà có mõ dùng mõ, nhà có thanh la dùng thanh la. Người đem nồi đồng mâm thau, lìêm quốc ra sân, thất thần ngửa mặt lên trời gõ inh ỏi. Các bà mẹ lén lút dúi đầu con trẻ dưới vạt áo nâu, sợ gấu trông thấy sẽ thèm rỏ dãi, dãi rơi xuống nhân gian mà thành bệnh đậu mùa. Ông già bà cả dùng mỡ bò hoà với nhọ nồi, bắt cả làng bôi nhọ vào mặt trông cho dữ tợn, dừng đòn xóc hai đầu nhọn đẩy trai tráng nhẩy lên nóc nhà, leo lên ngọn cau hú đuổi gấu. Dân chúng hoang mang sợ hãi, nghĩ rằng con gấu đen đang ăn mặt trời tren kia trông tháy, sẽ sợ hãi nhả mặt trời ra mà bỏ đi. Hết mưa dầm lại đến nắng hạn. Suốt bốn tháng hè không có một hạt mưa. Sông ngòi cạn kiệt. Đồng ruộng nứt nẻ khô rang. Trâu bò lăn ra chết từng đàn. Người người kéo cày thay trâu. Qua thu, cánh đồng lua chín xơ xác chó chạy hở đuôi lại bị chuột bọ sinh sôi cùng lũ châu chấu tràn về như những đám mây đen tàn phá. Đã lắm người chết đói. Sáng sáng, cứ mỗi làng bản lại có một đoàn bốn người chức việc mặc áo sô gai, mũ mấm trùm kín mặt, vác hai chiếc cáng tre đi khắp các nẻo phố, khắp hang cùng ngõ hẻm nhặt xác chết đem chôn. Nhiều nhất là xác trẻ con và người già. Không đủ áo tơi nón lá dể đắp xác người. Kín đầu thì hở cả đôi chân khô đét đen sạm. Kín chân thì để lộ cái đầu tái nhợt ghê rợn với đôi tròng mắt tụt như biến sâu vào trong hốc mắt. Thân nhaâ người chết cũng đói õm bụng, vật vờ đi sau những chiếc cáng, không dủ sức há miệng cất lên tiếng khóc. Khắp thiên hạ không thiếu lời xì xầm thị phi. Có kẻ bạo miệng dám nhắc lại chuyện trong cung THƯỢNG DƯƠNG. Nói là đêm đêm LINH NHÂN thái hậu không ngủ yên. Ruột gan nhưu có ai bào. Canh ba là Thái hạu bật dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như bị người ta bắt, rồi quấn hàng chục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co trên giường mà khóc kể, gào thét. Hàng trăm chùa chiền mà Thái hậu cho dựng lên khắp trong nước là để sám hối, rửa oan cho việc THƯỢNG DƯƠNG thái hậu và bảy mươi sáu cung nữ vô tội bị sát hại năm nào… Trong nước là vậy. Tình hình bên ngoài cũng đâu được yên ắng. Phía nam giặc CHÂN LẠP, CHIÊM THÀNH quấy đảo bờ cõi. Bắt người, cướp thuyền bè, thóc lúa. Phía bắc nhà TỐNG tập trung binh hùng tướng mạnh diễu võ dương oai chỉ chờ dịp nuốt chửng vùng biên ải, dọn quang đường tiến thẳng xuống nội kinh. LINH NHÂN thái hậu che rèm cùng vua ngồi bàn chính sự. Thái sư LÝ ĐẠO THÀNH và Thái uý LÝ THƯỜNG KIỆT là quan văn, võ đầu triều được vời vào. Thái sư Lý Đạo Thành nói: - Bẩm tâu Thái hậu! Bẩm tâu Hoàng thượng! Ông trời ra hoạ, hết lũ lụt lại hạn hán. Nhưng đâu chỉ có vậy. Thiên hoạ không bằng nhân hoạ. Mấy năm nay nhân khi triều đình bận đối phó với giặc ngoài biên ải, lũ tham quan ô lại, bọn cường hào ác bá mọi nơi đua nhau lộng hành. Dân chúng đã khốn cùng lại càng khốn cùng hơn… - Có vậy sao? - Bẩm Thái hậu, kẻ hạ thần đâu dám ngoa ngôn, sàm tấu. Ngày đầu tháng vừa rồi, dân phủ BÌNH GIANG kéo đến trước cửa Đô hộ phủ ngục tụng để kêu về việc tri phủ LÊ TRƯỜNG TÍCH hà lạm công quỹ, ức hiếp dân lành. Dân tình đói kém người chết đầy đường mà vụ mùa vừa rồi tri phủ tự ý nâng mức thuế vượt quá quy định của triều đình, rồi khai man để đ
Chương 6 TIẾNG GỌI … Ai cướp được con kén chày kình Ấy thực nam sinh công hầu bá tước Ai cướp được con kén mo dài Ấy thực nữ tài cung phi hoàng hậu Con con cháu cháu Tử thịnh tôn đa… Ngàn ngạt tiếng hát tiếng hú reo hò rộn rã khắp một vùng. Dân QUÍ VŨ mở hội CHEN và lễ MỞ CỬA RỪNG. Tục truyền rằng thần núi LINH SƠN ĐẠI VƯƠNG qua giấc ngủ dài mùa đông vươn vai thức dậy thì đã xuân. ĐẠI VƯƠNG gạt tay mở cửa rừng chấm dứt cảnh xơ xác tiêu điều của hạ giới. Thế mà mầm măng tua tủa mọc, chim chóc ra khỏi tổ, thú rời hang, dân làng nô nức vào rừng ngây ngất với sự hào phóng của thần núi. Năm ngoái đói kém. Lúa nương nghẹn hạt. Người khắp nơi đổ về rừng bòn vét hét củ mài, đào cả củ nâu để sống cầm hơi. Có kẻ sa vực sâu, sập chân xuống hố đào đành nằm đó đợi làm mồi cho thú dữ, sâu bọ. Cuối thu vừa rồi dân làng còn nhặt được xác một ông già hai cánh tay khô đét ôm chặt nhánh rễ củ nâu, hàm răng vẫn cắn ngập qua lần vỏ củ. Mọi người kháo nhau là xác không tiêu được vì ông già ăn nhiều củ nâu quá, máu nghẽn lại trong người, thân hình dẹt đét nhưu được bọc một lớp nhựa chát xít, khô cong. Cũng từ hô ông già chết, đêm đêm phía bìa rừng cứ văng vẳng tiếng đàn ông khcó gọi hồn. Tiếng khóc hú như gọi thêm người chết đói đổ xuống. Dân làng trách nhau rằng đầu năm đã mở lễ hội sơ sài, lễ dâng lên LINH SƠN ĐẠI VƯƠNG quá mọn. Tổ tiên người QUÍ VŨ đã dặn lại con cháu, mức hào phóng của LINH SƠN ĐẠI VƯƠNG tuỳ thuộc vào sự đông đúc của hội CHEN trong những ngày mở cửa rừng. Năm nào già trẻ trai gái cật lưcj chen vai thích cánh thì cửa rừng sẽ mở rộng hơn. Mùa màng tươi tốt. Muông thú đầy rừng. Măng củ kín mặt đất. Đàn bà sinh con đẻ cái đầy nhà. Trận chiến liên miên nối nhau đời này qua đời khác cướp đi quá nửa trai tráng trong làng. Nhà nào đẻ lắm con trai thì triều đình sẽ ân thưởng. Hội CHEN năm nay đông vui hơn mọi năm… Gà gáy canh năm, già trẻ trai gái đã đến kéo kín bãi cỏ trước rừng. Những lá cờ đã được dựng lên từ lúc nào đang vẫy vùng trước gió. Vang tiếng rống nghẹn ngào ngào của lũ trâu rừng đàng vồ đập trán dao chọc cổ. Mùi thịt thơm lừng trên đống lửa than đỏ rực. Những tảng thịt trâu nướng máu vẫn còn ứa huyết hồng đặt trên lá chuối rừng trước bệ thờ LINH SƠN DẠI VƯƠNG. Lát nữa, ĐẠI VƯƠNG thụ lễ, rồi thịt sẽ được xẻ thành tảng xxâu dây mây phân phát đều cho bách tính dự hội. Từng cặp nam nữ cầm miếng làm phép. Đợi lúc trời sập tối, các đôi nam nữ dắt tay nhau tản vào rừng. Những đứa trẻ sinh ra từ những cuộc ân ái trong đêm CHEN sẽ được dân làng tôn sùng, góp công nuôi nấng và gọi là con của LINH SƠN ĐẠI VƯƠNG. Điệu múa GÀ PHỦ mở đầu lễ hội. một người đàn ông cởi trần đóng khố đầu gối bôi phẩm đỏ, cánh tay nổi cuộn giơ cao chiêng tấu lên âm thanh rộn ràng. Một người đàn bà tóc búi xoè ra như đuôi công ngực che miếng vải nâu nhỏ nửa thân dưới là chiếc váy kết bằng lông chim đủ màu sặc sỡ tay cầm mõ tre hoà cùng tiếng chiêng. Cùng nhảy múa với họ là cặp ông bà già được dân làng chọn trong đám những người già đông con nhiều cháu con cháu khoẻ mạnh cường tráng nhất vùng. Ông già cũng đóng khố cởi trần. Bà già cũng mãng vải cũn cỡn che ngực, váy lông chim. Chỉ có khác, mảnh vải che ngực của bà lão dệt bằng sợi gai nhuộm màu hường, phía dưới lủng lẳng những quả chuông đồng nhỏ. Ông già tay cầm một chiếc chày lớn đẽo bằng gỗ nghiêếngià chuốt màu nâu bóng tạc theo hình dương vật người nam. Bà già cầm một mo cau qút vôi trắng uốn công cong theo hình âm vật người nữ. Chung quanh ông bà già và cặp người đánh chiêng gõ mõ là những vòng trai gái chen nhau. Trai khố vải ngực trần tay cầm gậy ngắn. Nữ yếm ngắn che ngực váy kết lá sồi. Tiếng chiêng rộn ràng. Tiếng mõ trầm ấm như lửa than. Trống cái thì thùng điểm nhịp. Hai người đàn ông đàn bà đánh chiêng gõ mõ vừa khom người vừa đi giật lùi mỗi bước dđ như mỗi lời mời mọc thúc gọi. Ông già bà già nhún nhẩy đuổi theo nhịp chiêng nhịp mõ. Mỗi khi tiếng trống "Tùng…!", ông già lại cất tiếng hú lên những tiếng hú dài. Theo với tiếng hú, ông già bà già tiến lại gần nhau. Bà già giơ mo cau dứ dứ. Ông già miệng hú mình gồng tay đưa chày gồ day day vào giữa mo cau. Hai người già nhún nhẩy tiến lên lùi xuống nhịp nhàng trong tiếng hú mênh mang thăm thẳm như vọng từ rừng sâu và tiếng chiêng mõ rộn ràng mà chày, mo vẫn không dời nhau. Mỗi lần chày gỗ chạm mo cau, vòng người chung quanh lại chao đảo vai nam hích vai nữ ngực nữ chạm ngực nam, miệng cất thành tiếng "Vào nõ bạc. Ra nõ vàng… Hú hời… Hú hợ…!". Rồi từng đôi trai gái tách riêng, vẫn theo nhịp chiêng mõ trống điểm thì thùng mà múa nhưng những cặp gà trống mái vờn nhau. Thỉnh thoảng bên nam lại nhẩy dựng lên miệng hú khẽ. Nữ khom mình chúm miệng hoà theo. Âm vang lách cách đầu gậy. Ràn rạt váy lá sồi… Quanh họ là lũ trẻ tóc trái dào chen lấn cùng các cô bé vừa làm lễ rửa ngực đeo y ếm. Những chàng trai chưa vợ tìm cách len đến gần các cô gái thanh tân mà chàng ta để mắt từ lâu. Còn lớp người lớn tuổi thì vừa xem hội vừa mắt trước mắt sau đợi lúc vào tục CƯỚP KÉN. Đó là là lúc tiếng chiêng tiếng mõ dứt và trống cái giật lên một hồi dài khắp bãi hội xô về phía ông già bà già. Người nào nhanh tay nhanh mắt cướp được chày gỗ nghiến, mo cau cong thì họ hàng làng xóm cũng được may lây suốt năm. Trâu bò lợn gà một sinh mười. Thóc gạo đầy nhà. Đàn bà tốt nái sinh nở bầy con SƠN THẦN khoẻ mạnh. Cả họ giết trâu bò lợn gà mở tiệc ăn mừng. Bãi rộng phía tây sát cửa rừng cũng một đám đông xúm đen xúm đỏ. Trò bắt chạch trong chum dành cho những đôi trai gái đã sẵn có tình ý. Những con chạch to tầy cổ tay được thả vào quẫy lộn trong chum đầy nước. Đôi trai gái đứng đối diện qua miệng chum, tay phải nắm chéo nhau giơ lên trời, thân khom, cùng thò tay trái vào chum quờ bắt lũ chạch trơn nhẫy. Phải hai tay hai người nắm vào một con chạch mới là thắng cuộc. Tiếng reo hò tán thưởng vang ầm. Đôi trai gái đó được quyền tay trong tay dắt nhau vào rừng hợp hoan thành vợ chồng ăn đời ở kiếp. Tiếng người xôn xao trong đám bắt chạch chợt lắng. Xuất hiện trước mặt họ một đôi trai gái. Cô gái chừng đôi tám thân dong dỏng, cặp vai xuôi mượt, hai gò má cao ánh một lớp măng tơ như làn sương phủ. Môi trầu đỏ thắm. Hai mắt mở to trong veo như mắt bê con… Cô là con gái yêu của vị tộc trưởng danh giá nhất vùng mà người dân QUÍ VŨ ai cũng nể trọng. Chàng trai nắm tay cô gái có thân hình chắc như cây lim. Mày thô mắt sáng. Cái nhìn âu yếm. Mọi người nhận ra ngay chàng thợ săn tài ba dũng cảm nhất trong vùng. Tay trong tay đôi trai gái sóng bước tới bên chum chạch. Ánhs mắt nhìn nhau âu yếm rạng ngời. Tiếng mõ điểm đến nhịp năm, đôi cánh tay đã giơ lên cao. Một chú chạch lớn rối rít quẫy chiếc đuôi vàng khươm ròng ròng nước. Đám đông vây quanh reo hò ầm ĩ. Chú chạch lại được thả xuống chum. Cô gái xoay thân kiêng chẫn xoè bàn tay ra trước mắt như để ngắm nghía những ngón tay thon thả lấp lánh nước mà những tia mặt trời cuối cùng trong ngày đang làm loé lên những vầng ngũ sắc trong giây lát rồi mới âu yếm nám lấy bàn tay người yêu đang chìa trước mặt. Nhưng cô gái giật bắn người. Thay cho bàn tay rắn chắc khoẻ mạnh quen thuộc của người yêu thì lại là một bàn tay thô rám, ngón tay sần sùi với những chiếc lông thô chứng như lông lợn lọi chợt nắm chặt tay cô. Cô gái ngước mắt nhìn lên. Kề sát mặt cô là một chiếc trán dô với đôi chùm lông mày bạc trắng rủ xuống phủ gần kín cặp mắt đỏ cười cợt. Một cái miệng với cặp môi dầy thưỡn ra trong một nụ cười đắc ý ướt đẫm nhục dục. Cô gái thét lên. Đó là gương mặt của phát sư ĐẠI ĐIÊN, người mà dân chúng khắp vùng KINH BẮC này vưa vâng phục vừa kinh sợ. Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn nằm bất tỉnh. Đám đông há mồm kinh sợ. Tiếng kêu bị giam chặt trong những đôi hàm đã khoá cứng. Pháp sư ĐẠI ĐIÊN ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Chiếc túi da vằn vện vẽ hình âm dương đeo trước ngực nẩy lên nẩy xuống theo nhịp rung của khuôn bụng béo mỡ. Chỉ một động tay, pháp sư nắm chặt ngang lưng cô gái. Cô vùng vẫy, nghiến răng cắn chặt vào bàn tay lông lá và rít lên những tiếng khiếp hãi của một con thú nhỏ. Pháp sư điềm tĩnh mở túi da thò hai ngón tay kẹp lấy một chiếc trâm bạc có gắn viên minh châu óng ánh to như hạt sen xanh. Vẫn cười nhếch miệng, pháp sư vuốt nhẹ gò má mịn màng của cô gái trẻ rồi thong thả gài trâm lên ngực yếm tơ hoa đào, nơi phập phồng đôi gò nhủ hoa như đôi chim kinh sợ đng vùng vẫy tìm cách thoát khỏi giam hãm. Dưới chân pháp sư, chàng thợ săn hồi tỉnh. Chàng chống hai tay toan gắng gượng ngồi dậy. Khônng hề nhìn xuống, ĐẠI ĐIÊN hướng lòng bàn tay xuống đất. Chàng trai lại gục xuống như chết. ĐẠI ĐIỆN lôi xềnh xệch con gái tù trưởng vọt qua đám người đang ngơ ngác. Một tay đỡ eo lưng cô, một tay thiền trượng, pháp sư hướng về phía cửa rừng đi như lướt. Mặt trời dần chìm vế phía tây. Bóng âm u đổ xuống thảm cỏ mịn đang nhuộm màu sẫm tối. Tiếng xao xác cuả đàn chim rừng bay về tổ xáo động không trung. Xa hơn, thẳm sâu trong rừng, hồi gầm của những chúa sơn lâm tỉnh giấc ngày, bắt đầu vào cuộc kiếm mồi trong đêm tối. ĐẠI ĐIÊN đến sát cửa rừng. Cô gái như cái xác không hồn dựa oặt vào bên vai pháp sư. Còn vài bước, chừng như không thể kìm nén được nữa, ĐẠI ĐIÊN rên khẽ một tiếng, bế xốc cô gái lên tay. Những dẻ lá gồi, lông chim từ tấm váy ngắn của cô gái rụng xuống lả tả rụng xuống theo đôi chân gấp gáp của pháp sư. Chiều sẫm hẳn. ĐẠI ĐIÊN quay sang, cúi xuống nhìn vào khuôn mặt đờ đẫn như người trong cơn mê ngủ cuả cô gái, thẳng tay ném cây thiền trượng cắm ngập xuống thảm cỏ. Mấy ngón tay gấu lẩy bẩy cởi nút ngực áo… Bỗng nhiên người cô gái khẽ giật lên. Rồi cái thân thể mềm mại đó chuồi khỏi cánh tay pháp sư, đổ xuống đám cỏ vừa bị xéo nát như đang rỉ nhựa. ĐẠI ĐIÊN ngạc nhiên trừng mắt nhìn lại. Trên khoé miệng cô gái, một dòng máu đỏ ứa ra chảy dài xuống cổ. Cô gái đã cắn lưỡi tự vẫn… - Hừ… Con ma ranh này! ĐẠI ĐIÊN chửi gằn. Một chân đạp lên bộ ngực trinh bạch của cô gái. Nhưng ngay lập tức pháp sư đứng thẳng dậy. Một điều gì đó ở phía trước khiến ông ta chợn rợn cau mày. Trong bóng đêm mịt mùng đang trùm lên cánh rừng, một ngọn đuốc nhựa trám vừa thắp lên soi quầng sáng quanh gốc đinh cổ thụ. Dưới quầng sáng, bên gốc cây, một bóng người đứng đó, cặp mắt trừng trừng nhìn thẳng về phía ĐẠI ĐIÊN. ĐẠI ĐIÊN “hử” khẽ một tiếng trong miệng. Pháp sư đã nhận ra kẻ táo tợn. Đó là TỪ LỘ, con trai của Tăng đô án TỪ VINH đã bị ông ta sát hại trong đêm Nguyên tiêu. * ** Cách đây hai tháng, trong miếu hoang thổ thần bên bờ sông NHUỆ, TỪ LỘ ngồi lặng trước dải lụa rách nát vì bao vết chân voi chân ngựa chân người giẫm đạp. Những hàng chữ viết bằng máu đỏ trên dãi lụa chứa nỗi oan khuất ngút trời của gia đình chàng giờ đã khô đen bê bết bùn đất. Chàng nghe tiếng những bước chân của NHUỆ ANH mỗi lúc mỗi xa dần. Cả tiếng nức nở nghẹn uất của cô gái. Có bàn tay phủ phàng giật mạnh quả tim trong lồng ngực TỪ LỘ. Cảm giác đau đớn nhục thê, ttroong rỗng xâm chiếm trong TỪ. Sợi dây cuối cùng nối chàng với cõi đời đã đứt. Chao ôi, trước đây chàng đã tín tưởng biết bao vào công lý, vào trật tự kỷ luật của triều đình, vào lẽ phải và từ tâm của con người. Tiếng tiêu của chàng đã bao lần hoa giọng ca tụng công đức của đấng minh quân vời vợi trời cao. Vậy mà giờ đây vẻ thờ ơ của Đức hoàng thượng và của Đức Ỷ LAN Thái hậu đã như nhát gươm xóc thẳng vào ngực chàng. Những bàn tay đang được thần dân ngưỡng vọng như thần thành nay đã phũ phàng ném mảnh lụa thấm đầy máu và nước mắt cảu mẹ con chàng xuống chân voi vó ngựa. TỪ nhớ laiojlúc thân mình bị kẹp chặt giữa những cánh tay sắt cảu bầy đao phủ, đao kề cổ, ngực chàng vẫn như vỡ ra mỗi khi bước chân của bầy ngựa voi giẫm lên ngực bức huyết đơn. Những vó sắt ngàn cân đó đang giẫm lên ngực từ, vùi chôn mãi mãi những tiếng kêu oan khuất của mẹ con TỪ cũng như những bàn dân thấp cổ bé họng bị dồn vào đường cùng như mẹ con chàng. Trong lòng TỪ LỘ, trong chàng thư sinh hào hoa đang bơi lội trong hạnh phúc yêu đương và tiếng tiêu làm mê đắm cả kinh thành trước đây, giờ chỉ còn tiếng gào thét trả thù. Chàng đã tin vào lòng từ ái. Nhưng lòng từ ái đã bị cái ác giầy xéo. Chàng đã tin vào công lý. Nhưng công lý đã bị che khuất bởi manh tâm, bàn tay nhơ bẩn của Diên Thành hầu và biết bao tham quan ô lại… Quanh miếu thổ thần, dật dờ những oan hồn. TỪ trò chuyện với những hồn mà. Hồn mặc áo trắng và xoã tóc là hồn của những goá phụ bên nách cắp con. Những hài nhi chết yểu vì tên bay đạn lạc, thiếu sữa, đói khát. Những hồn áo nâu với hộp xương sọ phô màu xám xỉn là hồn của những chiến binh ra đi từ đồng ruộng, và nhanh chóng phơi thây nơi chiến địa. Vô số là hồn không rõ hình hài, chỉ thấy mảnh lá chuối bó quanh che thân rít lên phần phật trong gió lạnh sởn xương sống… Trên mỗi đoạn xương cẳng tay gày guộc đội một tờ đơn. Những hồn oan khuất không chết vì tên bay đạn lạc và vì nghèo đói rách nát, không phơi thây nơi chiến địa, chỉ chết vì không chờ đợi nổi công lý. TỪ như thấy thấp thoáng trong đám cô hồn đó có bộ xương trắng với những bước đi uyển chuyển của mẹ chàng. Bà đang đứng. Bà bước tới một dòng sông nước đầy ắp đỏ ngầu như máu đọng. Bà đưa tay ra. Có ai đó như TỪ VINH cha chàng đang đứng bên kia bờ sông máu. Tiếng khóc của cha, tiếng hờ oan của mẹ văng vẳng đâu đây quanh miếu thổ thần… TỪ đứng dậy đẩy cửa miếu, lao vào bóng đêm bên ngoài. Đó cũng là đêm kinh thành THĂNG LONG rực rỡ đèn hoa cờ xí. Ngày này cách đây vừa một giáp, trên sông NHƯ NGUYỆT, Thái uý LÝ THƯỜNG KIỆT đánh tan đạo quân TỐNG do Chiêu thảo sứ QUÁCH QUÌ thống lĩnh, lấy lại được châu QUẢNG YÊN. Mười hai năm đã qua, cùng với niềm mừng vui chiến thắng, nỗi đau đã dần khép miệng. Những người mẹ mất con, vợ mất chồng cũng khô nước mắt. Nước mắt lặn vào bên trong, chỉ đêm đêm thầm chắt rỉ ra trên giường chiếu lạnh, trong căn nhà trống vắng. Những đứa trẻ mồ côi đã có đủ thời giờ trở thành trai tráng. Và như những người bố bỏ mạnh nơi trạn địa, những đứa trẻ lại mong ước được đến ngày trở thành chiến binh… Đèn lồng, đuốc sáng uốn lượn toả lập lờ dọc bờ sông NHUỆ, sông TÔ. Người người lớp lớp trẩy đi. Tiếng cười nói râm ran. Thì thùng trống điểm đám thi vật, đám múa lân múa rồng. Trẻ nhỏ từng đàn hò reo chạy đuổi dọc bờ sông, chơi trò rồng rắn trước sân đình chùa, vỗ tay lanh lảnh cất tiếng hát lên khúc đồng dao mới: “Nam quốc sơn hà… Nam đế cư. … định phận tại thiên thư…” TỪ LỘ tránh vùng sáng, cứ nhằm nơi tối đen không có tiếng người mà bước tới. Trang trại của quan Tăng đô án TỪ VINH cha chàng trước đây đã thuộc về tay Diên Thành hầu đang thiêm thiếp trong bóng đêm dày đặc, không biết gì đến nỗi bể dâu của mà chủ cũ của nó vừa trải qua. Chiếc đèn lồng tấm mặt từ đời tổ tiên của chàng để lại cứ đến giờ dậu mỗi ngày được gia nhân đốt lên hắt ra tám hướng anh sáng vàng sang cả thì nay vẫn được treo ở đó. Nhưng tám mặt đèn nay dường như chỉ để rọi sáng cho một tấm biển sơn son thiếp vàng rực rỡ với hai chữ “Hý viện” được viết bằng chữ thảo bay bướm. Diên Thành hầu đã biến tráng trại yên tĩnh nho nhà vào bậc nhất kinh thành này thành kỹ viện. Và kia, đôi đèn treo trên hai cột cổng hàng đêm đón khách đến mua vui lại chính là đôi đèn Mỹ nhân và Tiêu tương mà chàng và NHUỆ ANH đã tìm nhau theo anh sáng lung linh và say đắm bày tỏ tình yêu trong đêm Nguyên tiêu. Đã qua giờ tý tám khắc. Đêm hội đã lắng dần trên kinh thành. Bên trong kỹ viện, đám kỹ nữ và khách làng chơi hẳn đã buông rèm ngủ yên. TỪ LỘ nín thở rón rén bước lại gần hàng rào. Chàng chợt nghe tiếng ngựa hý ở dẫy nhà hướng nam trước đây cha mẹ chàng đã đặt bàn thờ tổ tiên. Chàng đã hiểu dã tâm của Diên Thành hầu. Kẻ thù đã y theo kế của pháp sư ĐẠI ĐIÊN biến nơi thiêng liêng nhất trong khu dinh cơ này thành tầu ngựa để triệt mạch phúc của dòng hon TỪ. TỪ LỘ chợt giật thót mình khi nhận ra một bóng người không hiểu đã lặng lẽ đến bên chàng từ lúc nào. Chàng chưa kịp phản ứng thì bóng người đã giơ bàn tay lên làm hiệu im lặng. “Tiểu công tử!”. Chàng nghe tiếng thì thào và nhận ra ngay đó là lão NGÔ, người lão bộc trung thành đã hầu hạ trong nhà từ khi chàng chưa ra đời. TỪ chưa kịp nói gì thì lão NGÔ đã nắm lấy hai bàn tay lạnh giá của chàng: - Tiểu chủ… chớ đến đây! Nguy lắm… Diên Thành hầu vẫn cho người di rình tìm tiểu chủ khắp kinh thành…! TỪ LỘ nấc lên, vị vào vai lão bộc: - Nhà ta… lại thành nơi như thế này ư, lão NGỖ…? Người lão bộc nghẹn ngào nức nở, bật ra những tiếng kêu khẽ đứt quãng: - Đau đớn… lắm… tiểu chủ ơi…! - … Sao lại ở đây… lúc này…? TỪ LỘ nhẹ giọng cố làm cho lão bọc trấn tĩnh lại: - Tiểu chủ… Từ ngày đó đến nay không đêm nào kẻ vô dụng này có thể đặt mình ngủ trọn. Đêm nào cũng ra đây… Mà phải chờ đến canh này… người trong nhà đã yên ngủ cả… Kẻ này biết thế nào cũng có lúc tiểu chủ tìm trở về. TỪ LỘ nghiến răng bóp chặt hai vai lão bộc: - Thế còn… bọn chúng… Diên Thành hầu, ĐẠI ĐIÊN ra sao? - Diên Thanh hầu tháp tùng xa giá lên khao quân của Thái uý LÝ THƯỜNG KIỆT mừng chiến thắng trên sông NHƯ NGUYỆT. Còn ĐẠI ĐIÊN là kẻ giang hồ. Cữ này lão vác thiền trượng khoác áo cà sa đi rong chơi. Rượu ngon, gái đẹp, trống cờ mở hội đâu vui là có lão… Lặng im. Đến mức nghe rõ cả tiếng gió chạy lại sạt trên hai hàng cau trổ lá xum xuê bên đường trước cổng khu dinh thự. TỪ LỘ hỏi như trong cơn mê: - Thế còn… - Dạ… Thưa tiểu chủ… Bài vị thờ quan ông quan bà kẻ này vẫn cất giấu vào nơi tin cẩn. Đầu kẻ nô bộc này dẫu có rơi, máu kẻ nô bộc này dẫu có chảy thì khí vật thiêng liêng đó cũng không thể mất vào tay kẻ ác… - Ta ơn lão suốt đời. Nhưng này… Bây giờ lão hãy trao lại vật thiêng đó cho ta… - Trời… Tiểu chủ giữ bài vị của quan ông quan bà làm gì trong lúc này… Tiểu chủ còn đang phải lẩn tránh - Lão NGÔ… hãy nghe lời ta… - TỪ LỘ toan nói tiếp. Nhưng chàng chợt đưa tay ngăn lão bộc lại – Lão chờ ta một chút… Ta vào trong này… - Ơ kìa… Tiểu chủ… - Lão bộc sợ hãi kêu lên – Coi chừng hại đến tính mạng. TỪ LỘ như không nghe thấy tiếng lão NGÔ. Chàng nhẩy qua hàng rào vào vườn. Tránh chỗ có ánh đèn sáng, TỪ bò về phía gian từ đường trước đây và bây giờ là tầu nhốt ngựa. Đầu hồi khóm hoàng trúc do chính tay TỪ VINH cha chàng xin được mầm non trổ vào mùa xuân từ vườn ngự uyển của đức vua mang về trồng vào đúng ngày mẹ trở dạ sinh ra chàng. Mười tám năm qua, mầm trúc mảnh mai giờ đã thành khóm trúc rậm rạp, thân vàng óng vươn cao. TỪ bước nhẹ đến bên khóm trúc. Chàng cúi xuống, lần tìm một thân trúc vừa tầm khẩu tay. Thân trúc lung lay. Lá trúc rung chuyển sương đêm ào ạt trút xuống ướt đẫm hai vai áo. “Lạy cha… Lạy mẹ… Lạy vong linh tổ tiên họ TỪ… xin cha xin mẹ hãy về phù hộ cho con trả mối thù này…!” TỪ LỘ cúi xuống về phía từ đường dòng họ, miệng lẩm bẩm khấn. Kỳ lạ…! Cùng với lời khấn nguyện của TỪ, một ngọn gió lạnh buốt dấy lên. Những vòm lá trúc trên đầu chàng lại im phắc. Và thân trúc trong tay chàng buột ra khỏi bộ rễ bền chặt nhằng nhịt dưới đất, như tự chuồi lên nằm gọn trong tay TỪ. TỪ đã trở lại bên lão bộc: - Lão cứ trao bài vị cho ta… - Nhưng… - Đừng nói gì nữa, lão NGÔ… TỪ LỘ vội ngưng lời. Trước mặt chàng, những ngọn đuốc đỏ đọc vừa bất chợt đốt lên trong trang trại. Tiếng người huyên náo. Trên chòi gác, tù và gấp gáp rúc lên. - Bọn chúng biết… Lộ rồi… Tiểu chủ chạy đi…! Lão bộc hốt hoảng đẩy vai TỪ LỘ. - Lão mau đi cùng ta! - Không được… Tiểu chú chốn chạy đi… Hướng này…! - Lão NGÔ…! Nhưng lão bộc đã dang tay đẩy mạnh chàng về phía bờ sông TÔ. Còn lão lại vùng lên nhằm ngay hướng chuồng ngựa của hý viện và khuệch khoạng chạy. “Bắt…! Có kẻ gian đột nhập trại…!”. Tiếng người la hét. Thêm nhiều đuốc sáng. Chân người rinh rịch chạy. Gươm đao loảng xoảng. Hai cánh cổng trang trại rền rĩ mở ra. TỪ LỘ cứ nhằm bóng tối trước mặt mà chạy lao đi. “… Có kẻ trộm ngựa…! Trộm ngựa!…”. Phía sau TỪ LỘ, nơi trang trại nhà chàng khi trước lại vang lên những tiếng thét hốt hoảng. Đột ngột, không gian lại như bị vỡ ra thành muôn mảnh bởi tiếng vó ngựa từng đàn hốt hoảng chạy lồng lên trong bóng đêm. TỪ LỘ thu mình đứng nép bên gốc duối bên đường. Những con ngựa cao lớn lực lưỡng cất tiếng hý vang nối nhau phóng rầm rập vụt qua trước mặt chàng. Tiếng đập trong lồng ngực TỪ LỘ cũng chọt như dừng đứng lại. Chàng hiểu. Ngưòi lão bộc trung thành đã liều thân tháo then chuồng thả đàn ngựa ra để đánh lạc hướng lũ gia nhân nhà Diên Thành hầu cho chàng chạy thoát. Chờ cho tiếng vó ngựa lắng, ánh đuốc và tiếng người hò hét đuổi theo bầy ngựa xa dần, TỪ LỘ ôm gốc cây ngồi thụp xuống giọng thầm thì nghẹn tắc trong cổ họng: - Cha ơi… mẹ ơi…! Đêm này là đêm cuối cùng hèn nhát của đứa con đớn hèn mang tên TỪ LỘ do cha mẹ sinh ra. Con xin tạ tội trước vong linh… Ta tạ lỗi với lão NGÔ vì sự hèn yếu, mù quáng của ta trước đây. Chàng đứng bật dậy, ngửa mặt lên trời, nghiến răng: - Ta… ta sẽ trả thù…! Trả thù! * ** Qua bao ngày tìm kiếm, hôm nay TỪ LỘ đến đất QUÍ VŨ. Trong tay chàng là cay gậy nhổ lên từ khóm trúc bên đầu hồi từ đường dòng họ. Cây gậy trúc mà giờ đây TỪ LỘ mỗi lúc mỗi cảm thấy nặng chĩu anh linh, vong hồn của cha mẹ chàng. Lần tìm tung tích ĐẠI ĐIÊN ở tất cả những nơi mà chàng nghe thấy đang mở hội. Và ở hội CHEN này, chàng gặp pháp sư ĐẠI ĐIÊN. ĐẠI ĐIÊN nhìn chàng trai trẻ. Nét mặt không hề thay đổi. Cái nhìn như ánh mắt một con mèo già uể oải thừa mứa vơn quanh một chú chuột nhỏ bé non nớt. Pháp sư cất cái giọng rè rề lười biếng giễu cợt: - Chú mày cũng thích cái hội mở rừng với trò cướp kén bắt trạch này ư? TỪ LỘ hết nhìn ĐẠI ĐIÊN đứng ngạo nghễ trước mặt chàng, lại nhìn xuống xác cô gái nằm dưới đất. Dòng máu vẫn rỉ chảy trên khoé mép. Chiếc yếm che ngực lcú nãy bị gió rừng thổi lật tung, cành trâm bạch cẩn minh châu ngời ánh ma trơi trên cỏ. Không nói một lời, TỪ sấn tới. ĐẠI ĐIÊN vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thậm chí lão pháp sư không them đụng đến cây thiền trượng đang run rẩy trên thảm cỏ ngay bên chân lão. Chỉ đến khi TỪ LỘ còn cách lão chừng hai bước chân, ĐẠI ĐIÊN làm bộ uể oải giơ một bàn tay lên, xoè ra trước mặt quát: "Dừng!" Cùng với tiếng quát của pháp sư, như có một sợi dây thừng dằng TỪ LỘ sững lại. Cẳng chân nặng như đeo chì. TỪ nhoai người cố bứt ra khỏi các sức vô hình mà khủng khiếp như ngàn cân mỗi lúc một đè nặng lên hai vai. Nhưng người chàng cứ muốn rũ lả xuống. ĐẠI ĐIÊN cười kàh khà, đưa tay rút cây thiền trượng lên khỏi mặt đất. Thong thả buộc mấy cái nút áo vừa cởi, ĐẠI ĐIÊN quay người đủng đỉnh bước đi như không hề để ý đến chàng thanh hiên đang đứng sững bất lực mặt mày xám xanh vì uất ức. Cùng với bước chân uqay di của ĐẠI ĐIÊN, cái sức nặng cô hình mà khủng khiếp cũng như đột ngột cất khỏi hai vai, khỏi thân thể TỪ LỘ. TỪ rùng mình. Chàng mím miệng hít một hơi dài, nắm chặt lại cây gây trúc. Tay vung gậy lên cao, nhẩy ba bước dài, TỪ đến sát sau lưng ĐẠI ĐIÊN. Gậy trúc nhằm thẳng đỉnh đầu bóng loáng của ĐẠI ĐIÊN bổ xuống. ĐẠI ĐIÊN vẫn đủng đỉnh bước một đi về phía những tảng thịt trâu nướng thơm phức trong miếu Sơn thần. Gậy trúc trong tay TỪ LỘ sắp bổ xuống thóp đầu trọc của pháp sư thì bỗng như có bàn tay người từ trên cao thò xuống giữ đầu gậy lại. Cũng từ trên thinh không, một giọng nói như ghé sát vào tai TỪ thầm thì mà chàng nhận ngay ra đó là giọng nói của cha chàng: "Chớ…! Chớ…! Giết hổ phải cần hùng. ĐẠI ĐIÊN có phép lục thông. Con ta chưa đủ sức". Cây gậy trúc như tự quay đầu lại, và thoắt cái lại trở về nằm gọn trong tay TỪ LỘ. Khi đó ĐẠI ĐIÊN mới đủng đỉnh quay nhìn lại. Đôi mắt của hắn rờn rờn ánh mắt thôi miên như mắt cọp trong đêm. Bắt gặp kẻ ngơ ngác thảng thốt của TỪ LỘ, ĐẠI ĐIÊN cười lớn: - Ta có lời nguyền. Khi nào buộc phải giết người thì mỗi ngày chỉ giết một mạng. Ngày hôm nay đã đủ một đứa rồi - Pháp sư giơ đầu cây thiền trượng chỉ vào xác cô gái nằm trong vũng máu - Vậy ta tha cho mi… Con chách trấu bé nhỏ tội nghiệp! Nói rồi, ĐẠI ĐIÊN đặt thiền trượng lên vai, xốc lại áo chùng, ngửa cổ nhìn vọng lên trời đêm, cất một tràng cười buốt óc… Trước cửa rừng QUÍ VŨ đêm hội CHEN đến phần vui vẻ huyên nao nhất. Trò CƯỚP KÉN. Trống vẫn thì thùng điểm nhịp. Chiêng vẫn dóng dả vang vang. Mõ vẫn trầm trầm chen tiếng. Những đôi trai gái đã ăn ý cùng nhau bây giờ tản ra, tay nắm tay tiến vào trong bóng tối âm u của rừng. Cánh rừng già thở hổn hển dưới trời sao và những dải sương trắng chăng ngang. Năm ấy, nhiều đứa trẻ ra đời sau chín tháng mười ngày trên đất QUÍ VŨ sau đêm hội CHEN không có vẻ gì là con cái của SƠN THẦN. Những đứa trẻ từ lcú lọt lòng mẹ đã có vầng trán dô, đôi mày dài và cặp mắt đỏ nhìn lâu không chớp.
Chương 7 TIỂU ĐĂNG KHOA Diên Thành hầu phu nhân bệ vệ trêm sập gụ khảm ốc lóng lánh. Bộ xiêm áo bằng đại vóc màu hoàng thổ của bà ganh đua cùng vòng vàng xuyến ngọc nổi bật trên tấm gối dựa bọc da cáo đen. Từ người phu nhân toả ra mùi hương sực nức. Mùi hương này được chưng cất bởi mồ hôi, có khi cả máu của những gia nhân xấu số chẳng may bỏ mạng trên con đường thiên lý đi tìm laòi trầm đắt giá nhất tại bắc phương để ủ cho nhà Diên Thành hầu. Cứ mỗi năm một lần, những phó quan gia cha truyền con nối của nhà hầu lại phải dẫn một tốp mười ba gia nhân cưỡi ngựa mang bạc thoi vangf nén đi qua xứ Lạng, vượt đường dang nước ĐẠI TỐNG, tới tận TÔ CHÂU lùng mua các loại trầm quí nhất cho phu nhân. Những lò hương được đặt trong mấy gian phòng lớn treo đầy quần áo và cái mùi trầm sang trọng đó cứ toả quanh năm để ướp hương cho quần áo xiêm y của toàn gia Diên Thành hầu. Cất giọng sang sảng quyền quí, phu nhân nói với vien thư lại đang ngồi trên chiếc đôn thấp với cuốn sổ và chiếc bút lông đẫm mực khư khư trên tay: - Này TRẦN MỤC… Nhà ngươi vừa nói đến bảng kê biên quà mừng cưới của tri châu LẠNG GIANG phải không? TRẦN MỤC khúm núm: - Dạ bẩm phu nhân… Bảng của tri châu LẠNG GIANG con đã đọc xong. Hai đôi tay gấu này loại lớn nhất đấy ạ… Lại còn chiếc sừng tê cỡ đại… Con đồ rằng trong ngự y cũng chưa chắc có được… Phu nhân mỉm cười mãn nguyện. Bà khẻ hất hàm. TRẦN MỤC cúi đầu hắng giọng đọc tiếp: - Hạ quan, tri phủ BÌNH GIANG là LÊ TRƯỜNG TÍCH lòng thành cúi đầu dâng lời cầu chúc lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử. Tài hèn sức mọn, hạ quan xin có chút lễ sơ sài dâng lên bề trên, những mong được ân trên lượng thứ. Gồm: Trâu năm xoáy. Lợn năm móng. Trầu vàng cau tía ba mâm. Ngự tửu hạ thổ… Phu nhân thoáng cau mày: - Chọn ngang lễ nạp thái của Hoàng tử! Tri phủ BÌNH GIANG rõ khéo… Ta biết, từ đời cha hắn đã giỏi việc đoán ý chiều lòng bề trên. Nhưng năm nay phủ BÌNH GIANG mất mùa đói kém lắm hay sao mà quan phụ mẫu chỉ soạn một lễ bạc thế này…? TRẦN MỤC lét mắt nhìn phu nhân, thưa: - Dạ bẩm… bảng kê còn dài ạ… Dê béo hai mươi con. Cá chép hai trăm con. Tôm hùm hai trăm đôi. Gạo tám hương hai mươi gánh. Gạo cẩm hai mươi hộc. Gà cẩm kê sống hai đôi. Ngoài ra, bẩm phu nhân. Gấm tia mười hai cây. Lụa điều hai mươi tấm. Vàng thoi năm nén. Ngọc bích ba đôi… Trên gương mặt của Diên Thành hầu phu nhân giản nở một nụ cười. Phu nhân khẽ gạt đầu. Biết ý, TRẦN MỤC vội nhoai người khom lưng đặt cuốn sổ vào tay phu nhân. Phu nhân liếc vài dòng, rồi chợt cau mày: - Ta chưa thấy danh tính của tri phủ châu HOAN, châu ÁI… Lũ này chết cả rồi sao? TRẦN MỤC cúi đầu: - Dạ bẩm… Châu HOAN, châu ÁI đường về kinh xa xôi hiểm trở. Dân tình ngang ngạnh… Tri phủ hai châu cũng có lễ vật dâng về. Nhưng tin cấp báo ra chiều qua, nửa đường bị kẻ đói chặn cướp mất một xe vàng lụa, giết ba lính áp tải. Chắc lúc này lũ tri phủ hai châu đang thu thập thêm cho đủ lễ vật dâng về kinh… Phu nhân thở dồn dập: - Liệu có tin được lời lẽ của bọn quan bất tri dân bất nghĩa này chăng? Ta tưởng từ khi phu quân ta tâu lên Hoàng thượng cho biếm chức tri phủ của ĐINH XƯƠNG, cất nhắc BÙI VĨNH lên thay ở châu HOAN thì đám hào lại ở đây thấm lễ nghĩa hơn… Bà trừng mắt nhìn TRẦN MỤC: - Chỉ tại ngươi chập chạp như một con rùa già. Ta đã nhắc cách đây một tháng, rằng phải xuống trát đàn hặc lũ tri phủ tri châu về tội lười biếng, không để ý gì đến dân trong hạt. Nếu không mau sửa đổi, sẽ bị biếm chức. Lũ đó dù ng* muội, song ngầm ý của những cái trát đó thì mau hiểu lắm! TRẦN MỤC khúm núm: - Dạ, bẩm, con đã gửi cách đây cỡ vài chục ngày. Nhưng xin phu nhân bớt giận, đường sá xa xôi, dân tình đói kém, không phải vị tri phủ trị châu nào cũng thu xếp ngày được… Có tiếng cô hầu gái nhẹ nhàng bước vào: - Dạ bẩm phu nhân… Có Thái sư phu nhân LÊ VĂN THỊNH cùng gia nhân đặt kiệu trước phủ để vào mừng lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử ạ. Diên thành hầu phu nhân đưa tay sửa lại món tóc đã điểm bạc rủ xuống trước tán. Phu nhân chưa cần truyền lệnh thì TRẦN MỤC đã biết ý, vội ôm sổ nhanh nhẹn lui bước vào nhà trong. Diên Thành hầu phu nhân vừa kịp cuốt lại nếp áo quần thì đã thấy một vị mệnh phụ vóc người cao lớn, bước đi nhanh nhẹn mà đài các đang tiến vào nhà. Theo sau là năm gia nô mặc đồng phục, lễ mễ tráp đỏ trên tay. Gương mặt mệnh phụ tròn vạnh như trăng đêm rằm. Một đường ngôi thẳng tắp chia món tóc trước trán làm hai nửa vẫn giữ màu đen mướt khiến càng tăng vẻ đoan trang, nghiêm nghị. Là vợ một vị Thái sư nhất phẩm, quyền cao chức trọng, lại nhiều tham vọng mà Thái sư phu nhân trang phục thật giản dị. Bộ xiêm áo bằng lụa vẫn hoa màu xanh nhạt với đường cắt may tinh tế, phần trên ôm vừa khít đủ tôn chiếc cổ cao và bộ ngực thanh nhã, chảy xuôi như một dòng suối chưa tới eo lưng đã dừng lại toả rộng, tha thướt đủ cho thấy sự bọn bề hào hoa của chủ nhân. Tay không vòng xuyến. Đồ trang sức duy nhất trên người bà là một viên ngọc trai màu hồng to bằng quả trứng chim đung đưa trên giải dây lưng lụa bạch, dìu dịu toả sáng ngờm ngợp như có linh hồn. Nghe nói đó là viên ngọc trai quốc bảo của vua CHẾ CỦ nước CHIÊM THÀNH ven biển đông. Những đêm trăng sáng, vua CHẾ CỦ thường mang viên ngọc trai này ra cho uống ánh trăng. Chừng một trống canh, khi trăng viên mãn, viên ngọc bõng chói sáng, sắc cầu vồng lunh linh rực rỡ. Áp viên ngọc trai đã uống ánh trăng đó lên tai thì nghe cả tiếng gió biển âm u, sóng biển rì rào, các thuỷ thần thì thầm trò chuyện với nhau từ đáy đại dương sâu thẳm vọng tới. Mùa xuân năm KỶ DẬU (1069) THÁNH TÔNG hoàng đế thân chinh đi đánh CHIÊM THÀNH, có LÝ THƯỜNG KIỆT làm tiên phong, bắt được CHẾ CỦ giải về kinh, thu phục ba châu ĐỊA LÝ (Nay là đất LỆ THUỶ, QUẢNG BÌNH), MA LINH (Nay là đất huyện BẾN HẢI, QUẢNG TRỊ), BỐ CHÍNH (Nay là đất các huyện BỐ TRẠCH, QUẢNG TRẠCH, TUYÊN HOÁ của QUẢNG BÌNH). Không hiểu sao viên ngọc trai truyền kỳ đó lại đông đưa bên giải dây lưng của phu nhân quan Thái sư LÊ VĂN THỊNH. Thái sư phu nhân cúi đầu thi lễ: - Khắp kinh thành đang dậy lời đồn đại, tán dương sự hào hao của đại công tử con quan Diên Thành hầu. kẻ nghèo hèn này hôm nay may mắn được đích mục sở thị, mới thấy rằng lời ấy chẳng phải ngoa truyền! Diên Thành hầu phu nhân thoáng nhìn vẻ đoan trang của Thái sư phu nhân, liếc xuống bộ xiêm y rực rỡ mình đang mặc, trong lòng dấy lên chút ghen tị vì biết mình dù có phô ra muôn sự phsu quý thì vẫn không địch nổi cái vẻ đĩnh đạc sang cả trong người đàn bà vợ vị trạng nguyên nhất bảng của khao thi đầu tiên của triều đình mở năm ẤT MÃO. Nghe nói, Thái sư phu nhân thường dậy vào đầu giờ dần để giúp chồng xem xét, soạn thảo giấy tờ biểu tấu trước khi dâng lên vua. - Không dám không dám… Thiên hạ quá lời… Diên Thành hầu phu nhân đáp lại, không giấu nổi nét cười nhẹ mãn nguyện: - Một người thông tuệ như phu nhân thì còn gì lạ lời đồn thổi từ nhà quyền quý đến đám tiện dân ở chốn kẻ chợ này… - Có sao… Có sao… Đại công tử nahfta nức tiếng là con người hào hoa. Tiểu thư nhà nào may mắn lọt vào mắt xânh của đại công tử, đặt chân trước từ đường nhà này thật là đại phúc… Diên Thành hầu phu nhân miệng vẫn còn giữ nụ cười mà trong lòng xót như chà muối. Phu nhân đã mất biết bao nhiêu công sức để ngăn trở cái lễ Tiểu đăng khoa oan nghiệt này. Nhưng đứa con trai ngang ngược đã bất chấp tất cả. Giờ đây, chính tai phu nhân đang lại phải nghe những lời lẽ mà bên trong chiếc vỏ bọc ngọt ngào đó đang rình rập vô số mũi dao. Chừng như thấy lời lẽ ý tứ của mình như vậy cũng đã đủ, với nụ cười nửa miệng cao ngạo, duyên dáng. Thái sư phu nhân khẽ đưa mắt sang bên phải, nơi đám gia nhân của bà, trái hẳn với phong cách ăn mặc trang nhã của chủ nhân, ăn mặc phục sức rực rỡ cầu kỳ, để chứng tỏ gia chủ là một người hào phóng. Đám này đang nhất loạt cúi đầu chờ lệnh. Sau cái đưa mắt của bà, ba gia nhân đỡ một chiếc tráp sơn son thiếp vàng phủ lụa điều răm rắp bước lên phía trước. - Phu quân tôi có chút lễ mọn mừng ngày vui của đại công tử… Thái sư phu nhân khẽ nghiêng người, tự tay nhấc vuông lụa điều. - Xin mạo muội mừng lễ Tiểu đăng khoa của đại công tử. Những mong phù hợp với sở thích của phu nhân. Vuông lụa rơi xuống nằm sõng sượt trên mặt đất, một ánh sáng chói loà đập vào mắt. Diên Thành hầu phu nhân không kìm được tiếng reo kinh ngạc. Một con trâu đúc bằng vàng khối hiện ra. Dáng đồ sộ của khối vàng và những nét chạm trỗ cực kỳ tinh xảo khiến người đã quen mắt với những kỳ trân dị bảo chốn cung đình như Diên Thành hầu phu nhân cũng phải loá mắt. - Còn đây là quà mừng cô dâu. Mừng cô dâu bay bổng thanh cao…! Lời nói chưa dứt, sau một tiếng “tách” nhỏ, đáy tráp bỗng bật mở, phô thêm một bảo vật nữa, những người chứng kiến càng kinh ngạc bội phần. Trước mặt Diên Thành hầu phu nhân là một con rồng kết thành bởi những hạt ngọc màu hồ thuỷ hắt sáng. Viên hồng ngọc được gắn làm mắt rồng hơi lẹm ở phía dưới khiến trông như con rồng đang nhỏ lệ. Đôi lễ vật trâu vàng rồng ngọc đặt cạnh nhau, mới nhìn chỉ thấy thật cân xứng. Trông kỹ hơn một chút, mới nhận ra rằng rồng thì thanh cao uốn khúc hướng lên chín tầng trời, mà trâu thì chỉ vục mặt xuống đám cỏ ở dưới đất, người tinh ý sẽ cười thầm vì sự cọc cạch khôn tả. Diên Thành hầu phu nhân không biết được rành rẽ điều ấy, bà thầm nhầm tính giá trị trâu vàng rồng ngọc, nở từng khúc ruột, quên cả việc người ngồi trước mặt bà đây đã thóc mách đến tận ngọn ng*ồn về nội tình nhà mình. Thái sư phu nhân dim mắt liếc nhìn khuôn mặt ửng đỏ của người ngồi trước mắt trước cặp lễ vật mình mang tới. Một sự thoả mãn dâng tràn trong bà. Vốn là con gái một ông đồ nho nổi tiếng vùng hiếu học đất KINH BẮC, gá nghĩa với chàng học trò LÊ VĂN THỊNH từ thuở còn hàn vi đêm nấu cháo ngày đồ xôi để chồng dùi mài kinh sử, từ con đường khoa bảng mà làm nên công danh, Thái sư phu nhân vốn coi thường đám thê thiếp trong triều. Bọn họ chỉ biết ỷ vào thế của chồng hoặc ỷ vào dòng họ hoàng tộc mà lên mặt kênh kiệu hơn người, tham lam thu vén cho đầy đụn đầy kho. Cứ như nhà Diên Thành hầu đây vốn nức tiếng giàu sang phú quí, nhưng xem ra đầu óc hạn hẹp, tầm nhìn cũng không hơn là bao so với đám trọc phú trốn quê mùa. Chắc hẳn Hầu phu nhân lần này thừa dịp đám cưới cậu quý tử mà ra sức bóp nặn lũ quan nha dưới quyền. May sao tiếng đàn sáo nhã nhạc từ bên ngoài vọng vào mỗi lúc một lớn, cắt đứt câu chuyện đã đến lúc khó nói của hai vị phu nhân vốn bằng mặt chẳng bằng lòng mà ở kinh thành này anh cũng biết. Diên Thành hầu phu nhân làm ra vẻ vội vã nhỏm dậy: - Ấy chết… Đám rước dâu đã về nhà… Xem chừng sớm nửa khắc đấy… Mời Thái sư phu nhân tiện có mặt dự mừng, ban phúc cho đôi trẻ. - Xin đa tạ… Phu nhân cho tôi được kiếu. Đến gặp được phu nhân như thế này là rạng mặt cho chúng tôi lắm rồi… Còn việc lễ trọng của đại công tử, chúng tôi đâu dám… Đám gia nhân nhất loạt rạp mình chào Diên Thành hầu phu nhân rồi quì xuống, đỡ Thái sư phu nhân lên kiệu. Dẫu vậy, trên quãng hoa viên mênh mông dẫn lối ra khỏi dinh thự nguy nga của Diên Thành hầu, Thái sư phu nhân cũng kịp liếc mắt điểm mặt đám kiệu rkieeudâu dài dằng dặc vừa về đến cổng đang dừng lại để bà già dẫn đường vung những nắm tiền đồng ban phát cho lũ người hiếu kỳ bạo dạn đang đứng chờ xem mặt cô dâu trước dinh thự. Kiệu vừa dừng trước nghi môn, công tử LÝ CÂU hớn hở vén rèm. Những người đứng chung quanh sững sờ kinh ngạc vì vẻ đẹp thuần khiết của cô dâu. Gương mặt trắng xanh của NHUỆ ANH tiểu thư như một đoá hoa hàm tiếu dưới chiếc mũ phượng, vươn cao trên cổ ai bát ty màu đỏ thêu hình mặt trời và những con chim phượng đang nhẩy múa. Thân áo bát ty rủ dài êm ả xuống chiếc xiêm cũng bằng đoạn bát ty màu bạch tuyết phái dưới gấu có đường viền xanh như cỏ chuốt. Dưới những lượn sóng rờn của lụa là gấm vóc, đầu mũi đôi hài nhỏ chập chờn hé lộ. Bên kiệu có sau thị nữ mặc áo mã tiên. Hai người cầm đèn lồng chạm rồng. Hai người cầm cành thiên tuế. Hai người bưng tráp trầu và hộp hương bằng ngọc… Khoảng cách giữa kiệu của Thái sư phu nhân và kiệu hoa của cô dâu tuy không gần nhưng cũng đủ để cho đôi mắt tinh tường của phu nhân kịp nhận rõ vẻ nhìn xuống vẻ ngoan ngoãn và cam chịu của cô dâu. Vốn đã hỏi han rất kỹ về mối tình của NHUỆ ANH với TỪ LỘ con trai quan Tăng đô án vừa bị sát hại, vụ nghi án vẫn còn đang gây bao lời đồn đại khắp chốn kinh thành, trong lòng Thái sư phu nhân không khỏi chợt dấy lên một chút khinh bỉ về sự bạc bẽo của người con gái đang ngồi trên kiệu hoa kia. Và một người mới nhập cuộc nhưng đã rất thông thạo những nghi thức lễ nghĩa chốn cung đình, Thái sư phu nhân hiểu ngay rằng cậu quí tử nahfnày đã ngông nghênh dám dùng y phục nghi trượng trong đám cưới công chúa để làm sang đám cưới y. Thái sư phu nhân nhếch nụ cười nửa miệng. Nhất định bà không bỏ qua sự ngạo mạn này. Phu nhân tự dặn mình rồi cho xe ngựa chạy thẳng về dinh ở hướng Nam kinh thành. Lúc đó, dưới tấm nghi môn "Diên Thành hầu phủ", từ noãn các vào tới chính đường, các cánh cửa đều mở toang, phô ra những đôi câu đối sơn son thếp vàng chói lọi. Trước chính đường treo cao bức đại hoành phi bốn chữ khảm vàng: "Diên Thành hầu tôn từ". Dưới hoành phi là bài vị của Thái tổ hoàng đế. Hai bên tả hữu bàn thờ đặt hai chiếc đôn cẩm thạch, trên có trải nệm lông hắc thử dể hút hơi ấm xua tan cái rét tháng ba. Khoảng giữa hai đôn là một bồn lớn đựng những viên than cháy đỏ toả hơi ấm sực. Diên Thành hầu và phu nhân uy nghi trên đôn. Lại mười tám chiếc kỷ trạm rồng phượng đặt thành hai hàng đối diện nhau. Bên mỗi kỷ là một lò sưởi nhỏ bằng đồng. Ngồi chỉnh chiện trên mười tám kỷ là các bậc huynh trưởng trong hoàng tộc. Cảnh tượng uy nghi là vậy. Nhưng từ Diên Thành hầu đến các bậc huynh trưởng trong họ đều không giấu được cái vẻ mặt gượng gạo trên mặt. Hai thị nhữ nhẹ đỡ NHUỆ ANH tiểu thư xuống kiệu. Công tử LÝ CÂU sóng đôi cùng NHUỆ ANH bước đến vái chào song thân, hoàng tộc và bàn thờ gia tiên. NHUỆ ANH nhìn những gương mặt lạnh lùng giàn ra trước mặt nàng. Những ánh mắt như xuyên thấu người nàng, thầm định giá nàng như một đồ vật giữa những đồ tế tụng nghị trượng chói sáng. Nàng đã phải quỳ xuống vái lạy không kể xiết bao nhiêu lần. Thân thể mảnh mai của nàng mỗi lần cúi xuống lại lẩy bẩy muốn ngã néu không có hai thị nữ luôn dìu dỡ hai bên. Riêng LÝ CÂU thì chẳng còn bụng dạ nào để vào những thứ nghi lễ phiền toán và dai dẳng hành hạ hắn lúc này. Chú rể nhổm lên cúi xuống vái lạy như một cái máy. Và mỗi lần ngẩng lên cúi xuống, cặp mắt lại không thể rời được khoảng gáy trần của NHUỆ ANH kề ngay bên vai hắn. Trắng ngần và thon nhỏ như một đài hoa huệ và được khoá lại bởi chiếc kiềng vàng nặng chĩu do chính tay LÝ CÂU tròng vào, bám khoá trong lễ tơ hồng ở sân nhà gái. Mỗi lần như thế trong lòng LÝ CÂU lại cháy rực một nỗi thèm khát điên cuồng được ôm vào trong vòng tay cái thâm thể này, ngấu nghiến hôn lên cái gáy mảnh mai trắng ngần này… cho thoả tất cả những nỗi thèm khát nung nấu trong hắn, mỗi ngày mõi thiêu đốt, ngay từ lần đầu tiên nhìn tháy NHUỆ ANH trong buổi dâng hương ở sân chùa TỪ ĐÀM. Đôi lúc cái ý nghĩ tàn bạo điên cuồng được ghé miệng cắn nát cái gáy kiêu hãnh đó, vò nát giày xéo lên cái thân thể đồng trinh đó… để trả thù lại bao nỗi uất ức, tủi nhục mà sự cao ngạo của nàng đã gây ra cho một người như hắn, đường đường là một vị đại công tử, tập ấm chức hầu danh giá nhất triều đình. TỪ LÔI đã bỏ đi biệt tăm tích. Nhưng LÝ CÂU cảm thấy cái bóng của tình địch vẫn thấp thoáng đâu đây, lẩn khuất sau những gương mặt, những đèn nến nghi trượng, những mâm cao cỗ đầy trong tiệc cưới này. Và chỉ cần thoáng thấy bóng TỪ LỘ, cái thân thể đồng trinh bên hắn đây, cái gáy trắng ngần thon thả như một đài huệ này sẽ tan nhoà, sẽ biến mất như một ảo ảnh… Ý nghĩ đó nhói lên làm LÝ CÂU như nghẹt thở. LÝ CÂU nghiến răng, cố nhìn kỹ mặt NHUỆ ANH. Nét mặt buồn, nhưng cam chịu, ngoan ngoãn thành kính vái lạy cha mẹ và các bậc huynh trưởng. LÝ CÂU thấy yên lòng. Nhưng đôi môi hắn mím chặt. Con chim nhỏ ngang ngạnh bướng bỉnh đã trở nên biết điều an phận trong lồng son rồi. Nhưnghãy chờ đấy, cái lồng son này cũng sẽ có lúc trở thành chốn địa ngục… Cuối cùng thì những quy định phiền phức những lễ nghi dai dẳng trong đám cưới công tử của một đại gia đại phú cũng đã xong. Tiếng đàn sáo lại réo rắt vang lên. Từng dẫy đèn lồng thắp lên trong nhà, ngoài vườn. Cô dầu đã được dẫn vào phòng tân hôn chuẩn bị làm lễ hợp cẩn. ________________________________________ Nhưng công tử LÝ CÂU lúc này lại vẫn ra vẻ không hay biết. Công tử vẫn lượn lờ ngửa cổ nốc từng chung rượu lớn, cười đùa bỡn cợt với đám bằng hữu đang ngồi ngả nghiêng trên chiếu rượu đã gần tàn hoặc chen vơi thích cánh trong những chiếu bạc vừa mới mở ra la liệt ngoài sảnh. Ban sáng, lúc chuẩn bị rước dâu, bà mai đã dặn đi dặn lại LÝ CÂU về lễ hợp cẩn. Chú rể sẽ phải lấy miếng trầu trăm trong tế tơ hồng để dành trao cho cô dâu một nửa. Rồi rót một chén rượu, hai người cùng uống cạn. Rồi vợ trải chiếu lạy chồng hai lạy. Chồng đáp lại vợ một vái… LÝ CÂU nhăn mặt cố nhịn, nghe hết những lời ê a thốt ra từ cái miệng móm mém lúng búng đỏ nước cốt trầu của bà mai đã ngoài bảy mươi tuổi. A ha! Lễ hợp cẩn… Có thế mới nên vợ nên chồng… Công tử CÂU muốn phá lên cười. Bây giừo miếng trầu trăm vẫn nằm gọn trong túi áo gấm đây. Đáng lẽ miếng trầu này phải đặt lên chiếc đĩa có hình song phượng trên bàn trong phòng đôi tân hôn. Nhưng LÝ CÂU muốn làm ngược lại. Lúc lễ tơ hồng trên sân nhà gái, đáng lẽ miếng trầu trăm phải được nâng niu nhấc lên, khe khẽ bọc lại bằng một vuông lụa đào. Nhưng LÝ CÂU lại đưa tay nhón lấy bỏ vào túi, làm nát cả đôi cánh xanh xinh xinh của miếng trầu. LÝ CÂU muốn NHUỆ ANH và mọi người biết rằng, trên đời này đại công tử LÝ CÂU muốn làm gì thì làm, chẳng phải nghe ai, chẳng cần tuân theo luật lệ. "Ta sẽ móc túi lấy miếng trầu trăm ra, và hỏi nàng có nhớ lễ VU LAN ở TỪ ĐÀM năm ngoái. Nàng đã từ chối mời ta một miếng trầu. Lại kiêu căng ra sao trước mặt Hầu công tử này. Bây giờ miếng trầu đó đây. Ta không mời ta mà ta cũng chẳng mời nàng. Miếng trầu này cũng nhưu thân phận kiêu sa của nàng đó, từ nay sẽ thuộc về ta, hoàn toàn thuộc về ta. Miếng trầu trăm ta không ăn mà sẽ xéo nát dưới chân như nàng đã làm đối với ta trong lễ VU LAN ngày đó…". Những ý nghĩ cứ loé lên, lúc ng*ội tắt trong đầu LÝ CÂU. Chuếnh cháng hơi men, LÝ CÂU không còn nghĩ gì đến thể diện, sán đến phường con hát đàn địch mua vui cho đám quan lại quý tộc cự phú, lả lơi cười nói, bẹo má, bế cả lên đùi ngồi bỡn cợt. Đám con hát cười như nắc nẻ, rồi chợt bụm miệng sợ hãi vì sực nhớ đang ở giưũa lễ Tiểu đăng khoa của công tử. Mãi đến lcú mấy tên gia nhân đầu chít khăn điều hớt hải tìm, nói phu nhân truyền cho đại công tử vào ngay để làm lễ hợp cẩn kẻo lơc giờ tý tốt lành LÝ CÂU mới làm vẻ như buộc phải tuần lời. Và lúc đó, dù chuếnh choáng hơi men, đại công tử họ LÝ cũng chợt hiểu ra rằng, không phải NHUỆ ANH mà chính hắn, chính hắn, sau bao nhiêu công sức, cơ mưu để đi tới được ngày hôm nay, thì đến lúc này tất cả sự thèm khát cùng dục tình hàng ngày vẫn ngùn ngụt bốc lên hành hạ tâm can hắn giờ đây lại như cơn thuỷ triều vào độ trăng khuyết. Nước rút đi để lại bờ bãi hoang vắng xác xơ. Hắn chần chừ vì ngại ngùng, sợ hãi phải giáp mặt với nàng. LÝ CÂU chệnh choạng theo hai thị nữ cầm đôi nến hồng dẫn đến trước cửa phòng tân hôn. Trong hơi rượu mu mơ đầu óc, hắn bậm môi đoán thầm xem lúc này NHUỆ ANH đang làm gì. Hoặc sẽ là một gương mặt, một cặp mắt phẫn uất căm thù. Hoặc sẽ là một thái độ lạnh lùng nhẫn nhục cam chịu. Cả hai hắn đều không muốn. Như mọi người đàn ông bình thường khác lúc này, cùng với những bước chân gần đến hai cánh cửa ngăn cách kia, trong ngực hắn bỗng nhói lên nỗi niềm khao khát mong đợi được mềm yếu được vuốt ve chiều chuộng yêu thương. Hai thị nữ dừng lại trước cửa phòng. Cả hai ngước mắt nhìn lên đại công tử, và mỉm cười. Nụ cười cầu tài lấy lòng khiến LÝ CÂU như chợt tỉnh. Hắn móc túi lấy chút bạc vụn thưởng rồi giật phắt lấy cây nến, gạt hai đứa sang một bên, kiên quyết đẩy mạnh cánh cửa bước vào phòng tân hôn. Căn phòng tróng hoang, lặng ngắt như tờ. LÝ CÂU giơ cao cây nến trong tay, đứng ngẩn, Hơi men thoắt tan biến. Mọi thứ vãn còn nguyên đó. Chiếc giường cao chạm trổ cầu kỳ rèm che chăn rồng gối phượng. Chiếc kỷ nhỏ chân quỳ có đặt bình rượu cẩm và chiếc chén "quân độc ẩm" úp bên. Chiếc chiếu cạp điều cuộn tròn để đợi bàn tay cô dâu trải ra đón lễ hợp cẩn. Phía góc nhà, chân dèn dầu lạc bập bùng ngọn lửa. LÝ CÂU đã nhìn thấy trên tấm nệm hồng trải giường, chiếc áo lụa bát ty khoác ngoài thêu mặt trời và chim phượng mà NHUỆ ANH vừa mặc. Những giọt nến hồng nhỏ xuống bàn tay rát bỏng. Nhưng LÝ CÂU không hay biết. Hắn cứ đứng thế trân trân. Rồi hắn cúi nhặt lên những ngọn trâm cài đầu, những chiếc vòng vàng nhẫn ngọc, đôi hoa tai… Tất cả đồ sính lễ mà hắn đã mang tới cho NHUỆ ANH. Tất cả đều được bỏ lại cùng chiếc kiềng vàng chạm hình rồng đeo cổ. Móc khoá của chiếc kiềng vàng đã bị bàn tay, không phải bàn tay, mà là những vết răng cắn còn vương máu, bẻ gẫy. Gió lạnh lùa vào tung phần phật đôi rèm cửa sổ lụa hồng khiến LÝ CÂU ngẩng nhìn, bước nhanh tới. Trước mặt hắn là khoảng tối đen của khuôn viên sau lầu cao. Xa hơn nữa là hàng rặng cây mai cây ổi đen sẫm dăng mành hai bên bờ sông TÔ. LÝ CÂU đã nhìn thấy một dải lụa trắng xé từ những lá màn cửa, rèm giường nối nhau xoắn lại thành sợi dai chắc buộc vào song cửa sổ, dòng từ thành cửa gỗ xuống khoảng đen sâu thẳm khuôn viên. … Nàng đi rồi…! Thế là xong… Thế là hết…! Hết tất cả…! Những tiếng chói óc vang lên từ trong sâu thẳm tâm trí LÝ CÂU. Hắn thẫn thờ bước lại bên chiếc kỷ chân quì. Hắn run run đặt cây nên hồng lên mặt kỷ. Ngồi xuống. Bây giờ hắn mới nhận ra những giọt nến nóng chảy đọng lại còn đang bốc khói trên mu bàn tay. Hắn cứ để nguyên thế, gật gù ngắm những giọt nến bỏng như ngắn nghía thưởng thực một vật gì lạ lẫm, tình cờ có được, tình cờ sa vào mu bàn tay hắn. Bên ngoài, một hồi trống thì thùng dội lên báo hiệu giờ tý đã điểm. Giờ khắc bắt đầu lễ hợp cẩn thiêng liêng của đôi vợ trồng trẻ. Đám con hát cũng tạm dừng để các đầo kép, nhạc công cùng hợp sức tấu lên bài ca cầu phúc cho cặp tình nhân được bách niên giai lão, giàu sang phú quý, con cháu đầy đàn. Lại thêm những ngọn đèn lồng, những cây bạch lạp được nối nhau đốt lên khiến trong lầu, ngoài hoa viên càng thêm tưng bừng rực rỡ. Trong phòng, LÝ CÂU vẫn lầm lì ngồi bên kỷ. Chiếc chiếu cạp điều đã được trải rộng ở bên. Chén rượu độc ẩm rót ra cạn lại đầy. LÝ CAU ngửa cỏ dốc vào miệng hết chén này đến chén khác. Thứ rượu cẩm ủ bằng hai mươi hai vị thuốc quý hạ thổ lâu năm thơm ngon có tiếng mới được kén dùng cho lễ hợp cẩn của con trai đệ nhất phẩm Diên Thành hầu mà sao lúc này mỗi chén đắng chát bóp chét lấy miệng, bóp chét lấy cổ họng. LÝ CÂU cứ uống. Uống mãi. Tiếng trống điểm canh, tiếng đàn sáo chúc phúc từ ngoài kia vẳng vào mỗi lúc mỗi xa xôi mơ hồ như tiếng ma tiếng quỷ, như tiếng vang vọng cẳng lên từ một đời kiếp nào khác. Bình rượu hợp cẩn đã trắng đáy. LÝ CÂU nhấc bình lên giơ ra trước mặt hấp háy mắt. Hết rồi… Thế là hết rồi…! Chó má cái lễ hợp cẩn…! Một lần nữa nhưũng tiếng nói mơ hồ lại vẳng lên trong LÝ CÂU. LÝ CÂU gục gặc đầu, mắt rờ bỏ bình rỗng, hướng lên và bỗng dừng lâu ở trên tường, nơi có treo kiếm báu gia truyền của hoàng cung. Thanh kiên đã được chính tay Đức THÁI TỔ hoàng đế trao cho cha Diên Thành hầu tức ông nội LÝ CÂU nhân ngày triều đình dời đô từ HOA LƯ ra THĂNG LONG để tưởng thưởng cho những quần thần đã có công lao trong việc dời đô, định đô. Dòng họ LÝ kiêu hãnh với thanh kiếm báu. Hôm trần thiết phòng tân lang, LÝ CÂU nằng nặc xin cha cho treo thanh kiếm trong phòng. Mọi người gàn quải, như thế sợ làm điều bất kính. Lại nữa, đêm động phòng hoa chúc của vợ chồng trẻ chẳng nên có đao kiếm. Nhưng LÝ CÂU vốn dĩ ngang ngược, đã muốn là đòi bằng được. Diên Thành hầu buộc phải chiều lòng cậu con trai độc. Hầu tắc lưỡi nói với phu nhân: "Nhà mình, mình biết. Bà có nhớ năm DIÊN VŨ tròn tuổi tôi, làm lễ định trí, bao nhiêu vật dụng bầy quanh, thằng bé đâu có ngó ngàng tới. Nó đạp chân nhoai người, tay với lên. Một tay nhặt hộp son phấn. Một tay quờ cây kiếm báu…!". LÝ CÂU xô đổ kỳ chân quì vùng đứng dậy. lại như ngày tròn tuổi tôi năm xưa, giờ đây LÝ CÂU lại trồm tới thanh kiếm báu. Roạt… Lưỡi kiếm rút khỏi vỏ, ánh lên thứ ánh sáng xanh rợn của loại thép quí trước ánh đèn và ngọn lửa nhảy nhót trên đỉnh nến hồng. LÝ CÂU nheo mắt, mím miệng đăm đăm nhìn lưỡi thép. LÝ CÂU đang đăm chiêu ngắm lưỡi kiếm thì giật mình vì trống điểm sang canh vọng tới. giờ sửu bắt đầu. Cái hình ảnh trâu vàng rồng ngọc kề bên nhau, quà mừng của quan Thái sư đầu triều mà Diên Thành hầu phu nhân đã nhanh tay sáng ý cho bầy lên trước bàn thờ gia tiên khi rước dâu vào dinh để khoe thanh thế giàu sang phú quí giờ đây lại ập tới trong đầu LÝ CÂU. Tay nắm chặt đốc kiếm, LÝ CÂU ngước đôi mắt vô hồn hướng ra ngoài cửa sổ. Vòm trời tháng ba xa rộng lấp lánh những vì sao chuyển mùa. Trong vùng sâu thẳm của trời đêm, LÝ CÂU nhắm mắt, lại thấy NHUỆ ANH. Gáy trắng như bông huệ. Xa vời. Kiêu hãnh trêu ngươi. LÝ CÂU thẫn thờ đưa đầu mùi kiếm hất chiếc áo choàng lụa bát ty thêu chim phượng. Chiếc áo lụa trơn ngập ngừng trên đầu mũi kiếm một giây, rồi lại lặng lẽ xoãi ra rơi xuống chiếu. Bất chợt cơn giận dữ ập đến. Một sức mạnh điên cuồng thoắt nhập vào kiến toàn thân LÝ CÂU tê cứng. Hừ… mày… à…! LÝ CÂU gầm trong họng. Lưỡi kiến dữ dội vung lên. Roạt…! Tấm áo choàng bát ty bị chém đứt phăng thành hai mảnh, một mảnh phật phờ rơi trở lại chiếu, một mảnh văng ra cuốn vào chân ngọn đèn dầu lạc ở góc phòng. LÝ CAU rít lên vọt đuổi theo mảnh lụa. Xoảng… Cây đèn bị chém ngang thân, dầu văng tung toé. Những giọt dầu bắn ra loang dần, kéo theo những vệt lửa ngoằn ngoèo như những vệt lân tinh bò lan trên tường, trên nền thảm trải phòng, trên giường hoa nệm gấm co dâu chú rể còn nguyên nếp và thơm quyện mùi trầm quý. LÝ CÂU như người điên. Hắn chống kiếm nhẩy dựng lên, giẫm đạp lên những vòng vàng, xuyến bạc, hoa tai, kiềng, nhẫn. Roạt… roạt…! Lại tấm màn cửa lụa hồng bị chém đứt. Roạt…roạt…! Tấm khăn trải giường bị hất cao, tung lên những lưỡi lửa bay quẩn quanh khắp phòng theo những đường kiếm lượn. Đến lúc LÝ CÂU mệt nhoài vì chém giết, chống kiếm đứng thở hồng hộc như con thsu giữ bị dồn đến cùng đường và những lưỡi lửa hung dữ ăn loang lem lém liếm rộng khắp căn phòng tân hôn ngổn ngang tàn phá thì bên ngoài vẫn không một ai hay biết. Hai thị nữ vẫn chồn chan mỏi gối ngoan ngoãn đứng hầu hai bên cửa phòng. Ngoài hoa viên Hầu gia, đám hát vừa giã. Phu kiệu í ới gọi nhau sắp đòn khiêng đưa những vị khách muộn mằn rời dinh. Đám cháy dữu dội dã thiêu huỷ toàn bộ dinh cơ lầu gác bên bừo sông TÔ LỊCH và đám cưới không thành của đại công tử con quan Diên Thành hầu đêm đó đã là câu chuyện bàn tán cửa miệng của người kinh thành THĂNG LONG suốt bao năm sau.
Chương 8 NGƯỢC THÁC OÁN Gió bất chợt cuồng nộ trên sông GÂM. Vòm trời cao xanh thoắt tối sầm. Mưa quật xuống ràn rạt xé rách da người. Cái bóng ebs nhỏ vận đồ đen kín mít bỗng chạt vụt lên mấy bưcớ rồi khựng lại. Và lồng lộn xoẫ xuống một mái tóc đen dài cũng đang giận dữ như cơn giông. Người đó đứng chôn chân. Nửa thân ngả đổ về phía trước ghìm trong gió vừa như lấy đà để bất chợt lao oà xuống dòng sông. TỪ LỘ muốn dụi mắt mà tay cứng đờ. Chàng lẩy bẩy bíu vào cụm nứa định nhổm người lên những không được. "Trời… NHUỆ ANH…?". TỪ vừa lắp bắp vừa thốt lên thì người trên lèn đá đã nhào xuống làm con bè giật mình chòng chành. Bóng áo đen dổ sập toàn thân ướt đẫm xuống chân TỪ LỘ. Trong ánh chớp của cơn giông rừng vừa loé lên như một nhát chém sáng loà xẻ ngang vòm trời cùng với tiếng sét dữ dội nổ tung khiến người vật cỏ cây muôn loài chết lặng, bên tai TỪ lại vẳng tiếng kêu nghẹn ngào, tiếng gọi tha thiết trỗi lên từ trong vùng ký ức sâu thẳm tưởng chừng đã muôn đời muôn kiếp lãng quên… * ** TỪ LỘ gò lưng tì vai chống sào đẩy bè ngược sông GÂM. Con sông về mùa cạn nước trong vắt có thể nhìn thấu đáy những viên đá cuội nhiều màu ẩn hiện và những đàn cá thân mỏng đuôi dài, hàng vẩy lưng óng ánh màu sắc lượn quanh đi lượn lại qua những cành nhánh rêu xanh đen dưới đáy sông. Nhưng bây giờ là mùa hè. Nước từ thợng lưu ào ạt đổ về các nhánh NHO QUẾ, MA NHI, PÁC NAM… Sông quặn mình chảy xiết. Bọt nước sủi sùng sục táp vào hai bên thành bè, tung lên quật ràn rạt vào mái nứa của chiếc cum uốn cong, nơi MINH KHÔNG và GIÁC HẢI hai người bạn của chàng mặc tiếng thác gầm nước réo vẫn ngủ mê mệt sau một đêm tiếp tay nhau chống bè vượt dòng sông dữ. Những ngày đầu tì vai lên sào, khom ngực nín thở chân dận ngước đẩy bè vượt lên sóng nước, cái đau nhói chạy lên suốt vai xuyên sống lưng làm tê dại nửa thân TỪ. Mảng mo cau già nhúng đẫm nước mà sáng sáng GIÁC HẢI đưa cho chàng áp lên vai chỉ một buổi là bợt ra xơ xác. Máu tụ tím bầm thành những hình tròn như đáy bát ở vai, ở ngực nơi cọ xát với đầu sào. Mỗi bước đi trên bè chệnh choạng, chênh vênh như bước trên giàn lửa. TỪ vẫn nghiến chặt hai hàm răng tì ngực tì vào đẩy sào không một tiếng rên. Cái đau cơ thể lúc này dẫu có ghê gớm cũng không thể so sánh được dù chỉ là phần trăm nghìn so với nỗi đau quặn thắt trong ruột gan tâm trí chàng kể từ buổi hoàng hôn nơi cửa rừng QUÍ VŨ. TỪ LỘ nhớ lại con đường gian truân đã dẫn chàng tới chốn ma thiêng nước độc này để dấn thân trên nẻo thăm thẳm đầy bất trắc mà đíc thì càng ngày càng như xa vời. Sau khi ĐẠI ĐIỆN đủng đỉnh bỏ đi, suốt ba ngày ròng TỪ đã như bát động trong một hang đá nhỏ giữa rừng cấm. TỪ nằm ngửa, mắt nhắm, chỉ thỉnh thoảng há miệng đón những giọt sương lạnh buốt từ nhũ đá trên nóc hang rỏ xuống. Hình ảnh pháp sư ĐẠI ĐIÊN cây thiền trượng buông lỏng trên vai, đủng đỉnh bước một trở vào hội CHEN cứ hiển hiện trước mắt. Tiếng cười ngạo nghễ đắc ý của ĐẠI ĐIÊN cứ nhức nhối mãi bên tai. Kẻ giết thuê độc ác đó đã ngang nhiên giết cha mẹ chàng, những người xưa nay chỉ biét dùng đạo từ bi mà đối nhân xử thế. Kẻ đó phá nát gia đình chàng, giày xéo lên cuộc đời chàng. Và nỗi thất vọng, bất lực về mình khiến những giọt nước mắt của TỪ LỘ lặng lẽ ứa ra, lặng lẽ chảy dài trong bóng tối. Một ý nghĩ mới hình thành, bám chặt tâm trí của TỪ sau ba ngày bất động trong hàng nhỏ rừng QUÍ VŨ. Kẻ thù của chàng là pháp sư, đa từng sang tận THIÊN TRÚC tìm thầy học được huyền thuật hơn người. Trong cõi nước Nam này không kẻ nào địch lại được ĐẠI ĐIÊN. Nếu chàng chỉ đem sức thư sinh mà đọ với hắn thì khác nào trứng chọi đá. TỪ nhớ lại tiếng kêu thảng thốt của cha trên rừng QUÍ VŨ. Suốt ba đêm TỪ mơ thấy ông, cái thây dựng đứng ướt đẫm rầu rĩ. Văng vẳng tiếng nghẹn ngào: "TỪ LỘ con! Cha đã lầm. Ta chỉ tu thiện, không biết phòng ác mới ra nông nỗi này. Không những chết không nhắm mắt mà còn làm liên luỵ đến vợ con, đắc tội với tổ tiên. Muốn trả thù cho cha mẹ, con hãy kíp nén lòng. Bao giờ thông thạo Lục thông, huyền thuật vượt ĐẠI ĐIÊN, khi đó hãy trở lại…". Nói rồi, cha chàng buông xuôi hai tay, tắt thở. Cái thây rầu rĩ đổ xuống songz soài trên mắt nước trôi ngược sông TÔ. Sang ngày thứ tư, TỪ lầm lũi trở dậy, hứng sương rửa sạch những vệt nước mắt đông cứng trên khuôn mặt hốc hác nhem nhuốc. TỪ soi thấy mặt mình trong vũng nước mưa phẳng lặng bé bằng bàn tay. TỪ bỗng thấy căm ghét những nét dịu dàng trên khuôn mặt thư sinh dưới đáy nước kia. TỪ muốn mình rắn rỏi, sắt đã. Một trấi tim quánh đặc máu đen chỉ dành cho việc trả thù. Lại một gương mặt bất chợt hiện lên dưới đáy nước, sóng sánh bên TỪ. Mày là làn khói vương ngang trên khoé thu ba không khóc mà long lanh như rớm lệ. Đôi mắt nhìn chàng chan chứa tình ái lẫn hờn trách và tiếc hận. Toàn thân TỪ thốt nóng bỏng nhớ lại những ngón tay lụa là ve vuốt của NHUỆ ANH. TỪ nhớ ngôi miếu hoang, nơi chàng cắn răng cố tàn nhẫn xua đuổi NHUỆ ANH, người con gái mà chàng sẵn lòng đổi cả tính mạng để giữ gìn nếu như không có cuộc ân oán này. Dội lên trong ngực một cơn khát. Chàng muốn lập tức chạy về kinh thành để biết được số phận của nàng, được nhìn thấy nàng một lần cuối…TỪ vùng dậy vơ nắm cành khô hấp tấp nhóm một đống lửa. Chờ cho những viên than đỏ rực bắt đầu hiện ra, TỪ nghiến răng dúi sâu ngón út của bàn tay trái vào giữa đống than. Cái ngón tay thổn thức nhất, cách đây chừng vài khắc vừa ấm lên, run rẩy tưởng chừng những ngón tay mềm mại của NHUỆ ANH vừa chạm vào. Những viên than hồng dính chặt vào da thịt. Cái đau xói lên óc. TỪ cất một tiếng thét đau đớn trong họng, ghìm sâu tay trong đống than đỏ. Bốc lên khét lẹt mùi thịt cháy. Khi TỪ rút tay ra, ngón tay đã cháy rã thịt, phần xương bên trong bầm dập như một nhánh cây bị tước hết vỏ. Nõi đau đớn do cuộc hành xác mang tới khién chàng thấy cơn khát trong lòng dịu vơi, dường như trong tim đã chứa đầy máu đen. Rồi TỪ lấy nhựa cây bôi đen mặt mũi, rách rưới như một kẻ hành khất, tay nải lên vai, dò đường tìm đến Thiền viện của THẬP QUẢNG Đại sư. Thời cha còn sống, TỪ vẫn nghe cha nhắc đến phép thuật cao cường và thiền viện bí ẩn của đại sư nằm cheo leo trong sương trên núi YÊN TỬ. Đường lên đỉnh núi lởm chởm đá tau mèo. Hai bên đường là rừng rậm chốc lại rung chuyển bởi tiếng hùm beo gầm gào. Trắn đánh võng trên các cành cây. Rắn phun nọc phè phè lạnh gáy. Đường càng đi càng ấmt hút dấu chân người. Chỉ vòn thấy những vách đá dựng ngược chắn ngang lối. TỪ đu mình vào rễ cây mà leo lên. Nhiều lúc thân treo lơ lửng trên vách núi, mười con tay bấu chặt vào đá đến tróc móng, hai cùi tay cố hợp sức ghì chặt lấy một mỏm đá giữ thân mình khỏi rơi xuống vực sâu thẳm đang ngoác miệng chừo trong tiếng kêu hú rợn người của đàn vượn lúc xa lúc gần ma quái… Mây quẩn quanh chân khi mờ khi tỏ như đùa giỡn che khuất đường đi chỉ lỡ nửa bước là tan xương dưới vực. TỪ không nhớ rõ là đã đi bao ngày, rách nát bao nhiêu đôi giày cỏ. Bnà chan mịn hồng mới đây được ấp ủ trong giày gấm, nay hết tứa máu lại sưng phồng và chằng chịt sẹo. Vậy mà thiền viện của THẬP QUANG đại sư cứ lcú ẩn lúc hiẹn, có khi tưởng đã trước mặt, hớn hở chạy đến lại chỉ thấy một khóm cây. Có lúc hoàn toàn biến khỏi tầm mắt. TỪ càng đi càng hoang mang, luôn thảng thốt rằng mình đã nhầm đường. Mỗi lúc chàng tuyệt vọng, nước mắt lã chã rỏ xuống đôi bàn chân rách nát, những muốn chết đi cho nhẹ nợ, thì thiền viện lại hiện ra như vẫy gọi. Mãi đến khi chàng lần đến được dưới một vách đá chót vót chọc trời, mười ngón chân sưng phồng như quả mận chín, đầu gối trái bị trẹo vì bám hụt vào mớ rễ cây bị đứt, vừa hồi tỉnh sau cơn choáng ngất, ngửa mặt lên thì thấy một ngôi nhà cỏ cheo leo trên vách núi. Mặt trời đã ngang tầm. Vách đá trước mặt còn cao vời vợi. TỪ LỘ neo được một khuỷu rễ thông già dừng lại để thở. Chợt nhìn xuống phía sau thấy một chú đạo sinh trạc mười một mười hai tuổi, áo nâu xốc xếch, tóc trái đào đang gò lưng gùi hai ống bương dài hơn người. Ống bương nước có vẻ rất nặng mà tiểu đạo sinh cứ thế thoăn thoắt nhảy nhót qua tai mỏm đá dựng ngược mà lên, trông như một chú sơn dương đương tung tẩy trên mặt đường bằng phẳng. Nước đầy sóng sánh trên miệng ống mà không một giọt tràn. Đạo sinh líu lô như chim hót: Tỳ kheo tỳ kheo - nón đeo Hành cước, hành cước - vượt đèo Nghiệp từ kiếp trước - thương khéo Trả lại kiếp này - bóng theo… Qua mặt TỪ LỘ, tiểu đạo sinh không nhìn lại không hỏi han. Đôi chân trần bé nhỏ vẫn thoăn thoắt thoăn thoắt. Chẳng mấy chốc lưng áo nâu với hai ống nước dài đã khuất sau những mỏm đá cao. TỪ LỘ cứ theo hướng tiểu đạo sinh mà leo, bỗng thấy chân mình lẹ làng nhẹ nhõm. Lối đi như rộng ra. Mặt trời quá đỉnh đầu. Càng lên cao sương núi càng âm u khí núi càng lạnh buốt. Leo mãi. Vượt qua một dốc đã trơn chuội có hàng thông trăm tuổi đứng như hàng lính canh đén một bãi đã xanh vân trắng trải dài… THẬP QUANG thiền viện là đây. Dẫy lều lợp cỏ lau nối nhau phơ phất như tóc bạc. Khoảng hơn hai chục đạo sinh ngồi kiết già hai tay chắp ngực mặt hướng về phía một gốc thông thân trăn mốc thếch ngọn vươn cao như trọc tới trời xanh. Không biết các đạo sinh này ngồi bất động đã bao lâu. Trên những mái đầu cắt trọc tóc mọc lởm chởm, trên những tấm vai trần bợt bạt vì sương gió của vào người bê bết lông chim, phân chim rừng. TỪ LỘ lúng túng chưa biết tính sao thì chú đoạ sinh gùi nước đã quay trở ra bãi đá. Lần này tiểu đạo sinh đến trước mặt, nhìn thẳng vào mắt TỪ LỘ, rồi vẫn không nói một lời lại quày quả bước đi. TỪ như người chợt tỉnh, vội bước theo tiểu đạo sinh. THẬP QUANG đại sư ngồi thiền trên một tảng đá lớn sau gốc thông già. Dái tai rủ chấm vai, mắt lộ môi dầy, cằm vuông trán đứng… Vóc người cao lớn. Thần thái uy nghi… khiến TỪ LỘ vừa nhìn thấy đã bủn rủn chân tay, thân thể như không còn xương cốt, quì sụp xuống. TỪ LỘ quì không biết bao lâu. Chàng cố hết sức để không gục xuống. Chân tay tê dại và cái đói khiến cho chàng như mê sảng. Khi chàng ngẩng đầu lên thì trăng đã đứng ngang trời. Khắp bãi đá và cả một vùng rừng núi trời đất mênh mông ngập tràn ánh vàng ngời ngợi trong vắt. Đại sư vẫn ngồi đó. Đôi mắt to tròn xoe như mắt cú rọi thẳng về phía chàng. Cái nhìn như xuyên qua tim. TỪ LỘ lắp bắp. Đại sư đưa năm ngón tay ra hiệu. Giọng Đại sư sang sảng thấu tận vào óc: - TỪ LỘ… Ngươi đã nhọc công đến dây tìm ta. Nhưng thiền viện của ta lập ra không phải để dung dưỡng niềm hận thì. Huyền thuật của ta rèn luyện không phải để lấy máu hại người. Vả lại, phép thuật của ta không bằng ĐẠI ĐIÊN… - Thưa đại sư… Con… - Ta biết nỗi đau đớn oan khiên khôn cùng mà ngươi đã phải gánh chịu. Âu cũng là nghiệp chướng buộc chân con người nơi trần thế. Thế gian này đâu cũng ngun ngún những đống lửa hận thù, hể có gió lẻ là bốc thành núi lửa. Ta cũng nhìn thấy ngùn ngụt lửa hận thù cháy trong mắt ngươi. Mà con đường đến với đức Phật ngắn nhất không phải đi trên những đống xương thù hận. - Thưa đại sư. Con từng nghe. Nhưng con đã thề trước vong linh cha mẹ và tổ tiên. Thân xác TỪ LỘ này kể từ đêm Nguyên tiêu năm nay không còn thuộc về TỪ LỘ nữa… Cả đời, song thân con chưa từng làm một điều ác. Tại sao gia đình con lại phải gánh chịu oan nhiệt đến như vậy? TỪ LỘ này chỉ sống để rửa hận mà thôi! - Còn trẻ người non dạ, ngươ chưa hiểu. Có quả ắt có nhân. Âu cũng là nhân quả từ kiếp trước… - Xin Đại sư xác tội. Vậy nếu con tìm đến đại sư, một mực xin học đạo pháp cao cường để báo oán, ắt cũng không phải do con muốn, àm phải có duyên nghiệp từ kiếp trước. Có bao nhiêu con đường đến với Phật tổ, con chưa có duyên thấu hiểu. Nhưng con thiển nghĩ, nếu khoanh tay trước kẻ ác thì tất vô tình hại người thiện… THẬP QUANG đại sư im lặng hồi lâu, rồi buột thở dài: - … Trong lý lẽ ngông cuồng của kẻ trẻ dại này cũng có đôi chút ánh sáng. Ta không thể dạy huyền thuật cho con. ĐẠI ĐIÊN khi xưa đã không quản gian nan cực nhọc sang tìm thầy học đạo tận bên đất THIÊN TRÚC. Hắn có tài và bền chí. Chỉ tiếc rằng hắn lại dùng tài đó để thảo mãn tham, sân, si… Nay ta chỉ đường cho con sang THIÊN TRÚC. Con phải bền gan hơn ĐẠI ĐIÊN. Nhưng nhập đạo, luyện trí, rèn thân… biết đâu trên con đường hành cước, trong thân phận của một tỳ kheo, con cũng lại ngộ được đôi điều, ngõ hầu làm vơi gánh nghiệp chướng… TRÍ THÀNH đâu? - Dạ! Chú tiểu đạo sinh vẫn đứng chắp tay hầu bên đài sư nghe gọi tên vội lên tiếng. - Nhà ngươi đã gặp TỪ LỘ, dẫn hắn đến đây. Âu cũng là nợ trần ai. Mà các ngươi cũng còn duyên sau này nữa. Ta cho con xuống núi cùng TỪ LỘ đi THIÊN TRÚC… - Thưa sư phụ… - Mọi điều cho chuyến đi, thường nhật ta đã nói. Tuy tuổi con còn nhỏ nhưng bấy lâu luyện rèn cũng đánh được chân hành giả. Từ nay ta dặt pháp hiệu cho con là MINH KHÔNG. Ngay sáng mai hãy cùng TỪ LỘ xuống núi. Nói rồi đại sư chắp hai tay trước ngực nhắm mắt. Thân còn tĩnh tại đó những hồn như đã phieu diêu bồng bềnh tít chốn cao hoang. Đêm ấy TỪ LỘ không ngủ. Chàng cùng MINH KHÔNG lo liệu cho chuyến đi. Tại thiền viện đã có sẵn những chiếc bát gỗ cũ kỹ có dây đeo dành cho các tỳ kheo đi khất thực và những cây tích trượng bằng thiếc. TỪ LỘ nhạc nhiên thấy MINH KHÔNG đem thêm một bộ bát và tích trượng, ngoài bộ đã dành cho hai người. MINH KHÔNG đáp lại cái nhìn dò hỏi của TỪ LỘ: Dưới chân núi kia, có một kẻ đợi chúng ta vào lúc mặt trời mọc. Gà gáy canh tư, MINH KHÔNG đã hối thúc TỪ LỘ. Cái cậu bé để tóc trái đào, trò yêu của Đại sư, nhờ ngót chục năm rèn luyện tại thiền viện, đã thành thạo mọi công việc của một tỳ kheo trên đường hành cước. Cậu bé giục TỪ LỘ khoác tay nải lên vai, rồi đi trước dẫn đường, cứ bám rễ cây mà đu, đến khi mặt trời mọc đã thấy một con sông nước đỏ ngầu. Một người trẻ tuổi, vóc dáng tầm thước vạm vỡ, da ngăm đen mắt lòi, đang bồn chồn chờ họ. Đó là GIÁC HẢI, một tay chài lưới trên sông LỒ mà MINH KHÔNG vẫn thường cùng trò chuyện mỗi khi xuống lấy nước. GIÁC HẢI đã có ab năm lên núi theo học tại thiền viện… * ** … TỪ LỘ nghiến răng chống sào đẩy bè ngược dòng. Càng lên thượng ng*ồn nước sông càng chảy xiết. Những mỏm đá ngầm ẩn hiện khắp dòng sông như vô số hàm răng nhọn của lũ thuỷ quái đang rình rập chờ xé tan chiếc bè ra trăm nghìn mảnh. Những thân cây cành cây đổ từ thượng ng*ồn trôi về lập lờ trên mặt nước như những thây người chết đuối vừa bị hồn quỷ nhập chỉ phăm phăm nhằm thẳng vào bè của chàng mà sầm sập lao tới. Dưới chiếc nón là gồi rộng vành che khuất đôi mắt sáng như đang trong cơn sốt, những giọt mồ hôi đuổi nhau nhảy hối hả chạy vòng qua đuôi mày rậm khiến mắt TỪ LỘ cay xè như đang khóc. Những chiếc nón rộng vành đội đầu là đặc điểm để nhận ra các tỳ kheo đang thực hiện các cuộc hành cước trên con đường xa thẳm của họ. Để tìm đường sang THIÊN TRÚC, Đại sư dã tặng cho mỗi người một cây tích trượng bằng thiếc có gắn những vòng đồng mà mỗi bước đi lại cất tiếng rung xủng xoảng. Tiếng rung đặc biệt này là để xua đuổi con trùng biết trước mà tránh xa, không để các tỳ kheo chẳng may giẫm chết thì lại phạm vào sát giới. Tiếng tích trượng cũng còn là để xua đuổi ma quỷ, tà khí dọc đường đi và kêu gọi các thí chủ rộng lòng giúp rập. Theo giới luật Thiền tông, TỪ LỘ, GIÁC HẢI, MINH KHÔNG đã phải tìm lá gồi kết những chiếc nón dành giêng cho các hành giả. MINH KHÔNG nói rằng các hành giả nhất thiết phải đội nón rộng vành. Vành nón rộng không cho người ta phóng mắt lên trời hoặc hoang đãng nhìn ngắm sang hai bên, mắt không tán theo caản bắc ben ngoài mà chỉ nhìn sâu vào áy lòng mình. Trên sông GÂM, chiếc bè dưới tay sào của TỪ LỘ vẫn luồn lách qua những mỏm đá ngầm cây đổ sóng dữ. TỪ đã thấm mệt. Mỗi khi rút sào chạy lên đầu bè, chàng phẩi rướn người tì cả nửa thân lên trên đầu sào để lấy thêm sức đẩy bè đi. Đang đưa ống tay áo lên gạt mồ hôi thì chợt ngeh phía sau có tiếng người rổn rảng: - Bữa nay đường sào của huynh đã thuần nhiều rồi…! TỪ LỘ ngoái nhìn. GIÁC HẢI đã qua giấc lồm cồm chui ra khỏi cum nứa. Mưa nắng như chỉ quét thêm một lớp dầu bóng lên nước da nâu sậm của GIÁC HẢI. TỪ thèm thuồng nhìn mỗi bước chân của GIÁC HẢI đặt chắc chắn như đóng cọc xuống mặt bè chòng chành. GIÁC HẢI vươn vai chui vào còng dây buộc chiếc áo tơi lá, bước đến đỡ con sào trong tay TỪ LỘ: - Thôi, đẻ tôi. Sắp qua thác Cả… Đoạn này dữ lắm. Huynh cứ nhìn những miếng bên bờ sông kia. Mỗi miếu thờ là có mươi mạng người đổ xuống nạp cho thuỷ thần đó..! TỪ chuyển sào cho GIÁC HẢI. Chàng quỳ xuống cởi nón lá hai tay vỗ nước lên mặt. Nước sông ngàu đục nhưng mát rượi nồng vị phù sa và mùi oai oải hăng hắc của thân cây trôi từ thượng ng*ồn. Đường ngược phương bắc đến THIÊN TRÚC sơn lam chướng khsi vạn dặm hiểm nguy, rắn rết hùm beo, yêu ma quỷ quái. Mới qua ít ngày đường, TỪ LỘ đã hiểu ý đại sư ghép ba người cùng vào chuyến đi thật thâm hậu. MINH KHÔNG tuổi ít nhưng theo học sư phụ lâu năm, trí khai minh, cân bằng thuận nghịch. GIÁC HẢI đôn hạu tháo vát sức lực đầy tràn. Hai người đó cộng với chàng, bộ ba mạnh yếu hoà đồng, san sẻ cho nhau mới mong đến được đất THIÊN TRÚC xa xôi học phép lục thông huyền bí. GIÁC HẢI thoăn thoắt bước nhanh, nhịp nhàng chống sào đẩy bè băng băng vượt đoạn sông dữ. Dưới tay sào của GIÁC HẢI, chiếc bè như có thêm tai thêm mắt, luồn lách qua những vùng đá đầu sư nhấp nhô, những quầng nước xoáy chóng mặt. Cái dáng lực lưỡng của GIÁC HẢI mỗi nhịp vươn lên, cũi xuống chống sào đẩy thật đẹp. Nắng rực rỡ trên tấm lưng trần nhưu cánh phản im nhẫy bóng mồ hôi. GIÁC HẢI quay nhìn TỪ LỘ: - Gọi MINH KHÔNG dậy thôi! Sắp đến bến ĐÁ rồi. Ta ghé vào bờ kiếm thêm chút khoai sắn dự trữ cho đường trường sông nước! Nhưng không cần gọi, cái bóng bé nhỏ gọn gàng với gương mặt tươi tắn sáng láng của MINH KHÔNG đã chui ra khỏi cum nứa. MINH KHÔNG đâu có ngủ. Mười hai tuổi, lần đầu tiên được xuống núi đi xa, cái gì đối với chú tiểu đạo sinh cũng lạ. Chú nằm lắng nghe tiếng nước ào ạt vỗ dưới thành bè, nhìn ngắm không chán những bờ đất, cành cay vun vút qua khe nứa bên ngoài. Thỉnh thoảng MINH KHÔNG phải nhỏm người vểnh tai dụi mắt. Đó là lcú giữa màu xanh ngút ngàn của núi rừng cây cỏ, chú thoáng nghe có tiếng gà gáy, chó sủa hay nhìn thấy một mái lều lá, một bóng người mờ ảo, lunh linh trên vạt nương sắn nương ngô đất phơi đỏ au been bờ sông… MINH KHÔNG xỏ chân vào đôi giầy cỏ vừa bện chiều hôm trước, nhanh nhảu với lấy cây tích trượng và chiếc nón, bước ra đến đầu bè: - Bẩy năm trên núi được ngeh sư phụ giảng giảng mọi nhẽ. Gìơ đi theo nhị huynh mới chỉ quẩn quanh trên mảnh bè này đã thấy thông tai tinh mắt thêm nhiều, nhiều lắm! Nói rồi cất tiếng cười khanh khách. Vượt lên khỏi ghềnh đá, dòng sông GÂM trước mặt đột ngột mở ra một vùng bát ngát. Trời cao xanh trong. Những dẫy nương ngô nương sắn mướt xanh rờn rờn sóng nối nhau chậy dọc đôi bờ. - Huầy à… Huầy! GIÁC HẢI miệng la to, tay chống sào đảy bè lệch mũi. Con bè như một cánh chim chựng lại rồi từ từ ghếch mũi vào dọc mọt bên lèn đá trắng ăn lan từ trong nương sắn xanh rờn xuống tận mép nước. - Bến ĐÁ rồi! Không đợi TỪ LỘ và MINH KHÔNG tán đồng, GIÁC HẢI nhảy xuống lội nước oàm oạp cắm sào neo bè. MINH KHÔNG cũng nghếch đầu nghển cổ. Chú tiểu đạo sinh tròn xoe mắt nhìn lên bờm, nơi vừa thấp thoáng bóng người từ những mái nhà lợp cỏ tranh lá gồi, từ các nương rẫy chạy ra hướng về nơi tấm bè vừa neo lại. TỪ ngồi lại trên bè nứa, dửng dưng với cảnh vật trên bờ trước mặt. Chàng chỉ mong cho GIÁC HẢI và MINH KHÔNG nhanh chóng đổi được vài thứ cần thiết cho ba anh em rồi bè lại tách bến ngược dòng. Ruột gan TỪ cồn cào từng khắc. Ngoài GIÁC HẢI và MINH KHÔNG, chàng không muốn nhìn thấy bất kỳ ai. TỪ phải sống lẩn lút trên đất kinh thành, nhất là từ ngày rời hội CHEN ở QUÍ VŨ, trong lòng TỪ luôn thấp thỏm. Nỗi kinh sợ mỗi ngày một lớn. Chàng kinh sợ con người. Trên bến ĐÁ dăm bẩy người đang vay quanh GIÁC HẢI, MINH KHÔNG. Mùa sóng nước thuyền bè qua lại ít. Nhất là lại có một con bè ngược dòng. TỪ LỘ nhìn thấy GIÁC HẢI đang khoát tay chỉ về phái hạ lưu, dáng chừng anh chang đang kể một câu chuyện gì đó đáp lại những câu hỏi và sự tò mò của mấy người dân sơn dã sống trên đất này, suốt đời ít có ai bướ chân ra khỏi máy mảnh nương rẫy nhỏ hẹp. TỪ ngửa mặt lên trời. Tiếng sấm dồn ầm ù trên cao khiến chàng chột dạ. Trận giông rừng có thể kéo đến bát chợt lúc nào cản đường chàng. TỪ đứng dậy, đưa cả hai tay lên miệng làm lao thúc gọi giục GIÁC HẢI, MINH KHÔNG. Nhưng một bóng người vừa hối hả tách khỏi đám dông trên bến khiến chàng chú mục, tiếng gọi ngưng giữa chừng. Bóng người nhỏ bé mặc đồ đen, cả chiếc khăn vải trùm đầu cũng màu đen. Bóng người liêu xiêu đi xuống lèn đá trắng hướng thẳng về phía bè nứa của chàng. * ** Tiểu thư NHUỆ ANH cũng không còn biết đã bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng trôi qua. Bám vào sợi dây lụa xé ra từ áo cưới, nàng tha mình từ khung cửa lầu cao xuống hoa viên nhà Diên Thành hầu mà tưởng chừng buông tay gieo mình xuống vực sâu thăm thẳm. Chỉ đến khi hai bàn chân trần trạm đất lạnh, NHUỆ ANH mới nhưu chợt tỉnh. Nàng khẽ rên lên một tiếng vì sợ hãi và mững rỡ. NHUỆ ANH cúi xuống nghến răng giật đứt vạo áo lụa hồng vướng vào cành trúc sau vườn. Bốn phía chói là chỗ tối chỗ sáng. NHUỆ ANH không biét đường dây nào mà chạy, cứ nhằm phía bỏng tôi không có ánh sáng đèn mà lao tới. Càng xa ánh đèn càng thấy nhẹ nhõm như con chim sổ lồng. Đến khi biến hẳn vào vùng đêm, bên tai không còn nghe tiếng người tiếng đàn sáo huyên náo thì NHUỆ ANH mới chậm bước. Hơi thở cuộn thắt ngang ngực. Nàng định thần, nhận ra mình đã chạy ra xa bờ sông TÔ. “Cha ơi… mẹ ơi…” NHUỆ ANH ngồi thụp xuống bưng mặt khóc nức nở. NHUỆ ANH thiếp đi không biết bao lâu cho đến khi anh nắng ban trưa lốm đốm lọt qua mái lá thủng của gian miếu thổ thần đánh thức nàng dậy. “Sao ta lại ở đây? Sao lại thế này…?”. Ý nghĩ đó vừa thoáng lên trong đầu NHUỆ ANH thì một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên ngay gần kề khiến nàng giật bắn người: “Tiểu thư cứ nằm nghỉ… Đây là chốn kín đáo có thể yên tâm được”. NHUỆ ANH chống tay ngồi nhích vai lui lại sát tường miếu rêu ẩm mục há miệng định kêu, thì vẫn giọng nói đó: “Tiểu thư đừng sợ… Lão đây!”. “Trời…!” NHUỆ ANH đưa bàn tay lên bịt miệng mình. Nàng đã nhận ra trước mặt nàng là người lão bộc trung thành của nhà TỪ LỘ mà nàng đã ít nhiều quen biết. Ngay tức thì, nỗi uất ức tủi thân lại ập đến. NHUỆ ANH cứ vậy úp mặt vào hai bàn tay sần sùi chai sạn của lão bộc mà khóc. Đêm qua từ bờ sông TÔ, NHUỆ ANH đã như một người mộng du quen chân quen bước đến miếu thổ thần. Nàng gục xuống sau cửa miếu vì quá mệt nhọc. Tảng sáng, lão bộc tìm tới. Đêm qua lão đã nhìn thấy dinh cơ của nhà Diên Thành hầu bốc cháy. Lại nghe tin tiểu thư NHUỆ ANH bỏ đi đâu trước lễ hợp cẩn. Tiểu thư có thể đi đâu được trong chốn kinh thành nhan nhản gia nhân, đầy tớ, tai mắt của nhà Diên Thành hầu quyền thế? Hẳn là tiểu thư không thể vềnnahfcha mẹ đẻ. Lão bộc nghĩ ngay đến gian miếu hoang nơi mà mấy tuần trăng trước đây TỪ LỘ vẫn ẩn náu. Lão bộc hạ giọng thì thào lo sợ: - Suốt cả buổi nay người nhà Diên Thành hầu lùng sục khắp nơi để tìm tiểu thư. Chúng lần tìm đến tận nhà tiểu thư. Nhưng thân mẫu của tiểu thư thét mắng. Nghe nói phu nhân kiện nhà Diên Thành hầu đã dựng ra đám cháy để ám hại tiểu thư… Nghe lão bộc nói, NHUỆ ANH thở nhẹ. Mẹ nàng nước sau vẫn là người đàn bà quyền biến, biết thoát ra khỏi ngõ cụt bằng những lối đi bất ngờ. Nỗi lo cho song thân đã vợi. Điều nang sợ nhất khi trốn khỏi nahfLÝ CÂU là cha mẹ nàng bị liên luỵ. Nhưng sự việc đã đúng như nàng thầm định. Tiếng thì thào lo lắng của lão bộc vẫn vẳng vào tai NHUỆ ANH: - Tiểu thư cũng không thể ở nơi này lâu. Trước sau thì lũ cầy cáo nhà Diên Thành hầu cũng tìm tới… - Thế còn TỪ công tử… chàng ở đâu? Lão bộc nén nỗi cảm phục. Hoạn nạn là thế mà câu hỏi đầu tiên của tiểu thư vẫn là về tiểu chủ của lão… Điều đó khiến lão càng thêm quý trọng. - Thưa… Lần cuối cùng lão được gặp tiểu chông tử các đây hai tuần trăng… Rồi lão bộc kể cho NHUỆ ANH nghe về buổi tối đến trước dinh cơ Tăng đô án nay đã thành kỹ viện của tay chân nhà Diên Thành hầu. TỪ LỘ đã buộc lão phải đưa bài vị của song thần đến để chàng mang theo trên đường đi tìm ĐẠI ĐIÊN. Lão bộc cũng kể rằng lão đã may mắn thoát chết nhờ đàn ngựa sổng chuồng… NHUỆ ANH cắn môi suy nghĩ hồi lâu, rồi lê tiếng: - Lão bộc… Ta và TỪ công tử may phúc mới có được người tâm phúc như lão. Gìơ ta có một việc phải cậy nhờ. Đêm nay lão mang đedén đây cho ta một bộ quần áo của người nam, sao cho ta vận vừa… - Thưa… tiểu thư định làm gì với thứ đó? - Ta đi tìm TỪ công tử! Lão bộc kêu lên: - Dám thưa tiểu thư… nguy hiểm lắm. TỪ công tử không còn ở kinh thành. Bây giờ tiểu thư biết công tử phiêu dạt nơi nào mà tìm. Thân gái dặm trường… Xin tiểu thư suy xét lại… - Lão nghe đây. Ta đã gắn kết với TỪ công tử thì ta nguyện sống là vợ chàng, mà nếu chẳng may chết xuống âm phủ thì ta vẫn là vợ chàng. Im lặng hồi lâu. Rồi lão bộc chắp tay cúi đầu trước tiểu thư NHUỆ ANH: - Lão xin làm theo lời tiểu thư. Xin nhận một vái này của kẻ tôi tớ trung thành trước bậc tiết phụ của TỪ công tử! Ngay đêm hôm đó lão bộc mang tới miếu thổ thần hai bộ quần áo con trai, một nâu một đen. Một khăn đầu rìu. Đôi quang thùng và chiếc gáo dừa của người bán dầu. Ngườ lão bộc trung thành còn mang tới một thứ mà một tiểu thư nhà quan như NHUỆ ANH không hề nghĩ đén trước khi dấn thân khuê các vào chốn phàm trần. Lão đặt vào tay NHUỆ ANH chiếc túi nhỏ vải nâu đựng hai nén bạc nguyên và ít bạc vụn. Với quần áo và đồ nghề của lão bộc mang cho, NHUỆ ANH trở thành ành chàng bán dầu dễ dàng ra khỏi kinh thành. Suốt mấy thàng nàng rong ruổi, cứ nghe nơi nào có hội là đến. NHUỆ ANH đã tới hội CHEN ở QUÍ VŨ vào đúng ngày rã hội. Dân làng đã làm lễ an táng cô con gái tộc trưởng. Cả đám hội náo nức giờ bạt ngàn khăn tang như một rừng lau trắng run rẩy trong gió. Giữa bãi cỏ, dấu vết cây thiền trường của phát sư ĐẠI ĐIÊN cắm xuống vẫn hoăm hoẳm một lỗ sâu hút như xuống tận âm ti. Dân nàng chuyền tây nâng xác cô gái lên cao nối nhau đi một vòng quanh lỗ gậy. Không một tiếng khóc. Không một lời nguyền rủa kẻ gây ác. Im lặng sởn người. Khi đặt cô gái xuống huyệt mới đào, dân làng đồng thời ném xuống lỗ gậy pháp sư xác một con dơi mặt quỉ. Con dơi mà người yêu cô gái hạ bằng một mũi tên căm hờn. Rồi cụ tộc trưởng cha cô gái cắn răng cắm lên dấu vết oan cừu đó một cành phan. Dấu hiệu bào việc ngày họi mở rừng sang năm của đất QUÍ VŨ sẽ chuyển đi nơi khác. NHUỆ ANH biết đến đây là mất dấu vết của TỪ LỘ. Nhưng nàng vẫn không nản. Vẫn gánh dầu bán rong, nàng ngược lên miền thượng. Một linh cảm mơ hồ khiến nàng hiểu rằng TỪ LỘ sẽ đi qua những con đường này. Và mỗi bước, nang như đang cảm thấy như mình đang đặt chân lên dấu chân của chàng vừa đi qua. Khi đến bến ĐÁ sông GÂM, cảm giác đó càng cồn cào. NHUỆ ANH rửa gáo úp hai thùng gỗ đựng dầu lên cọc rào. Nàng neo lại, chờ một điều gì đó còn đang mơ hồn nhưng bằng vào trái tim tội nghiệp đang thổn thức trong ngực, nàng biết chắc rằng nó đang tới… * ** Con bè tuột dây neo từ từ tách bến ĐÁ trôi xuôi. Chỉ còn lại TỪ LỘ, NHUỆ ANH. Đứng trên lèn đá nhìn thấy bè rời bến, MINH KHÔNG thốt lên một tiếng "ơ" rồi te tái chạy xuống nhẩy theo bè. Nhưng GIÁC HẢI đã nắm áo giữ lại. GIÁC HẢI đưa bàn tay thô nhám xôa xoa cái đầu trọc của mình rồi lại xoa xoa đầu trọc của MINH KHÔNG: "Đệ hãy nhìn xem. Trong ba ta chỉ có TỪ LỘ tóc hãy còn xanh nguyên. TỪ ca nào đã thế phát. Cứ để TỪ ca trang trải nợ tràn gian. Biết đâu chẳng vì vậy mà TỪ ca lại chóng ngộ đạo thoát tục hơn hai ta đó!". NHUỆ ANH như một con gà ướt nhẹp nằm gọn trong tay TỪ LỘ. Cơn giông núi đã dịu. Nhưng mưa vẫn đổ. NHUỆ ANH không hề thấy cái rét buốt của những giọt mưa đã làm da thịt nàng tê cóng thâm tái khi đứng đợi trên bến ban nãy. Mà ngược lại, những giọt mưa dội xuống thân thể nàng lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng. Những ngón tay NHUỆ ANH níu chặt bên vai TỪ. Nàng run rẩy áp cặp môi trinh nữ lên vùng ngực trần nóng hổi trong mưa của chàng. Cái mùi đàn ông lạ lẫm, đắng ngắt, ngầy ngậy, bạo liệt như đã rừng toá hơi nóng dưới ánh ặmt trời pha lẫn hơi mưủa tươi tắn và tinh khiết khiến nàng ngây ngất chợt như lả đi chợt lại như lạc vào cõi phiêu bồng. "TỪ LỘ…Em là vợ chàng…!". Thân thể của NHUỆ ANH quằn quại trong những tiếng lắp bắp đứt đoạn tắc nghẹn, theo những giọt máu ứa ra từ trong tim. Những ngón tay tiểu thư thuôn dài mỗi lúc càng như những mũi kìm thép nhọn bấm sâu vào da thịt người nàng yêu. Cùng với tiếng sấm cuối cùng của cơn giông núi vỡ ra trên vòm trời, nỗi đau da thịt thẳm sâu cũng xé lên trong NHUỆ ANH khiến nàng phải bật ra một tiếng thét. Thân thể nàng lỏng ra. Mộ cảm giác nghẹn ngào lan toả cùng với nỗi lòng chan chứa biết ơn người mang lại cho nàng niềm khoái lạc mên mang và nỗi đớn đau trần thế kỳ diệu. Chiếc bè dào dạt trôi xuôi. Vòm trời đã trở lại trong xanh cao vút. Song nước mơn man hai bên thành bè làm bắn lên những bụi mưa li ti mát rượi phủ lên đôi thân thể một màng tơ trong suốt. Gặp quãng bờ bãi phù sa màu mỡ, những hàng cây dâu da cây vả lúc lỉu quả chín đỏ la đà sát mặ sông rụng xuống lưng TỪ LỘ và ngực NHUỆ ANH những hùm quả đỏ ứa mật. Bầy khỉ tíu tít đuổi nhau trên cành. Hươu nai tác tộ gọi đàn. Những chú chim rừng mãi mê ríu rít với chùm qua chín rỉa ra những hạt mẩy thơm tho rơi xuống đầu tóc da thịt hai người… Tới một khcsu sông đột ngột rộng ra, chiếc bè rừng lại, đu đưa như ru trong một vũng nước nặng. TỪ LỘ xoay mình nằm ngửa mặt nhìn trời. NHUỆ ANH ngủ mê mệt gối đầu trĩu nặng một bên vai chàng. Miền da thịt mềm mại của nàng gắn vào da thịt chàng. Hơi thở dịu dàng man mác hương hoa của nàng phả nhẹ từng đợt ngọt ngào đằm thắm bên cổ luồn sâu bên gáy chàng. Nắng gió dã làm khô mái tóc dài. Những sợi tóc rợn sóng hứng lấy dòng anh sáng thả xuống từ trời nhưng sương núi, như tơ trời vuốt ve buồn buồn trên cổ trên vai và vồng ngực chàng. TỪ LỘ thấy trong người thênh thang nhẹ nhõm lạ thường. Hình như cùng với niềm sướng vui thuỷ triều dồn dập trút vào thân thể hoà vào da thịt nàng, bao nhiêu căm uất hận thù chứa chất trong lồng ngực, bóp nghẹt trái tim chàng từng ấy ngày đeê cuũn theo đó mà tan ra mà mất dạng. Giờ đây nằm sát bên nàng TỪ LỘ thấy đất trời vừa như nhỏ lại, vừa như rộng thêm ra. Cái vũ trị đen đặc căm uất hận thù vần ngày đem vò xé trong tim chàng đó bỗng trở nên xa xôi mờ ảo tưởng trừng như chỉ là chuyện trong một giấc mơ kinh hoàng của cuộc đời bể dâu nào khác. Một bông hoa gạo đỏ bầm từ trên cao rơi bịch xuống sát bên vai trần khiến TỪ LỘ giật mình. Chàng mở mắt nhìn lên. Chàng nhận ra trên đầu mình là rặng cây gạo lực lưỡng nối dài những bông hoa đỏ bầm như những bụm máu. Quãng sông hoa gạo mà chàng và GIÁC HẢI, MINH KHÔNG đã vất vả trần lưng oằn vai thay nhau chống sào đẩy bè ngược dòng qua vào buổi chiều hôm trước. TỪ LỘ vùng dậy nhìn quanh. Cánh tay trần của NHUỆ ANH vẫn quàng qua ngực chàng. TỪ LỘ lay lay. Nàng chỉ u ơ khẽ trong miệng rồi lại xoay nghiêng người nhắm mắt, miệng hé một nụ cười thơ dại. Nhưng trong lòng TỪ LỘ đã cháy rần rật một ngọn lửa khác. Cái ngọn lửa đã giằng chàng khỏi kinh thành và hun đốt chàng chạy tới sông GÂM. TỪ cuống lên, chồm hẳn dậy, bế bổng NHUỆ ANH, nhẩy khỏi bè. TỪ đặt nàng trên bờ, đắp lên người nàng mớ quần áo còn ướt sũng rồi quay lưng, vồ lấy cây sào vẫn gài bên thành bè nứa gần suốt ngày qua. Và bầm máu đen tưởng đã mất dạng lại tràn về đầy nghẹt lồng ngực, đầy nghẹt trái tim TỪ LỘ. NHUỆ ANH chống tay ngồi dậy. Nàng chớp mắt, ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Chợt nhìn lại thân mình, nàng hốt hoảng với lấy mớ quần áo choàng lên người. Thấy TỪ LỘ đang cuống cuồng lao sào đẩy bè quay ngược dòng. NHUỆ ANH vội chạy tới: - TỪ LỘ… Chàng… đi đâu? - Ta phải trở lại… Phải ngược dòng thôi. NHUỆ ANH…! - Chàng đưa em đi cùng…! - Không được! - Em xin chàng… - Không! NHUỆ ANH giữ chặt lấy con sào trên tay TỪ LỘ: - … Bao nhiều ngày em đi tìm chàng… - Ta hiểu…Ta hiểu… NHUỆ ANH… Nhưng ta phải đi. Ta không thể mang nàng đi cùng… Xin đắc tội với nàng. - Không. Không… Em phải đi cùng chàng. Em phải đi…! NHUỆ ANH quì sụp xuống ôm chặt hai chân TỪ LỘ. Con bè khong tay chống bập bềng quay ngang trên dòng sông. TỪ LỘ nghiến răng gỡ tay NHUỆ ANH. Chàng đạp mạnh chân, lùi người để rộng tay sào. - Em van chàng… Hãy để em đi cùng… Chàng định bỏ mặc em àm đi ư? - Đường của một tỳ kheo không có mặt nữ nhi. Con đường báo thù của ta không thể vướng nàng. TỪ LỘ thô bão giằng mạnh sào. NHUỆ ANH níu chân TỪ LỘ. Tóc xoã tung. Gương mặt ngước lên đầm đìa nước mắt. Con bè chùng chằng giữa nhừng làn đá chen nhau dăng dăng ngang mặt sông. TỪ LỘ bậm môi. Dưới kia là thác MƠ hiểm ác. Con thác đã khiến ngày qua chàng và hai bạn đã phải tháo bè nối nhau khiêng từng bó nứa sũng nước lên đoạn sông phía trên này để ghép thành con bè mới. - NHUỆ ANH… Ta đã nói cùng nàng… Xin coi không còn ta ở trên đời này. Nàng hãy trở về! Giọng nói cứng đanh của TỪ LỘ, và nhất là mấy tiếng "nàng hãy trởi về…" khiến NHUỆ ANH sững người, tay buông rời khỏi TỪ LỘ. Đôi may nàng dựng lên: - Chàng nói sao? Chàng nói em hãy trở về? - Ta đã nói. Không còn TỪ LỘ trên đời này nữa…! - Trời!… Tiếng rền rĩ của NHUỆ ANH tắt lịm. Đột nhiên đôi mắt mềm yếu dịu dàng như mắt nai của người con gái vụt sáng rực. NHUỆ ANH vươn cao người. Chiếc áo vải đen nàng vừa kịp khoác lên đã rơi ruột ra để lộ đôi vai trắng ngần và đôi vú ngời ngợi như hai vầng trăng. - TỪ LỘ… vĩnh… biệt…! Chưa dứt lời, NHUỆ ANH đạp chân nhoài người lao ra phía dòng sông chảy xiết. - NHUỆ ANH…! TỪ LỘ buông rơi sào. Chàng vừa kịp kêu lên thế thì mắt mũi tối sầm. Con bè không người chèo chống đã xô vào vách đá ngầm của thác MƠ tan thành từng mảnh, quăng TỪ LỘ lên một gờ đá nỗi, rồi nước lại ào lên cuốn dìm chàng xuống tận đáy sông. Khắc sau, trên bờ sông GÂM cạnh thác MƠ hung dữ chỉ còn TỪ LỘ. Mảnh vải nâu ướt sũng đóng làm khố che thâm, TỪ quì rạp người vái theo dòng sông: - NHUỆ ANH ơi… Ta có tội với nàng. Nhưng nợ báo oán đè nặng hai vai này. Ngày nào trả nợ xong, thề với nàng, ta sẽ quay lại nơi đây theo nàng. Xin hãy đợi ta… NHUỆ ANH…! TỪ LỘ rạp mình vái ba vái nữa rồi mình trần khố vải vác sào dài chạy ngược dòng sông GÂM lên bến ĐÁ phía thượng ng*ồn. Nơi đó GIÁC HẢI, MINH KHÔNG đang nóng lòng sốt ruột chờ đợi chàng. RU CÁ BƠN Trơn Lạnh Những chiếc vẩy biết khóc À ơi… Lời ru cá bơn mồ côi Lời ru cá bơn À ơi… Ai chôn chữ trinh ba vạn À ơi… Ai chém chữ trinh chín ngàn Ru nào Mỹ nhân đoạ xoáy nước Ngơ ngẩn đường tu Ru nào Cá bơn Phơi thâm rạp cỏ
Chương 9 LÃNH CUNG NGẠN LA nằm co ro trên nền đá lạnh. Ngón út của bàn chân phải đang rỉ máu nham nhở vết chuột cắn. Thoát khỏi biển lựa thiêu cung nữ cháy rần rật trên đảo ÂM HỒN. Thoát khỏi lưỡi búa của đao phủ nhờ ân sủng bất ngờ của đức vua, nàng lập tức bị tống giam vào lãnh cung. Một dãy hun hút những biệt phòng xây bằng đá nền đen gân trắng, cửa ra vào bằng lim khối, ngay giữa mùa hè cũng phả ra hơi ẩm ướt lạnh lẽo rợn người. Cái âm u lạnh ngắt nơi giam cầm những cung nữ chẳng may xấu số làm phật ý vua và hoàng hậu này khiến những kẻ xấu số tuyệt vọng ngay từ lúc mới đặt chân vào. Cửu trùng ngay gần đó mà thăm thẳm xa. Đêm qua đang ân ái nồng thắm bên đức kim thương, sáng mai, vì bất vừ điều gì khiến ngài phật ý, cũng có thể bị nhốt vào lãnh cung. Chưa kể bao nhiêu mưu mô, cạm bẫy rình sẵn. Những kẻ ngây thơ đang được bao bọc trong gấm lụa hôm nay mà trong lòng không khỏi nơm nớp lo một ngày nào đó sẽ bị tống vào một trong những biệt phòng. Những biệt phòng xây bằng đá cao tám thước dày hai thước, chỉ có một cửa sổ duy nhất nhỏ bằng bàn tay để mỗi khi đêm hết mặt trời lên thì anh bình minh lại lạnh lùng chiu vào trong vài khắc đủ để người xấu số bên trong thêm một lần bị nỗi đau cào xé. Rồi cái ánh mặt trời đó vội vã ra đi biền biệt cho đến tận sáng ngày hôm sau. Và trong nhưũng ngày u ám không ánh mặt trời, kẻ bị giam cầm trong lãnh cung thấy mình bị chôn sống vĩnh viễn trong bóng tối đen đặc. NGẠN LA tưởng đã nằm dưới mộ. và từ dưới nấm mồ này, hồn phách nàng nhơ lại cái ngày định mệnh, khi tiên hoàng NHÂN TÔNG bắt gặp nàng trên đường. * ** Đang là một con mèo nhỏ uyển chuyển thả sức nhẩy nhót thăm thú những hoa cỏ ngọt ngào nở dưới ánh mặt trời hào phóng rọi chiếu trên đồng nội, cái ngày định mệnh oan nghiệt của nàng ập đến khi tiên hoàng bát chợt tuần du ngang qua. Đang là một cô bé suốt ngày đeo chiếc giỏ cua bên hông, bỗng người ra nhấc bổng nàng lên kiệu vào đưa thẳng về cung. Kiệu vừa đặt xuống, mặc nàng khóc giẫy, cào cấu đòi về với mẹ, bốn thị nữ đã xúm lại lột hết bộ đồ nâu còn vương mùi bùn đất, dìm nàng trong một bồn nước thơm, kỳ cọ khắp thân thể đến mức da thịt nàng đỏ ửng. Sau đó, họ đưa nàng sang bồn tắm đẹp hơn, sóng sánh thứ nước ấm ấm này, da thịt NGẠN LA dịu lại. Những vết đỏ ửng do kỳ cò dần biến mất. Khi cá thị nữ đặt NGẠN LA lên chiếc giường trải vải gai trắng, NGẠN LA đã lim dim ngủ. Một thị nữ đem ra ba chiếc bình lớn, trong mỗi mình đựng một thứ cao đặc sánh, toả mùi thơm hắc. Thị nữ lấy một chiếc chổi nhỏ làm bằng lông mịn nhúng lần lượt vào các bình. Thứ cao màu hồng phủ lên mặt nàng. Thứ cao màu vàng đựng trong cái bình lớn nhất, thị nữ phủ một lớp thật đều lên toàn thân nàng. Đến khi chấm thứ cao màu đỏ lên đầu vú NGẠN LA, thị nữ dừng tay. Trên bầu vú nhỏ nhô cao, rắn chắc như ngà voi của NGẠN LA, phía vú bên trái mờ mờ một chiếc bớt trông như một con thạch sùngn nhỏ xíu màu tím bốn chân như đặt hờ lấy bầu vú mịn màng, riêng cái đầu hơi chìm xuống, hướng về phía chiếc nốt ruồi đỏ ở giữa ngực cô gái… Ngập ngừng mọt giây, thị nữ định lướt đầu chổi để phu cao lên hình bớt. Những NGẠN LA hét lên một tiếng thật dữ tợn. Cô bé đưa tay lên giữ chặt hình cái bớt trên đầu vú. Đôi mắt như chợt bạc đi vì tức giận, vì sợ hãi. Thị nữ ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi. Nhẹ nhàng xoa vuốt lên người nàng một lượt rồi thị nữ để cho NGẠN LA nằm ngủ trên giường độ một canh giờ, trong khi đặt lên đôi mi khép chặt của nàng hai chiếc khăn lụa nhỏ gập làm tám, giữa một lớp khăn lại có một lớp cao mát lạnh. NGẠN LA tỉnh dậy, đôi mắt sưng đỏ vì khóc của nàng đã trở thành trong veo. Thị nữ lại dìu nàng xuống chiếc bồn tắm nhỏ màu ngọc đỏ đang bốc hơi nghi ngút từ một thứ nước tắm sánh như dầu. Vừa ngâm mình vào nước tắm, lớp cao trên thân thể nàng tan ra, để lộ làn da mượt óng. Đến đây, hai thị nữ đưa tay cho nàng vịn để bước sang chiếc hồ tắm cuối cùng được làm bằng đá xanh gợn vân huyền. Tắm cho NGẠN LA, các thị nữa đưa mắt nhìn nhau vừa tò mò vừa ái ngại. NGẠN LA dần nín khóc. Những đồ đạc lộng lẫy được trần thiết trong phòng tắm rộng lớn dành cho các phi tần khiến nàng thấy hết sức lạ lẫm. Chúng hút chặt mắt nàng. Rồi nàng đặt tay lên bờ chiếc hồ tắm bằng đá xanh gợn vân huyền, bưcớ theo những bậc đá thoai thoải từ đáy hồ dẫn lên bờ. Hơi nước nóng phả ra từ mặt hồ khiến cho gian phòng mờ ảo như trong sương. Hai thị nữ dắt tay NGẠN LA tới trước gương tròn lớn bằng đồng sáng choang đặt ở cuối gian phòng. Nàng sững sờ nhìn thấy toàn thân mình trần truồng trong gương. Đôi mắt mèo màu xám nâu mở to ra hoảng hốt dưới đôi mày mềm mại lượn cong vút lên như hai cánh én. Đôi môi mọng màu hoàng thổ sẫm kinh ngạc mở rộng hé lộ hàm răng đen láy. Mớ tóc dài nuôi nấng qua mươi hai năm tràn xuống nữa lưng ôm lấy bờ vai mảnh mai chảy xuôi màu nâu mịn như lụa. Đôi vú mowis nhú như nửa vầng trăng với hai đầu vú nhỏ ương ngạnh và kiệu hãnh. Xa xôi dưới kia cũng mượt mà và chảy tràn như lụa là cặp đùi và đôi chân thon dài với năm ngón chân nhỏ như xoè ra, móng chân màu vàng vì những ngày bám đất trơn trên những con đường lầy lội quanh nhà. Nhìn thấy những ngón chân của mình, NGẠN LA bỗng xót thương cho chúng và oà khóc vì nhơ mẹ. Người mẹ nghèo vẫn dùng cây chổi để đuổi vụt vào lưng nàng mỗi khi nàng bầy trò nghịc ngợm và biếng nhác. Vậy mà bà vẫn thưỡng bấm bụng nhị ăn để mỗi bữa NGẠN LA có được một bát cớm đầy, còn bà thì lặng lẽ vét ít cơm cháy ở đáy niêu ăn với cà muối và những củ khoai luộc. Để giữ đẹp cho làn da của con, mỗi ngày bà tha thẩn khắp các bờ ruộng nhặt rau má về giã trong cối đá, hoà chút mật mía cho con uống. Những đêm nàng bị cảm sốt, bà thức chong chong đầu chõng, không dám ngủ, đốt đèn đi tìm lá nhọ nồi về vắt cho con uống, nước mắt giàn giụa làm mờ đôi mắt mê hoặc mà sự khổ cực đã làm phai nhoà… Vậy mà giờ đây, nàng đã phải bỏ lại người mẹ già đơn độc trong cái xóm hiu hắt, ngỡ ngàng trước gương trong chốn lầu vàng điện ngọc, vừa thích thú ngắm nghía những đồ vật choàng lộn, vừa sợ hãi không biết rồi mình sẽ ra sao. Bốn thị nữ quấn một chiếc khăn lụa xốp màu đỏ quanh người để thấm khô những hạt nước li ti đang chảy dài trên thân thể NGẠN LA. Rồi họ xức khắp người nàng một thứ dầu thơm mùi hoàng lan, chuốt thêm một lần nữa cái làn da vốn đã óng mượt. Rồi kẻ thì mặc cho nàng một chiếc ao màu hoàng yến, kẻ đeo cho nàng một chuỗi hạt châu quí giá, một đôi xuyến và ba cặp nhẫn vàng cũng đều cẩn hạt châu. Một thị nữ lớn tuổi bê vào một tráp chạm rồng, trong đựng phấn son và tóc giả. Bà xuýt xoa quấn cao mớ tóc của nàng lên đỉnh đầu và giữ chặt chúng bằng một chiếc trâm vàng rồi cài thêm những lọn tóc giả. Nhìn trong gương, NGẠN LA mỗi lúc càng không nhận ra mình. Nàng nghĩ trước mặt mình là một con tò he hình công chua bằng bột nặn mà thỉnh thoảng nàng vẫn nhìn thấy trong những dịp làng mở hội có những cụ già khéo tay ngồi sau một mẹt phẩn xanh đỏ làm mê mệt lũ trẻ con như nàng. Thị nữ dùng thứ vải gai mịn thấm phấn màu hồng đào trong chiếc hộp ngọc thoa nhẹ lên má NGẠN LA. Dùng thỏi son thơm như kẹo miết lên đôi môi vùng vằng của nàng. Xong đâu đấy, bà dùng chì than tô lông mày và viền mắt. Đứng lùi ra năm bước, thị nữ lặng ngắm, không kìm được lời thốt ra từ đôi môi đã bắt đầu khô héo: "Tuyệt thế!". Thị nữ ngắm mãi, lưu luyến không nỡ rời. Rồi một chiếc võng lụa bốn người khiêng ghé tới. Dẫn đường là một người đàn ông mặc áo thụng chàm, mặt tái, tay trái cầm đèn lồng đỏ, tay phải cầm dùi gõ vào một chiếc chống nhỏ đeo lủng lẳng bên hông. Hai thị nữ đỡ nàng lên võng, buông bức rèm che xuống trước khi phu võng cất bước. Tum… Tum… Tu… um…! Người dẫn kiệu giơ cao đèn lồng, cứ mươi bước lại gõ lên ba tiếng trống dạo. Ghé mắt qua rèm võng, NGẠN LA nhìn thấy san sát những dinh thự lầu son gác tía, những căn phòng có cửa sơn đỏ toả ra những làn hương ngào ngạt xa hoa. Những người qua lại đều ăn mặc đẹp đẽ, khi nghe tiếng trông đều vội vã nhường đường, cúi mặt vái lạy. NGẠN LA ngạc nhiên và thích thú. Nàng quên cả sợ, reo lên như trẻ con. "… Tân cung nhân này trông thật khác thường. Như phù thuỷ…ĐƯa mắt nhìn ai thì lấy hết hồn vía của người ta. Chẳng trách được hoàng phải nhặt cô ta giữa đám bùn đất…". NGẠN LA lại sực nhớ, cau mày thắc mắc cố hiểu những điều mà mấy thị nữ nói nhỏ với nhau về nàng trong lúc trang điểm. Võng đi được vài trăm bước, bỗng có một vị mặt trắng áo thụng xanh lướt thướt chạy tới ghé vào tai người dẫn võng thì thầm điều gì đó có vẻ rất nghiêm trọng. Võng quay phắt lại. Đèn lồng tắt. Tiếng trống cũng lặng ngắt. NGẠN LA được đưa về một trong những căn phòng có cửa sơn son. Không biết đã bao lần, NGẠN LA thầm ước gái như mình chết ngay lúc mẹ mới sinh ra. Như thế, không phải trải qua cảm giác đâu đớn, kinh hoàng nơi giàn thiêu cung nữ và khi lưỡi gươm đao phủ kề cổ. Nàng tự hỏi, trong đám hàng ngàn người dân lam lũ đứng dưới kia chứng kiến giàn thiêu cung nữ liệu có người mẹ tội nghiệp của nàng không? Nếu có, mẹ nàng có sống nổi? Núm ruột của bà đang bị kẻ khác đưa lưỡi dao cứa nát. Từ bé, NGẠN LA không biết mặt cha. Người ta đồn rằng một hôm trời giông bão, dân làng thấy một người đàn bà đẹp trạc mười tám tuổi mặt tái mét, váy áo lụa, bế một đứa bé gái mới hai tháng tuổi quấn trong tã gấm, lưu lạc đến đầu làng ngồi lả đi dưới mái đình. Đứa trẻ khóc không dớt mà người mẹ vẫn bất tỉnh. Dân làng thương tình, đem về cứu chữa. Bé gái được mang đi bú chực khắp làng. Cảm cái ơn của người làng, hai mẹ con ở lại. Người mẹ cắn răng tập đi nhổ mạ thuê, tập cầm quốc cầm cào, tập mò của bắt ốc sống qua ngày. Đôi bàn tay thon mềm của bà ban đầu tứa máu, sau cùng đóng thành chai nứt nẻ. Bà không bao giờ kêu ca, không khi nào nói nửa lời về hoàn cảnh của mình. Đôi mắt lúc nào cũng nhìn xuống, buồn thăm thẳm. Chỉ nghe người ta đồn rằng bà vốn con nhà quyền quý, hoặc do sa cơ hoặc trót dại lỡ lầm mà phải lưu lạc đến nơi này. Trong vòng tay bà, cô bé NGẠN LA cứ thế lớn lên, như cây cỏ uống đủ ánh trời. Đẹp hoàng dại, lạ lẫm như không có thật. Không bao giừo tủi thân khi nghe lời đồn đại về gốc gác của mình. Đêm ấy, Thái giám đang dẫn võng trên đường đưa nàng đến hầu hạ hoàng đế NHÂN TÔNG. Vị hoàng đế sáu mươi ba tuổi đang nóng lòng chờ đến phút giây tận hưởng phong vị lạ của viên ngọc ông vừa nhặt được trong đám bùn đất dọc đường thì bỗng lâm trọng bệnh. Cuộc hoan lạc được chuẩn bị kỹ càng vậy là tiêu tan. Võng lại đưa nàng về căn phòng nhỏ trong một dãy không biết bao nhiêu phòng như thế được làm sẵn từ đời tiên vương. Đó là chỗ cư ngụ của các cung nhân… Từ đó đến nay, NGẠN LA chỉ được nhìn hoàng đế một lần, khi ngài sắp băng hà. Nàng hoảng sợ thét lên: "Ma!". Cũng may nhờ lcú đó trièu nội bận với trăm công việc nghìn mưu toan mà nàng tránh khỏi bị xử trảm vì tội bất kính. Nhưng tiếp sau đó là con đường dẫn đến giàn thiêu. Và bây giờ là lãnh cung. Trí óc non nớt của NGẠN LA vẫn không thể hiểu là mình đã làm gì nên tội mà bị trừng phạt như vậy. Nàng khóc lóc vật vã kêu cứu. Nhưng bốn bức tường lãnh cung đã hoàn toàn tách biệt nàng với thế giới bên ngoài. Ngầy một lần, có một nữ cai ngục mặt lầm lì như một cánh cửa đá lẳng lặng mang đồ ăn đến đặt vào ô cửa bằng hai bàn tay. Còn lại một mình nàng suốt ngày đêm phải chống chọi với bóng tối và lũ chuột. Từ thuở nhỏ NGẠN LA đã yêu thích và thường đùa nghịch với chuột. Nàng thường phá lên cười khi những con vật bé nhỏ xinh xắn có bộ lông màu tro bếp âm ấm chui rúc và nhau như tìm một chỗ trú ấn trên bàn tay nàng… Nhưng đó là những chú chuột đồng mới sinh trong mỗi mùa lúa chín. Còn chuột lãnh cung con nào con nấy béo nẫn, to bằng bắp chân, bằng cột nhà. Những con chuột đen trũi, lông gáy dựng lên như bờm và dài cứng như lông lợn đực. Những con chuột ngày đêm vây quanh nàng với những cặp mắt tròn xoe thô lố, rực như than. Những cái mõm há hoắc để lộ mẩu lưỡi đỏ lòm ngo ngoe giữa những chiếc răng thưa trắng nhởn nhọn hoắt. Những tiếng rít dai dẳng kéo dài xiết vào óc nàng… Ngày đầu tiên nhìn thấy lũ chuột, NGẠN LA kinh hoàng hét lên, tay nắm chặt viên đá vừa nhặt được. Lăm lăm viên đá, NGẠN LA cố trấn tĩnh, tiến về phía trước, nhìn trừng trừng vào mắt chúng. Nàng tiến một bước thì lũ chuột lùi một bước, móng chân khua ràn rạt trên đá. Nàng lùi một bước thì lũ chuột ràn rạt tiến lên một bước. Cuối cùng, NGẠN LA bất lực, thở hổn hển lùi tựa sát vào tường đá, không dám rời mắt khỏi lũ chuột. Chúng dừng lại, trừng trừng những cục than đỏ hướng về phía nàng rình rập. Mệt mỏi, căng thẳng, sợ hãi, NGẠN LA hầu như không dám chợp mắt. Nghe nói lũ chuột khủng khiếp này đã nhiều lần cắn cụt tai cụt mũi các cung nữ bị giam trong lãnh cung. Năm thứ mười ba đời tiên hoàng, có một thứ phi phạm tội làm rớt nướ yến vào vạt ấo của tiên hoàng trong khi hầu ngài dùng bữa phụ vào giờ thân, Hoàng hậu nổi giận, lập tức tống giám ở lãnh cung này. Thứ phi đau đớn khóc đến chảy cả máu mắt maàkhông mảy may động lòng mọt ai trong hoàng cung. Sau ba ngày, quản giám bẩm rằng cơm nưcớ đưa tới ô cửa mà không ai đụng tới. Việc được báo lên Tổng quản thấi giám, trình lên Hoàng hậu. Hoàng hậu cho lệnh mở lãnh cung. Chỉ thấy chiếc sọ của thứu phi trợt trạt những vết răng chuột cũng những lóng xương bị gặm hết thịt da vương vãi trên sàn đá lạnh. Một đàn chuột đói đang dụi mõm chùn chụt những vết máu trên mặt đá… Lúc này không rõ ngày hay đêm. Những con chuột khổng lò dường như buồn ngủ nên đã trở về hang hốc bí mật của chúng ở khắp đâu đó trong lành cung. NGẠN LA buông lỏng tay, lả đầu, thiu thiu nhắm mắt. Chợt nàng thấy toàn thân tràn ngập một cảm giác khoan khoái. Chung quanh bỗng sánh loà. Ánh đèn hay mặt trời? Nàng không phân biệt nổi. Cái ánh sáng lành lạnh này khiến cho nàng như bừng tỉnh, vươn rộng hai cánh tay, mở mắt. Nghe tiếng thì thào đâu đó. Cái tiếng thì thào như một mạch ngầm, như một con rắn trơn chuội run rẩy trườn dưới mạch đá ngau dưới chân, mỗi lúc một rõ dần. Rồi nền nhà bỗng toác ra thành miệng một hầm mộ. Ở dưới đáy hầm mộ là đàn chuột đã hăm he cắn nát tay mặt mũi nàng vừa nãy. Những con chuột giờ đây đang nằm ngủ im thít cạnh ngỗn ngang những bộ xương vừa bị gặm hết thịt da. Khi những tiếng thì thào vừa dứt, những bộ xương cảng tay cẳng chân, đầu lâu từ từ dựng dậy nối nhau chuyển động xếp lại theo trật tự răm rắp, thành hình người. Từ miệng của những con chuột đang ngủ, mọt dòng da thịt chảy ra, đắp vào những bộ xương đó. Có bẩy mươi bẩy bộ xương. Và những bộ xương khô vừa được đắp da thịt đã trở thành những người đàn bà con gái đẹp lộng lẫy. Họ ríu rít kéo nhau lướt towis mớ quần áo xếp thành đồng ở góc hầm mộ, đang sực lên mùi ẩm mốc. Họ trao đổi, giành giật từng thứ rồi nhanh chóng bận xiêm y và cũng trâm cài ngọc giắt, lần bước ra khỏi hầm mộ đi về phía NGẠN LA. Cửa hầm mộ khép lại. NGẠN LA cứng đờ người. Nàng rú lên muốn bỏ chạy mà không sao nhấc nổi đôi chân như hoá đá dính chặt với sàn lãnh cung. NGẠN LA tuyệt vọng, bấm chặt tay vào thành tường đá. Máu chảy ròng ròng trên những đầu ngón tay nàng trầy xước. Đang sắp nhất đi vì sợ hãi, một giọng nói dịu dàng bỗng cất lên ngay bên tai nàng: - Đừng sợ…! Tân cung nữ… Đừng sợ. Ta là Hoàng thái hậu họ DƯƠNG. Ta đâu muốn hại nàng… NGẠN LA ngước lên. Rất gần, một gương mặt trắng bệch chỉ có đôi môi đỏ chót và một sợi dây lụa trắng vấy máu lòng thòng từ cổ xuống trước ngực. Nhưng gương mặt đó xiết bao phúc hậu qua đôi mắt nhân từ ai oán từ bên trên đang rọi xuống mặt nàng. NGẠN LA nhìn sang bên. Bẩy mơp sáu thị nữ kia đã đứng xép thành hai hàng từ lúc nào, mặt cũng đều trắng bệch như sáp. Cũng vẫn cái nhìn ai oán hướng về phía nàng. Không có vẻ gì là dữ dằn, đe doạ. Bóng ma tự xưng là Hoàng thái hậu họ DƯƠNG cất giọng trầm trầm: - Cô bé tội nghiệp, con có biết đây là đâu không? NGẠN LA nhìn sững, ngơ ngác lắc đầu. - Đây là cung THƯỢNG DƯƠNG ngày trước. Con đang ở cái nơi mà cách đây năm mươi tư năm, ta và bảy mươi sáu thị nữ tội nghiệp này bị Nguyên phi Ỷ LAN và đức hoàng đế NHÂN TÔNG lúc ấy vừa lên ngôi bức tử, buộc phải làm mồi cho đàn chuột đói. NGẠN LA rùng mình. Những con mắt đỏ nhưu than của lũ chuột hiện ra trước mắt nàng. Những móng chân khua ràn rạt trên sàn đá lại xiết óc… - Ta đã coi CÀN ĐỨC như con đẻ. Ta cũng nhận ra cái tài quán xuyến thiên hạ của Ỷ LAN - đứa bần nữ hái sâu. Vậy mà… - …! - Năm mươ tư năm rồi ta không thể nằm yên dưới mộ. Đêm nào ta cũng trở dậy. Nhiều chuột quá. Thâm cung thăm thẳm. Nỗi oan khuất của ta và bẩy mươ sáu thị nữ vô tội kia chẳng lọt được ra ngoài… Từ dưới sàn lại rền rĩ tiếng chuyển động như sấm. Cửa hầm mộ đen ngòm lúc này đã khép lại mở ra cách chân NGẠN LA chưa đầy một bước khiến nàng tưởng như đứng trên vực thẳm. Cái đàn chuột lcú nãy ngủ say giờ đã thức giấc, lấp lánh những con mắt hau háu và những bờm lông dựng ngược cứng như lông lợn rừng. Rồi vọng lên tiếng rên xiết. Một người đàn bà mặc áo bào tía được chế theo y phục của Hoàng thái hậu, gương mặt đầy đặn như trăng rằm, lưỡng quyền nở rộng, đôi mắt sáng với cái nhìn kiêu hãnh, khuôn miêngj cong cong mím chặt, hai góc mép hằn lên những vạch quyền uy. NGẠN LA thét lên một tiếng. Nàng nhạn ra người đàn bà này. Hoàng thái hậu Ỷ LAN - người đã có công hạ sinh đức hoàng đế NHÂN TÔNG và được triều đình cũng như khắp bàn dân thiên hạ ca tụng là có đại công đại đức. Từ một cô gái hái dâu xinh đẹp, bà được đưa về cung, được vua THÁNH TÔNG yêu vì. Bà đã một tay rèn dạy đức hoàng đế lúc ngài mới lên ngôi khi vừa tám tuổi, một tay chấp chính cùng các đại thần như LÝ ĐẠO THÀNH, LÝ THƯỜNG KIỆT… dựng len một sự nghiệp rạng rỡ hiển hách chưa từng có kể từ khi Đức THÁI TỔ lập nghiệp khai sinh ra triều LÝ. NHẠN LA thích thú vì được gặp bà. Nàng thấy có cái gì gần gũi với người đàn bà này. Phải chăng vì Ỷ LAN vốn xuất thân là một cô gái hái dâu còn nàng là một cô bé bắt cua chăng? Nhưng trước mắt NGẠN LA, gương mặt Thái hậu Ỷ LAN thoắt già nua, đầy nếp nhăn, co rúm lại vì đau đớn. Những tiếng rên xiết bật ra từ đôi môi quyền uy của Thái hậu. Bà cúi xuống, cố sức rứt ra một vật gì đó đang đeo bám dưới chân bà. NGẠN LA nhìn theo thì thấy ba con chuột to bằng thân cây chuối đang ngoạm những chiếc mõm nhọn hoắt vào bắp chân Thái hậu. Máu tuôn tỏ lòm thành vũng dưới chân bà. Nhưng người đàn bà đó chỉ rên xiết chứ không hề kêu cứu van xin. NGẠN LA chạy băng băng xuống những bậc thang ẩm nhớp nháp của hầm mộ, chìa tay ra định kéo Thái hậu. Nhưng khi tay nàng vừa đụng đến người Thái hậu thì Thái hậu và đàn chuột đang cắn xé bà bồng cùng tan biến. Tay nàng bị hẫng, rơi tõm xuống khoảng không. Mấy đầu ngón tay nàng lạnh toát. NGẠN LA rùng mình. Nàng chợt ngẩng đầu lên vì nghe vọng những tiếng âm âm từ trên cao: - Cô bé… Chớ đụng vào âm hồn. Bà ta phải đến đây để trả nợ cũ. Chẳng ai cứu được bà ta đâu… Ở tren cao kia Hoàng thái hậu họ DƯƠNG cùng bẩy mươi sáu thị nữ sừng sững vươn mình lơ lửng trên nền tường lãnh cung. Những đsôi mắt đau đớn và lạnh lẽo của họ rọi thẳng xuống Thái hậu lúc này đã hiện hình trở lại và tiếp tục bị những con chuột chụm đầu cắn xé. - Lại cái giọng nói dường như ngọt ngào của DƯƠNG Thái hậu: - Ỷ LAN… Ngươi có biết đau không? Linh Nhân Ỷ LAN cắn môi bật máu. Bà hất đầu kiêu hãnh làm cho chiếc mũ miện long lanh trong ánh sáng lạnh của hầm mộ: - Tất nhiên là ta biết đau… Hoàng hậu họ DƯƠNG…! DƯƠNG Thái hậu không đổi giọng: - Da thịt con người mà… Ỷ LAN. Nhưng ngươi chỉ mới bị chuột cắn mười năm nay. Còn ta với bảy mươi sáu thị nữ thì đã trải qua năm mươi tư năm dưới hầm mộ. Năm mươ tư năm bị chuột cắn là bao nhiêu đời người… hả Ỷ LAN? LINH NHÂN cúi đầu im lặng. Những tia sáng rực rỡ của những viên ngọc dạ quang trên mũ miện cũng thoắt mờ đi. DƯƠNG Thái hậu cười nhạt: - Ta đã làm nên tội gì hả cô gái hái dâu đất KINH BẮC kia? Phải chăng tội của ta chỉ là đã tin ngươi và yêu thương CÀN ĐỨC con trai ngươi như con đẻ của ta? Ngươi đã nói nhữung gì và làm những gì trong cái ngày đẫm máu đó? Nghiệt phụ! Giọng LINH NHÂN run rẩy, như chìm dưới nước: - … Phải… Ngày ấy… ta đã nói cùng CÀN ĐỨC khi ta nhìn tháy cái mũ miện Thái hậu lấp lánh trên đầu ngươi… Con trai ơi, mẹ già khó nhọc mới có ngày nay mà bây giờ phú quí người khác được hưởng thế thì con để mẹ già vào đâu! DƯƠNG Thái hậu ngắt lời: - Từ một con bé hái dâu, ngươi đã một bước lên ngôi Nguyên phi cận kề bên đức Thánh tông. Rồi khi Hoàng đế băng thì ngươi đã được tôn lên làm Hoàng Thái phi. Phú quí của ngươi cao chót vót, ân sủng của vua đã từ ngươi mà tưới đẩm cả dòng họ xứ quê mùa… Vậy mà lòng khao khát phsu quí của ngươi còn chưa thoả ư…? - Không. Với ta như thế chưa đủ. Ta muốn duy ngã độc tôn trong thiên hạ. Ta đã khiến đức THÁNH TÔNG phải mê đắm nể trọng, nhất nhất theo lời. Ta muốn sai khiến được người duy nhất nắm giữ thiên hạ trong tay. Ta phải sai khiến được con trai ta. Không gì thích thú bằng khi thấy chỉ với một ngón tay út của bàn tay ta, cả giang san rùng rùng chuyển động. Ta phải buông rèm để nghe chính sự. Ta đã làm được rất nhiều cho đất nước này. Ta là người đàn bà duy nhất mà sử sách phải mãi mãi lưu truyền… DƯƠNG Thái hậu thét lớn: - Câm ngay! Nghiệt phụ! Ta biết tham vọng khôn cùng của ngươi. Ngươi quả là người đàn bà có trí tuệ và quyền biến có một không hai. Ta chưa bao giờ ngăn trở ngươi. Khi biết tính mệnh của mình bị lâm nguy, ta đã hạ mình van xin ngươi rằng ta xin khước từ ngôi Hoàng Thái hậu. Để mẹ con ngươi được an hưởng ngôi báu, ta xin vào chùa đi tu ăn chay niệm Phật, không bao giờ tưởng đến triều chính vàng lụa. Vậy mà ngươi vẫn không buông tha… - Phải… Đức THÁNH TÔNG hoàng đế băng ở điện HỘI TIÊN ngày CANH DẦN tháng GIÊNG năm THẦN VŨ thứ 4… Hoàng Thái tử CÀN ĐỨC con ta lên ngôi trước linh cữu khi mới bẩy tuổi. Bà không có công sinh ra hoàng đế mà được tôn là Hoàng Thái hậu, lại còn được buông rèm nghe chính sự. Còn ta, chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau lại chỉ chịu phận Hoàng Thái phi thôi sao? Không. Ta muốn ta phải là ngôi thứ nhất! vả lại, nếu không phải ta mà là bà buông rèm nghe chính sự, sự thịnh vượng của quốc gia này có được như ngày nay chăng? Kẻ ngáng đường ta, dù chỉ là vô tình, kẻ đó phải chết! Hoàng Thái hậu họ DƯƠNG cất lên một hồi cười khanh khách lạnh người: - Chao ôi! Trời đất quỷ thần hãy nghe! Chỉ để cho một người đàn bà máu mê quyền lực, bước lên ngôi Hoàng Thái hậu mà đến nỗi phải nhúng ngập tay vào máu đến vậy ư? Nét mặt của Ỷ LAN Thái hậu co rúm một lần nữa. Và lần này trong giọng bà có thoáng chút ăn năn, như thì thầm với chính mình: - Phải… năm THÁI NINH thứ hai, trời mưa dầm dề không dứt. Cả tháng trời mưa… Ta đã sai rước Phật PHÁP VÂN về Kinh để cầu tạnh. Ta đã làm đại lễ cầu Thần núi TẢN VIÊN mong cứu nhân gian khỏi một trận hồng thuỷ… Và ta cũng sai người giam đương kim Hoàng Thái hậu cùng bẩy mươi sáu thị nữ vào THƯỢNG DƯƠNG cung này rồi bức cho tất cả phải chết… Ta đã làm Hoàng Thái hậu sau cái chết của bẩy mươi bẩy người…! Bây giờ đàn chuột đã sấn vào, leo cả lên lồng ngực và cánh tay của Ỷ LAN mà gặp thịt da bà. Ỷ LAN quằn quại. Đôi mắt can đảm vẫn nhìn không chớp vào DƯƠNG Thái hậu. DƯƠNG Thái hậu nghiến răng: - Ngươi rước tượng Phật về thờ phụng. Ngươi lập đại lễ cầu đảo Thần núi TẢN VIÊN… Một tay ngươi gõ mõ tụng kinh, một tay ngươi thọc sâu vào bầu máu trong gan ruột của những người vô tội! - Đừng quá lời, DƯƠNG Thái hậu! - Một người như Thái sư LÝ ĐẠO THÀNH lừng lãy cong trạng, tạn tuỵ phò vua giúp nước. vậy mà ngươi, khiến cho ông ta buồn rầu đến mức phải lập Viện ĐỊA TẠNG trong miếu VƯƠNG THÁNH… Ngươi còn giả nhân giả nghĩa phao lên rằng ta và bẩy mươ sáu thị nữ vì quá thương tiếc Đức Hoàng đế mà tự vẫn chết theo hầu hạ người dưới suối vàng!… - Ta làm sao có thể làm khác được. Thời nào cũng vậy thôi, mạng người quá rẻ trong tay các bậc đế vương, nhưng vẫn phải phủ lên những cái chết đó hoặc là một sự đê nhục, hoặc là phản trắc hoặc là một nghĩa cử huy hoàng. Điều này các bậc đế vương thường xuyên làm mà, hoàng hậu họ DƯƠNG! - Ngay cả việc giết người ngươi cũng là một kẻ siêu quần. Nhưng sao ngươi nỡ vu cho ta cái điều mà chính bản thân ngươi cũng không thể làm được… Để lấp liếm việc bức hại chúng ta, ngươi còn noi theo tiền lệ cực kỳ hung ác của tên hung bạo TẦN THUỶ HOÀNG buộc cung nữ phải chết theo vua. Sao ngươi không tự thiêu mà chết theo Đức THÁNH TÔNG để làm gương cho thiên hạ? - Phải. Ta đã dùng nhiều thủ đoạn, DƯƠNG Thái hậu. Ngươi chết oan là phải. Ở trong cung từng ấy năm mà ngươi vẫn không biết rằng cái bức đại vóc đẹp đẽ của triều đình bao giờ cũng dệt nên bởi những mưu mô và thủ đoạn được kéo ra từ những con kén ngậm máu và nước mắt sao…? Dù ta ám hại ngươi và bẩy mươi sáu thị nữ kia, ngươi cũng nên công bằng một chút. Sau đó ta đã dốc lòng niệm Phật, tu tạo nên hơn một trăm ngôi chùa, quảng bá Phật dạo cho thiên hạ thấm nhuần lẽ từ bi… Ngươi không thấy dưới triều con ta, nước Nam này đã lập nên những chiến công hiển hách chưa từng có, đã tôn tạo Quốc tử giám, nôi gương Đức THÁI TỔ mở nhưũng khoa thi đề thoát khỏi mọi sự mọi rợ hay sao? DƯƠNG Thái hậu, sao ngươi không quên thù oán riêng cho đất nước này? Ngươi chẳng qua cũng chỉ là một con mụ đàn bà đầu óc nhỏ hẹp, chỉ dựa vào sắc đẹp và phong thư yểu điệu làm tài sản ở chốn thâm cung để suốt đời núp bóng các đế vương mà thôi…! DƯƠNG Thái hậu lại cười nhạt: - Hãy nhìn ta và bẩy mươi sáu oan hồn này, Ỷ LAN! Những kẻ đầy tham vọng như các ngươi vẫn quen coi mạng sống và niềm yên vui của kẻ khác là những thứ mà bát cứ lúc nào các ngươi cũng có thể tuỳ tiện dí nát dưới gót hài trên đường đeo đuổi mộng đế vương. Tai các ngươi đã điếc trước tiếng khóc than rên xiết của những người yếu ớt đã bị giẫm đạp dưới bước chân voi ngựa… Mặt cắt không còn hạt máu, LINH NHÂN cố rứt một con chuột đói đang lăm le ngoạ những chiếc răng nhọn hoắt vào mồm bà: - Không… Ta không điếc… Nhưng ngươi cần phải biết, cái người điều binh khiển tướng khi mở đường máu cho một đại quân thì không được quá quan tâm đến tiếng kiêu của kiến và cỏ… DƯƠNG Thái hậu tiếp tục, căm hờn: - Sau mỗi lần nhúng tay vào tội ác thì các ngươi giỏi giang lắm trong cách tìm ra những thủ đoạn để lấp liếm, phủ lên tội ác một bức màn trướng đẹp đẽ hòng che mắt thiên hạ. Ỷ LAN, ngươi che mắt được thiên hạ nhưng có che được con mắt của lương tâm ngươ không? Bẩy mươi sáu oan hồn thị nữ rầm rì tiến lại với những bước chân đe doạ. Một trăm năm mươi bàn tay trong suốt đưa r túm lấy áo Ỷ LAN. Ỷ LAN trợn tròn đôi mắt đã mất sinh khí. Bà lùi dần, sát vào chân tường: - Không! Tiếc thay suốt đời ta đã không đánh lừa được lương tâm mình. Nhưng sau đó ta đã cố công khuyến nghiệp từ bi… Khắp hầm mộ rộn rực tiếng các oan hồn không rõ hình hài. Bẩy mươ sáu thị nữ đã túm được áo Ỷ LAN Thái hậu. DƯƠNG Thái hậu căm phẫn: - Ta biết, sau khi bức hại ta, ngươi đã hối hả tô tượng xây chàu ăn chay niệm phật. Há ngươi không biết rằng một dúm dân đem còm cõi của nước Nam, một mặt thì phải đưa ngực ra chống đỡ mũi tên hòn đạn của ngoại xâm, mọt tay thì phải dồn công góp của, thắt ruột phun phen tạp dịch… Còn đó những oan hồn dưới bức tường đá nặng trịch của những ngôi chùa. Ngươi làm cho dân hay chỉ để an ủi cái lương tâm ngươi, đẻ ngươi được trọn vẹn hưởng lạc, Ỷ LAN? Tại sao khi có một vị gián quan can ngăn việc xây quá nhiều chùa tháp làm dân lao lực thì ngươi lại nổi giận và đày ông ta lên chốn rừng thiêng nước độc? Đó chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Phạt dạy lời từ bi, dạy "Phật tại tâm…". Ngươi có thật sự tin rằng Phật đang ngự tại những ngôi chàu lộng lẫy mà ngươi đã xây nên không? Ta tin rằng đức Phật không ngự ở những nơi mà Phật có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng thấy hai chữ từ bi…! Những mảnh đại vóc của Ỷ LAN bắt đầu nục ra dưới bàn tay của các thị nữ. Thái hậu kinh hoàng chạy trốn. Nhưng từ bốn phía của hầm mộ cũng chìa ra tua tủa những bàn tay trong veo. Và đàn chuột đói hầm hè trở nên đông đúc vô kể. NGẠN LA thấy thương xót trước vẻ tuyệt vọng của Ỷ LAN. Nàng xót xa quỳ xuống trước mặt DƯƠNG Thái hậu: - Xin bà tha cho cái bà bị chuột cắn kia. Đau lắm! Bà ấy không chịu nổi đâu… Lúc đó DƯƠNG Thái hậu mới nhớ đến NGẠN LA. Bà đỡ nàng dậy, ánh mắt dịu đi: - Không. Đây không phải là ta, cô bé ạ. Đây là âm phủ. Con là người có duyên có kiếp nên mới được tiết lộ về những câu chuyện cõi âm. Con còn bé quá, chưa biết rằng ở trên trần thế, người ta có thể chạy chốn nhiều thứ. Nhưng khi chết xuống âm phủ thì người người đều phải đối diện với chính mình trước mặt DIÊM VƯƠNG. Ỷ LAN Thái hậu oằn mình vì đau, hỏi NGẠN LA: - Ngươi là ai? Sao dám nghe những chuyện chết người này? Ta cấm chỉ ngươi không được tiết lộ với bất kỳ ai. Dù ta chết đã lâu những trong dân gian đâu đâu cũng đang tôn thờ ca tụng công đức của ta và con trai ta. Ngươi muốn giữa mạng thì hãy liệu giữ mồm. DƯƠNG Thái hậu phá lên cười: - Ôi, Ỷ LAN. Âm phủ đã mười năm mà sao ngươi vẫn còn chưa từ bỏ những tham vọng hão huyền! Một người đàn bà sắc sảo như ngươi mà lại không biét rằng thiên hạ thờ người chết, thật ra chẳng qua thiên hạ mượn thây chết mà dùng cho những mục đích của họ đấy thôi. Hãy trông đây Ỷ LAN… Vưu vật tuyệt thế này đã bị cái lệ độc ác mà ngươi đặt ra đưa lên giàn thiêu. Ngươi và cả ta nữa, cũng chưa biết được nỗi sợ hãi khi kề cận cái giàn thiêu mà cô bé con vô tội này phải trải qua. May mắn thoát khỏi ngọn lửa thiêu, cô bé lập tức bị tống vào lãnh cung. Con chim nhỏ này đã làm nên tội tình gì? NGẠN LA quay sang nhìn Ỷ LEN với đôi mắt căm hờn. Nhưng khi trông thấy máu rỉ ra từ những vết thương bị chuột cắn của bà, nàng lại động lòng thương xót. Bỗng nghe có tiếng ồn ào và tiếng khoá sắt ngoài cửa lim khua loảng xoảng. Lắng nghe kỹ nữa, dường như có tiếng trống "tum…tum…". Trong nháy mắt, DƯƠNG Thái hậu, bẩy mươi sáu thị nữ, Ỷ LAN Thái hậu và lũ chuột bién vào cái miệng mở toang của hầm mộ. Hầm mọ khép lại không còn dấu vết. Cánh cửa lãnh cungđột ngột mở toang. Luồng ánh sáng chói gắt oà vào xô ngã NGẠN LA. Nàng lẩy bẩy che mắt nhìn, thấy bốn người khiêng chiếc võng điều. Kèm bên là bốn thị nữ đã đưa nàng vào buồng tắm của tiên hoàng lúc mứoi vào cung. Những người khiêng võng nhanh nhẹn đặt NGẠN LA hầu như bất tỉnh vào trong võng rồi khiêng đi. Khi nàng tỉnh lại trong hồ nước tắm thơm, lại thấy bốn thị nữ đang lặp lại những cử chỉ săn sóc thân thể nàng như lúc mới vào cung. Một lần nữa tấm thân mảnh mai mượt như lụa của NGẠN LA lại được tẩm hương. NGẠN LA tỉnh hẳn dưới sự vuốt ve của làn nước nóng trong hồ tắm ngọc. Nàng lờ mờ hiểu rằng mình đang được chuẩn bị cho một lễ dâng hiến.
Chương 10 LONG SÀNG MẬU THÂN, Tháng Ba. THIÊN THUẬN năm thứ nhất (112. THẦN TÔNG vật vã trên nệm gấm Lên ngôi mới được ba tháng, ngài vẫn còn là mọt con rối mặc hoàng bào, được nhào nặn từ khí chất của một vị hoàng đế quyền uy với một đứa trẻ mười ba tuổi tính nết thất thường được chiều chuộng tột đỉnh và hay hờn dỗi. Thấy vua còn là trẻ con, các phe phái trong triều không bỏ lỡ, chen vai thích cánh tranh thủ tâu bày việc nọ việc kia khiến vua liên tục xuống chiếu, ban ra những ngự lệnh có khi đối chọi nhau như nước với lửa. Ngày TÂN MÃO, tháng GIÊNG, để tỏ lòng tiếc nhớ Tiên hoàng NHÂN TÔNG vừa băng, vua ban chiếu cấm dân chúng không được cưỡi ngựa, đi võng màu lam, xe che màn. Thế nhưng chưa được một tháng sau, chưa đến lễ tốt khốc, đã truyền cho các quan cởi bỏ áo trở. Lại sai Viên ngoại lang LÝ KHÁNH THẦN và vợ đi đón con gái của Điện tiền chỉ huy sứ LÝ SƠN để lập làm LỆ THIÊN Hoàng hậu, sai Viên ngoại lang TRẦN NGỌC ĐỘ và vợ đi đớn con gái của LÊ XƯƠNG là cháu chú bác của Thái uý LÊ BÁ NGỌC vào cung lạp làm MINH BẢO phu nhân… Khiến thiên hạ có lời đàm tiếu về chữ hiếu của đấng tiên vương. Một loạt các chức vụ, quan lại trong triều được định đoạt chỉ dựa vào ý thích của vị tân vương non trẻ và những lời tâu trình nhỏ to của lũ cận thần, nội thị hầu hạ trong cung. Ngày KỶ SỬU tháng GIÊNG, biếm Đại liêu bang LÝ SÙNG PHÚC vì đi qua cửa thành TÂY DƯƠNG, người tuần tra hỏi mà không trả lời. Ngày TÂN SỬU cùng tháng, lấy LÊ BÁ NGỌC làm Thái uý, thăng tước Hầu. Nội nhân hoả đầu LƯU BA, DƯƠNG ANH NHĨ làm Thái phó, tước Đại liêu bang. Nội nhân hoả đầu LÝ KHÁNH, NGUYỄN PHÚC, CAO Y làm Thái Bảo, tước Nội thương chế. Nội chi hậu quản gáip LÝ SƠN làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung thừa MÂU DU ĐÔ làm Gián Nghị đại phu. Rồi LÝ TỬ KHẮC chỉ có công daâg tấu ở rừng GIANG ĐỂ có hươu trắng, vua sai người đi bắt được, liền sắc phong ngay KHẮC làm Khu mật sứ, xếp vào hàng Minh Tụ, được đội mũ bẩy cầu… Biết THẦN TÔNG vốn là một đứa trẻ yếu đuối, hay mềm long, mỗi khi thấy những kẻ tội nhân đói khát, rách rưới, bị lao dịch, đấnh đập trong nhà ngục của Đô hộ phủ thì không sao chịu nổi, thường ôm mựt khóc nức nở, quan hầu cận lập tức đưa xa giá đi nới khác, bắt hý phường hay con hát làm cho vua ng*ôi ngoai, người nhà của phường kẻ cướp đại gian đại ác đang bị nhốt trong Đô hộ phủ hợp nhau lại, bàn kế đem vàng lụa đút lót cho lũ thái giám, cận thần hầu hạ vua. bọn này tìm cách mượn lời lẽ ngọt nhạt thương cảm nói về nhân nghĩa khiến vua đọc lời tấu lại ôm mặt khóc lần nữa. Tháng Hai THIÊN THUẬN năm thứ nhất, tháng Hai THIÊN THUẬN năm thứ hai, vua xuống chiếu nhất loạt tha tội cho các tội nhân và những kẻ bị biếm truất trong nước… Cũng như các đấng tiên đế, THẦN TÔNG một long sung kính Phật. Mọi hưng vong, thành bại của việc, của người vua và các cận thần đều qui công cho Phật, Đạo. Tháng Giêng MẬU THÂN, Nhập nội Thái phó LÝ CÔNG BÌNH phụng chỉ đem quân đi đánh CHÂN LẠP vào cướp bóc ở bến BA ĐẦU, châu NGHỆ AN. Ngày ĐINH MÃO, tháng Hai, tin báo thắng trận về kinh. Hôm sau, ngày MẬU THÌN , vua ngự đến hai cung THÁI THANH, CẢNH LINH cùng nhiều chùa quán trong kinh thành để làm lễ tạ ơn Phật, Đạo… mà quên những việc tưởng thưởng, uý lạo tướng sĩ đã có công phá giặc… THẦN TÔNG vật vã trên nệm gấm. Một giải áo kết bằng chỉ kim tuyến màu cẩm đào dưới nách vạt áo gấm của đức vua vị tuột, tà áo cẩu thả trễ xuống. Cung nữ quạt kề bên muốn quì xuống để nâng buộc lại mà không dám. Thấy hơi thở của ngài ngự gấp gáp, tưởng ngài khát, một cung nữ khác vội dâng lên chén sâm thang. Nhưng bất chợt ngài vung tay hất đổ bát thang, tung chân đạp vào mặt cung nữ, miệng la hét ầm ĩ “Cút đi! Các ngươi cút hết đi cho khuất mắt ta… ta không muốn nhìn thấy mặt các người…!” Đám cung nữ sợ mất vía, chạy dạt sang bên, không dám bỏ đi. Bàn ngự thiện đặt trước long sang. Sáng nay, giữa bàn đặt món trân vị dưới hình hài một con ngỗng vàng còn nguyên mỏ và đôi cánh vươn cao như sắp bay lên. Để làm món trân vị, Ngự trù thuộc Lục thượng cục trong cung đã phải mời các hoả đầu đã từng nấu ăn trong cung nhà TỐNG. Phải nhốt ngỗng trong lồng kín ba tháng không để ánh mặt trời lọt vào, nuôi ngỗng bằng những hạt kê vàng trộn sữa dê cùng với một thứ bột màu nâu bí truyền của đầu bếp phương bắc. Khi mở lồng, ngỗng gần như mù kín mắt, không nhích nổi một bước nhưng cái mỏ thì đỏ chót, đôi chân mập bụ sữa, thịt mềm da vàng óng. Làm lông, mổ bụng, ngồi bát vị vào bụng ngỗng. Thêm một con sơn dương mổ sẵn. Ướp trân vị vào bụng sơn dương. Đặt ngỗng vào trong bụng sơn dương, khâu kín bằng chỉ ruột mèo. Quay sơn dương trên lò than hoa. Cứ đúng thời khắc lại gia giảm them những gia vị bí ẩn thoang mùi thơm hắc. Sơn dương chin vàng ươm, mở bụng, khéo tay lấy ngỗng ra, lại tẩm them gia vị chiết từ nhựa loại cây rừng và tù trưởng các vùng phiên trấn thường mang theo mình để hít thở mùi thơm. Cái mùi thơm đặc biệt ấy khiến các tù trưởng trèo đèo lội suối hay dâm lạc với đàn bà không khi nào thấy mệt!. Món trân vị đã hoàn tất. Ngỗng vàng được đặt trên bàn ngự thiện, còn thịt sơn dương trong lúc cao hứng vua thường sai lũ nội thị xé từng miếng nhỏ ban thưởng cho các cận thần, quí phi… Nhưng lúc này, THẦN TÔNG hầu như bỏ mặc mọi thứ. Sau lưng vị vua trẻ, chỉ vén tấm rèm đại vóc màu phỉ thuý kia, sẽ hiện ra dục thất của ngài ngự. Một bể tắm lớn bằng đá hoa cương cũng màu phỉ thuý, bốn phía đặt những tấm gương đồng sang choang. Mỗi ngày, sau buổi thiết triều, vị vua nhỏ tuổi được dìu vào chốn này, trút bỏ ngự bào trong tiếng đàn sáo từ trên cao toả xuống. Rồi trong làn hơi nước thơm ngào ngạt, mờ ảo sương giăng. Ngài ngự sẽ ngã vào tay bầy cung nữ tuổi chưa quá mười ba mà than hình đã nở nang, da trắng như mỡ ddongjg, tóc xoã ướt tựa rong rêu, choàng ngang thân một mảnh vải cũng màu phỉ thuý mờ đục khiến cho những đường cong càng them khêu gị nõn nường. Những đôi tay dệt thành một tấm lưới dịu ngọt, đỡ lấy vị hoàng đế gầy mảnh. Bằng những kinh nghiệm thâu nhận kỹ lưỡng từ những cung nữ luống tuổi dàu dạn trong hậu cung, các cung nữ trẻ dìu vị chua tể của họ vào cõi cực lạc, dưới sự trông coi không rời mắt của lũ giám quan đứng nửa kín nửa hở sau những tấm rèm buông chùng xung quanh. Khi Tiên hoàng băng chưa đầy một tháng, sau khi ban chiếu cho triều đình bỏ áo trở, THẦN TÔNG được dìu vào trốn này. Dù được sinh ra trong nhà Sùng Hiền hầu hoàng than sang cả bậc nhất kinh thành, lên hai tuổi được vua bác là NHÂN TÔNG vì không có con nối dõi, đem vào cung nuôi, lập làm Hoàng Thái tử, hưởng đủ mọi xa hoa, lại đã tập hành lạc với thị nữ từ năm lên tám, không lạ gì hơi hướng sắc đẹp, nhưng lên ngôi vua, vào đến chốn long sàng, vào đến bồn tắm phỉ thuý, vẫn cảm thấy cực khoái đến ngạt thở, tưởng chừng đang chơi vơi ở cõi Bồng lai. Sau này mới hiểu, tại sao trong các triều đình thường lâm vào cảnh nồi da nấu thịt, thuốc độc hoặc bùa chú ám hại lẫn nhau trong anh em ruột thịt để đoạt ngôi báu. Mê man trong lạc thú bở những tây thâm hậu chuyên bày đặt kỳ công đưa ra cho cá vị chúa tể, THẦN TÔNG trễ nải việc triều chính, chẳng nghĩ đến thiết triều, suốt ngày uể oải đê mê hưởng ái ân trong tay cung nữ. Nhưng lúc này, sau một tháng mê man cùng những lạc thú nơi cung cấm, vị vua trẻ bắt đầu lờ mờ cảm thấy một điều gì đó. Tận đáy lòng, ngài thấy như thiếu một điều gì. Một cơn khát không bao giờ thoả. Trong làn sương ngào ngạt phả ra từ bồn tắm, trong văng vẳng tiếng nhạc thăng giáng từ nóc cung điện, manh nha một nỗi trống trải. Ngài cố tìm trong ký ức. Một hình bóng nào đó ẩn hiện từ kiếp trước. Bóng ma nào lản khuất và vẫy gọi? Ngại chịu không hiểu nổi, không thể gọi tên. Đã ba ngày nay, đức vua bé nhỏ vật vã trên long sàng. Những lúc ngài ngự tính khí thất thường, các cung nữ hay lũ nội giám thường ngầm bảo nhau chạy sang báo với LỆ THIÊN hoàng hậu. Hoàng hậu cốt cách đoan chính, lại lớn hơn bốn tuổi, luôn biết cách làm đức vua dịu tính lại. Nhiều lúc nhìn LỆ THIÊN hoàng hậu vỗ về, dỗ dành THẦN TÔNG như một người chị cả vỗ về an ủi đứa em nhỏ, lũ cung nữ và nội giám đứng hầu xung quanh không khỏi bấm bụng bưng miệng nhịn cười. Rồi lại còn MINH BẢO phu nhân, một kiều nữ thướt tha yểu điệu mà thường ngày ngài ngự rất gần gụi yêu quí. Đã có những lúc ngài ngự khi ăn khi ngủ đều phải có phu nhân kề bên, tay trong tay má kề má. Nhiều khi ngài chỉ mong cho chóng kết thúc việc thiết triều tẻ nhạt kéo dài lê thê để nhanh chóng lên kiệu truyền cho lũ nội giám, cung nữ theo hầu đi nhanh về nội cung để được nhìn mặt cầm tay MINH BẢO phu nhân… Nhưng đã năm ngày nay ngài ngự chẳng vời đến LỆ THIÊN hoàng hậu mà cũng chẳng nhắc đến MINH BẢO phu nhân. Lòng cồn cào như lửa đốt. THẦN TÔNG rời long sàng, truyền thị nữ đưa vào hồ tắm. Những tưởng nước tắm và các cung nữ sẽ khiến cho ngài đỡ cồn cào, trống vắng. Ai ngờ, càng tắm, càng nhìn các cung nữ lả lướt trước mắt, nõi buồn trong lòng THẦN TÔNG càng tê tái. Càng thấy thiếu một điều gì đó, thiếu một ai đó đến rưng rưng. Nước mắt tự nhiên ứa ra, rơi xuống hồ phỉ thuý. Chợt Đức vua đứng vùng dậy, khiến cho các cung nữ hốt hoảng ngã dạt ra tứ phía. Gọi giật giọng: - Thái giám? Viên Tổng Thái giám đang đứng kính cẩn khoanh tay sau bức màn, lòng lạnh tanh trước những cảnh trong cung cấm, chỉ chăm chăm lo lắng đến việc bảo toàn sự an nguy của ngài ngự, không bỏ sót bất kỳ cử chỉ nào của các giám quán chầu hầu và cung nữ. Dù Đức vua gọi giật giọng, không hề hoảng hốt, Thái giám khoan thai bước đến bên cạnh hồ tắm, cúi đầu thi lễ: - Muôn tâu! Hạ thần xin chờ lệnh… THẦN TÔNG hơi cau có nhìn cái vẻ khúm núm của Thái giám. Bụng dạ người ta thật khó lường. Ngài nhớ, cha ngài là đức Sùng Hiền hầu đã có lần nói rằng, chính viên Tổng Thái giám này trước đây đã cố sức ngăn cản việc lập ngài lên làm Hoàng Thái tử. May nhờ đức NHÂN TÔNG và Ỷ LAN Thái hậu một dạ quyết đoán nên ngài, lúc đó mang tên DƯƠNG HOÁN, mới được lên ngôi vua ngày hôm nay. THẦN TÔNG sẵng giọng: - Nghe đây. Ngươi có nhớ… - giọng nói của đức vua bất chợt bật ra, gấp gáp… Giàn thiêu cung nữ ở NA NGẠN… - Dạ bẩm Hoàng thượng… - Có đứa con gái mà ta tha tội chết trên giàn thiêu… - Dạ bẩm Hoàng thượng… -Nhà ngươi không phải thưa bẩm gì cả… Hãy mang con bé đó lại đây cho ta… Mang ngay…! - Dạ bẩm hoàng thượng… Tổng Thái giám dập đầu quỳ lạy trước hồ tắm, hai đầu gối xiêu vẹo vì sợ hãi. Tổng Thái giám không được tháp tùng đức hoàng thượng trong chuyến đi NA NGẠN làm lễ thiêu các cung nữ gửi xuống suối vàng để hầu hạ tiên đế, nhưng chuyện về cung nữ NGẠN LA thì ai trong chốn hậu cung này chẳng rõ. Không phải vì cô vị giam trong lãnh cung. Những kẻ xấu số dẫu có nối nhau bỏ mạng nơi thâm cung u tối đó cũng chẳng ai để ý đến. nhưng việc tân cung nữ mười ba tuổi NGẠN LA dám chống lệnh chiều đình, không bước lên giàn thiêu theo hầu đức tiên đế nơi chín suối là một tội tày đình mà chỉ có nhờ lượng cả bao dung của đức vua THẦN TÔNG mới thoát khỏi cái tội chém ngang lưng. Giam cô ta vào lãnh cung để nhận cái chết dần mòn là phúc cho cô lắm. Thế mà giờ đây Hoàng thượng lại truyền vời NGẠN LA đến hầu…! - Dạ bẩm Hoàng thượng… - Sao nữa… Ngươi còn đứng trơ ra đó à? Đức vua thét. Thái giám nín hơi lấy hết can đảm: - Dạ… Bẩm tâu… NGẠN LA hiện bị giam… trong lãnh cung… Xin bệ hạ tha tội chết cho thần… Thần e rằng… Vừa nghe xong, THẦN TÔNG xé toạc luôn cái khăn đang quấn ngang người: - Bị giam vào lãnh cung? Ai giam… Ta hỏi ngươi… kẻ nào cả gan giam nàng…? Một lần nữa lồng ngực viên Thái giám thót lại. Làm sao dám tâu bày đó chính là truyền chỉ của Hoàng thượng! Ai có thể nghĩ rằng đến một nào đó như lúc này Hoàng thượng lại chợt nhớ, lại truyền chỉ đưa cung nữ tội nhân đó vào hầu hạ bên long sàng… Nhưng thật may cho viên thái giám. THẦN TÔNG đã bất chợt lăn mình trên đệm gấm, hai tay đập thình thình miệng la hét liên hồi: - Mặc… Mặc các người…! Mang nàng đến cho ta…! Rồi các ngươi cút ngay đi cho khuất mắt ta…! Tổng Thái giám lại dập đầu cúi lạy rồi lập cập lui ra. THẦN TÔNG chong chong nhìn ra ngoài, vật vã nóng lòng từng giờ từng khắc ngóng đợi tiếng trống bạc báo hiệu võng đưa NGẠN LA tới… Tổng Thái giám đã trở lại sau khi cắt đặt người đến lãnh cung đón cung nữ NGẠN LA. Ngắm Đức vua nôn nóng như đưúa trẻ nằng nặc đòi một thứ đồ, Viên Tổng Thái giám chợt nhớ đến cậu bé DƯƠNG HOÁN cách đây mười hai năm. * ** Mùa thu, tháng Bẩy, ngày hai mươi nhăm. HỘI TƯỜNG ĐẠI KHÁNH năm thứ tám (1117). Vua NHÂN TÔNG thẫn thờ ngấn lệ, quanh quẩn không rời bên gối Ỷ LAN Hoàng Thái hậu. Thái hậu vừa băng. Khi Thái hậu lâm trọng bệnh, gương mặt đẹp đẽ thường ngày của bà đã bắt đầu biết dạng. Bà nằm trên giường, thỉnh thoảng lại đứng phắt dậy, kêu rú, luôn miệng thét đuổi chuột, chân giẫy đành đạch, tay hoảng loạnh đưa qua đưa lại quanh ình như cố sức vứt một vật gì ra khỏi da thịt. Những lúc như vậy, mặc các thị nữ lay gọi, Ỷ LAN Thái hậu không nhân ra bất kỳ ai, chỉ thỉnh thoảng khóc gọi tên DƯƠNG Thái hậu rồi nghiến răng kèn kẹt. Ba ngày nay, những cơn mê sảng mỗi lúc càng bấn loạn. Ngự y vào xem mạch, khoát tay lắc đầu thất vọng, nói vào tai Thái bải LÝ TRÁC: "Trong nội nhật thôi!". Vua NHÂN TÔNG khóc nức, cùng tất cả các hoàng thân Sùng Hiền hầu, Thành Khánh hầu, Thành Quảng hầu, Thành Chiêu hầu, Thành Hưng hầu và các hoàng hậu, phu nhân, các trọng thần chầu chực bên giường. Khi đến, Thái hậu đã bằn bặt thiếp đi, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Vua và các hầu cùng thị nữ cất tiếng khóc vang trời. Ở bên ngoài, hữu ty và các lễ quan bắt đầu tấp nập lo hậu sự. Bỗng nhiên mi mắt Thái hậu giật nhẹ. Rồi bà chống tay ngồi dậy, vẻ khoẻ mạnh tỉnh táo hoàn toàn, như không có chuyện gì xảy ra. NHÂN TÔNG và những người ngồi quanh reo lên mừng rỡ. Hoàng hậu và các thị nữ vội đỡ lưng. Thái hậu đưa đôi mắt thoắt trở lại tinh tường nhìn lướt khắp các khuôn mặt. Giọng nói của Thái hậu chợt lại vẫn uy nghi: - Ta dặn các ngươi rồi… Thằng bé con đó đâu? - Muôn tâu…! - Mang nó lại đây cho ta… - Muôn tâu…! NHÂN TÔNG ra hiệu. Thái bảo LÝ TRÁC lật đật đến bên Sùng Hiền hầu phu nhân. Hai vợ chồng Sùng Hiền hầu vội vàng trở ra. Thị nữ chực sẵn lúc nào từ ngoài cửa, tay bế dương hoán mới chừng hai tuổi. Sùng Hiền hầu phu nhân hối hả như giằng lấy con, cùng chồng và LÝ TRÁC bế đến bên giường Thái hậu. Khi vợ chồng Sùng Hiền hầu tới nơi, đã thấy bốn cậu con trai đẹp đẽ, khoẻ mạnh là con của các hầu, lớn hơn DƯƠNG HOÁN. Nét mặt của tất cả mọi người đều căng thẳng, quyết liệt. Đức vua NHÂN TÔNG thở dài buồn nản. Riêng hoàng hậu thì cứ nhìn những đứa bé trai mà tủi phận khóc rũ rượi sau lưng Thái hậu. Vừa thấy DƯƠNG HOÁN trong thay Sùng Hiền hầu phu nhân, mặt Thái hậu tươi lên. Bà đưa bàn tay khô khỏng chạm nhẹ lên vầng trán rộng, sáng ngời của đứa bé: - Cái trán này, có thể giữu vững cơ nghiệp cho nhà LÝ ta đây. Tổng Thái giám nhớ, lúc trong rõ mặt đứa bé hai tuổi DƯƠNG HOÁN, ông đã giật mình. Rất quen. Một gương mặt mà ông đã gặp. Dung mạo ấy khác thường, hơi ma quái, có sức sai khiến người. Gặp một lần không thể quên. Nhưng không thể gọi tên. Thái hậu đột ngột ngẩng lên. Người nhìn như điểm mặt NHÂN TÔNG, Hoàng hậu, vợ chồng Sùng Hiền hầu và tất cả mọi người đang đứng im phắc như nín thở quanh giường. Thái hậu im lặng hít một hơi dài rồi lại thong thả lên tiếng: - Các ngươi hãy nghe ta… Thằng bé này mới hơn hai tuổi đã thông minh đĩnh ngộ, dung mạo chẳng phải thường… Cả đời ta không tiếc công sức để gìn giữ ngôi báu. Xã tắc luôn cần có người tài để cai trị. Đức vua hiện nay bạc phận không con nối dõi. Trước đây ta đã truyền đem con trai của các hầu vào nuôi dưỡng trong cung, chọn lấy đứa tài nhất. Xem ra DƯƠNG HOÁN dù mới hai tuổi nhưng là đứa nổi trội hơn cả. Khác hẳn người thường. Sau khi ta chết, hãy lập thằng bé này làm Thái tử, sau này lên nối ngôi trị vì thiên hạ, duy trì ngàn đời triều đại nhà LÝ ta…! Chung quanh lặng ắng đi sau lời phán truyền của Thái hậu. Vẻ thất vọng thoáng chút căm tức hiện lên trên khuôn mặt của các hoàng thân và phu nhân. Chờ đợi giây lát, Thái hậu cố ngẩng đầu lên nhìn lại chung quanh, gằn giọng hỏi lại: - Các người… có nghe rõ lời ta… truyền… không? Chỉ có đức vua và vợ chồng Sùng Hiền hầu cùng Thái bảo LÝ TRÁC vội vã đáp: - Dạ bẩm Thái hậu… Hoàng nhi và các triều thần đều nghe rõ rồi ạ…! - Được…! Thái hậu buông tay. Những lời nói vừa rồi đã làm Thái hậu kiệt sức, bà nhắm mắt ngả lưng tựa vào tay hai cung nữ đỡ phía sau để thở. Nhưng đôi mắt của Thái hậu vẫn hé mở. Bà ưỡn người nhìn quanh như để đắn đo. Ánh mắt dừng lại trên mặt quan Nội chi hậu quản giáp LÝ SƠN. Thái hậu đưa ngón tay làm hiệu vẫy tiểu thư còn LÝ SƠN lại gần. Cô bé sáu tuổi từ nãy đến giờ nép bên tay mẹ nhìn Thái hậu, giờ sợ hãi chồn chân trụ lại. Nhưng người mẹ đã ý tứ nhẹ nhàng đẩy con lên với nỗi hồi hộp cuồn cuộn như sóng trong lòng. Cô bé đến bên giường. Thái hậu lặng lẽ nhìn cô bé giây lát rồi run rẩy chạm vào bàn tay bụ bẫm của cô bé. Cố sức lắm Thái hậu mới đưa được bàn tay đó đặt vào bàn tay DƯƠNG HOÁN: - Các ngươi hãy nghe… Một mai đứa nhỏ lên ngôi báu thì cử hành ngay lễ nạp hậu đón con bé này vài cai quản nội cung… Phải làm tức thì việc này… Cái hoạ trống ngội thái tử, trống ngôi hoàng hậu, gây cảnh nồi da nấu thịt, hẳn các ngươi chẳng lạ gì…! Tiếng dạ ran lên xung quanh. Không ai có gan nói thêm được lời nào về những định liệu của Thái hậu. Sùng Hiền hầu là huynh đệ với Đức đương kim hoàng thượng. Nội chi hậu quản giáp LÝ SƠN là người hoàng tộc trong tay nắm giữ hầu hết binh mã của triều đình. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là phu nhân ĐỖ THỊ vợ Sùng Hiền hầu và phu nhân NGUYỄN THỊ vợ LÝ SƠN đều thuộc dòng họ nội, ngoại của Thái hậu và được Thái hậu đưa vào cung gây dựng cho từ khi người được đức THÁNH TÔNG ban ân sủng… Nói rồi, Thái hậu bỗng đổ sập xuống gối. Bà thở hắt, đầu ngật ra sau, mắt trợn ngược. Thái hậu băng. NHÂN TÔNG đặt bàn tay vuốt mắt mẹ. Vuốt ba lần, mắt vẫn mở trừng trừng. Đến khi ngài ra lệnh cho Thái bảo LÝ TRÁC đuổi hết mọi người ra ngoài. Chỉ còn một mình với thi hài Thái hậu, ngài khóc rưng rức, khấn tên DƯƠNG Thái hậu. Khấn lần thứ nhất, mắt vẫn không khép. NHÂN TÔNG quì xuống khấn lần thứ hai, thi hài Ỷ LAN Thái hậu giật mạnh, gần như chồm dậy. Khấn lần thứ ba, thi hài từ từ nằm xuống, không vuốt mà mắt tự khép lại. NHÂN TÔNG ngửa đầu khóc ba lần: "Chẳng lẽ có đức Phật thật sao?", và bước ra ngoài. Hữu ty và lẽ quan đã răm rắp sắp đặt hậu sự. Thái hậu được dâng tên thuỵ là PHÙ THÁNH LINH NHÂN HOÀNG THÁI HẬU. Vua NHÂN TÔNG buồn đau khôn xiết, nhất nhất làm theo lời mẹ, ngay cả việc hoả toáng thi hài và đem chôn sống ba người thị nữ đã tận tuỵ hầu hạ Thái hậu hết sức chu toàn. Một của LINH NHÂN táng ở THỌ LĂNG phủ THIÊM ĐỨC. Xung quanh ngôi mộ lộng lẫy đào ba chiếc huyệt. Ba thị nữ được xốc nách dìu tới, đẩy xuống huyệt. Trong tiếng khóc nghẹn xé ruột của những người bị cưỡng phải lìa bỏ xuộc sống, mộ đoàn tăng ni tay lần tràng hạt, tay cầm phướn đi rắc nước thiêng xuống mộ và rưới lên đầu những người bị chôn sống. Trong lúc đó, những tảng đất được lấp dần đến bàn chân, đầu gối, bụng và cổ kẻ xấu số. Khi đất lấp đến cằm, những người xấu số không thể chửi rủa được nữa, miệng chỉ còn ngớp ngớp như các cạn và đôi mắt muốn nứt tròng để lộ vẻ căm hờn. Để hoàn tất công việc, người ta vào miệng mỗi người một đồng tiền rồi lấp kín đầu. Lúc đó, những người đứng gần đấy vẫn thấy ngôi mộ sống giẫy lên rùng rùng và tiếng ằng ặc vọng lên một cách yếu ớt từ dưới đất. Thái giám vẫn nhớ, sau khi Thái hậu mất, giông bão trong triều nội khởi phát. Các hoàng thân đều hậm hực ngăn cản việc lập DƯƠNG HOÁN làm Thái tử, lấy cớ rằng cậu bé ốm yêu, trông không giống người thường, lại còn quá trứng nước. Đức hoàng thượng đã cao tuổi, chẳng may có mệnh hệ nào thì vua còn nhỏ như vậy làm sao có thể cai trị thiên hạ, giữ bền xã tắc? Các quan trong triều người phò DƯƠNG HOÁN, kẻ kết bè với các hoàng thân. Cậu bé hai tuổi DƯƠNG HOÁN đã được đưa vào cung nuôi dạy cùng con trai các vương hầu khác. Có lần cung nữ chuyên hầu hạ nâng giấc cho DƯƠNG HOÁN đang lúc nửa đêm bỗng hét ầm lên khiếp sợ. Thái giám, thị vệ hốt hoảng chạy tới. Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt: Một con rắn lục màu xanh lẹt đang quấn quang cổ DƯƠNG HOÁN, vươn cổ định mỏ vào thái dương. DƯƠNG HOÁN vẫn ngủ say. Cung nữ thì đang run lẩy bẩy trong góc phòng, khiếp đảm muốn ngất. Thái giám thị vệ cuống cuồng không biết bằng cách nào bảo toàn tính mạng cho cậu bé. Cái lưỡi nhọn ghê tởm của con rắn độc hạ thấp sát thái dương cậu bé. Vòng cuốn quanh cổ cậu bé lỏng dần, để chỗ cho cái cổ lấy đà vươn cao chực mổ xuống. Đám thị vế ắng lặng vì bất lực. Thị nữ ngất xỉu đi. Bỗng DƯƠNG HOÁN mở mắt. Bàn tay cậu bé đưa lên, đặt vào đúng mõm con rắn xanh. Đám thị vệ thét lên một tiếng kinh hoàng, nhắm mắt lại. Đến khi mọi người chung quanh mở mắt, thì thấy DƯƠNG HOÁN đang chơi đùa với rắn. Con rắn lục với nọc độc khủng khiếp giờ đây đã nằm ngoan ngoãn trong lòng bàn tay hồng hồng nhỏ xíu! Tổng Thái giám nhớ, lúc ấy mắt DƯƠNG HOÁN ánh lên vẻ gì đó rất khác lạ. Lần thứ hai, ông lại tự vỗ đầu mình, cố nhớ lại xem cái diện mẫo này đã gặp ở chốn nào. Đức NHÂN TÔNG giao cho Tam pháp ty điều tra vụ con rắn lục nhưng không sao ra manh mối. Dẫu vậy, nhiều kẻ tâm phúc trong gia đình hoàng thân quyền cao chức trọng ở chiều đình đã biến mất khỏi kinh thành. Ba tháng sau khi Thái hậu mất, mùa đông, tháng Mười, vua NHÂN TÔNG lệnh cho quần thần văn võ ngự đến hành cung KHẢI THUỴ xem gặt và cày ruộng tịch điền. Hữu ty lập trước ở đây một đàn tế Thần nông. Lễ dâng lên Thần nông một mâm xôi trắng, một thủ lợn to, bốn chân giò… Đám thợ gặt chờ sẵn trên ruộng tung hô vạn tuế. Những lượm lúa nặng trĩu hạt đầu tiên được dâng lên ngài ngự. Vua nâng cao lượm lúa trĩu hạt vàng, khấn lạy bốn phương tám hướng tạ ơn trời phật. Lượm lúa truyền qua tay các hoàng thân quốc thích, bá quan văn võ đại thần. Cuối cùng, lượm lúa đến tay quan Trung thư thị lang để chuyển cho đám nông phu chờ sẵn bên cối giã. Đám nong phu kinh cẩn tuốt từng hạt lúa, giã kỹ thành gạo trắng bong để nấu nồi cơm cúng đặt lên bàn thờ Thần Nông. Lát nữa, tàn một tuần hương, các quan Thái bốc, chiêm tinh sẽ hạ mâm cơm gạo mới xuống để nhìn móng chân giò lợn mà đoán trước vụ mùa sắp tới được, mất… Dùng xong bữa cơm đạm bạc dọn ngay trên bờ ruộng với các lão nông, vua NHÂN TÔNG cởi áo bào, khoắc lên người bộ áo tơi nón là. Giữa khoanh ruộng phẳng, một chiếc lưỡi cày sáng choang tay cày buộc khăn lụa đỏ và con trâu cộ đôi sừng cong vút đang chờ Hoàng thượng. Theo lệ đặt ra từ đờ tiên hoàng THÁI TÔNG, đức vua đi cày cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, và nêu gương cho nông phu trăm họ. Năm nay, khác với mọi năm, Đức vua mở đường cày cắt ngang ruộng rộng rồi bất chợt họ trâu, cắm cày dừng lại giữa luống, phất tay lệnh cho Thái bảo LÝ TRÁC. LÝ TRÁC bước lên bậc cao của hành cung, cung kính nâng tờ chiếu viết trên vuông lụa màu vàng, cao giọng đọc: - "… Trẫm nay cai trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi các con trai của SÙNG HIỆN, THÀNH KHÁNH, THÀNH QUẢNG, THÀNH CHIÊU, THANH HƯNG để chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử. Khi Thái hậu băng, người đã có di chiếu, DƯƠNG HOÁN được lập làm Thái tử. Nhưng do trong triều còn có nhiều kẻ không phục, nói DƯƠNG HOÁN còn trứng nước. Trẫm thật đau lòng khi vì một ngôi Thái tử mà có thể dẫn tới chuyện không hay trong cốt nhục. Vậy nay, thể lòng các hầu, nay nhân lễ tịch điền, ta trao việc chọn lựa Hoàng Thái tử vào tay Trời, Phật…!". Đám nội giám lễ mễ bê ra năm chiếc tráp lớn đặt trước mặt năm cậu con trai của các chức hầu. Mở tráp, bầy ra la liệt trước mặt các cậu bé: cung kiếm đao thương, lụa là gấm vóc, nghiên bút kinh sách… cho chí đến những vật dụng thường ngày như son phấn gương lược, rượu chè, kẹo bánh, hoa quả… Các hoàng thân quốc thích văn võ đại thần đều hồi hộp. Mọi người hiểu rằng Hoàng thượng đang dùng thuật "sở nguyện" (để con trẻ tự lựa chọn đồ chơi theo ý thích mà đoán dược ý nguyện, tương lai của đứa trẻ sau này) để xét nết, chọn người trao ngôi báu. Mấy cậu quý tử chẳng đợi lời cha mẹ, lập tức sà vào đống đồ vật rực rỡ trước mặt. Đứa nhặt bạc vàng. Đứa cầm cung kiếm. Đứa bới hoa quả vải vóc… trong sự hồi họp lo lắng đến nghẹn thở của các bậc cha mẹ đứng vây quanh. Riêng chú bé DƯƠNG HOÁN cứ dửng dưng trước đống phẩn vật ngổn ngang trước mặt. Mặc vợ chồng Sùng Hiền hầu vỗ tay dậm chân thúc giục. Chú bé cứ ngồi nguyên vật một lát, như tâm trí non nớt còn để mãi tận đâu đâu. Đến lúc chiếc trống nhỏ trong tay quan Thái bảo sắp dóng lên một hồi chín tiếng báo thời gian đã hết, đức Hoàng thượng cùng các quan đại thần xem xét sở nguyện của mỗi đứa trẻ mà quyết định ngôi vị Thái tử về ai… thì cậu bé DƯƠNG HOÁN bỗng chống tay đứng dậy. Cậu chẳng nhìn ai, chẳng nói chẳng cười, cứ thế lẫm chẫm lần tường bước đi theo đường cày của đức NHÂN TÔNG vừa mở. Loạng choạng vấp ngã. Lại chống tay đứng dậy. Mãi đến khi đến được gần đức vua, cậu bé mới một lần nữa cúi xuống, bàn tay nhỏ bé nhặt lên một đất, toét miệng cười, và giơ tay cầm hòn đất về phía Hoàng thượng như để khoa, rồi đưa lên miệng. Mọi người ngơ ngác. Còn vợ chồng Sùng Hiền hầu thì mặt xanh mày xám chỉ chực chạy tới bế xốc con lên để tránh được cơn thịnh nộ của đức Hoàng thượng về tội bất kính của thằng bé. Nhưng nhìn kìa, từ phía đàn tế Trời, Phật các quan Thái bốc đã lật đật bước tới quỳ thụp xuống trước mặt Hoàng thượng: - Bẩm tâu Bệ hạ… Được vàng bạc châu báu, cung kiếm gươm đao… thì dễ… Được đất mới là triệu được nước… Nhờ phúc ấm của các đấng Tiên hoang, phúc ấm của Thải hậu, giang sơn nhà LÝ ta có ngôi vị Thái tử rồi…! NHÂN TÔNG buông cày, đứng giữa luống đất vỡ dở cất tiếng cười ha hả. Chạy theo hầu bên Hoàng đế, lcú đó viên Tổng Thái giám chợt nhìn vào mắt DƯƠNG HOÁN. Một niềm thoả mãn tột cùng, của mọt người có quãng đời từng trải, bỗng hiện lên ràng rõ trong mắt cậu bé. Khiến cậu bé hai tuổi bất chợt già hẳn đi như một người dàn dạn sương gió, thấm đẫm tham vọng trong cõi đời. Thái giám giật thót người. Nhưng tĩnh khi trí nhìn lại, thấy DƯƠNG HOÁN chỉ là cậu bé hai tuổi với cái miệng bê bết đất. Đêm đó, từ khu ruộng tịch điền KHẢI THUỴ nhìn lên, vòm trời xanh đen xâu thẳm. Mặt trăng có hai quầng. * ** Được nuôi dưỡng từ nhỏ trong cung cấm, hơn mười năm trời sống trong cái không khí aâ âm tranh tối tranh sáng và những tiếng thì thầm to nhỏ nếu không là chuyện dâm bôn khơi gợi thì cũng là sự mỉa mai dèm pha lẫn nhau của đám cung nữ ninh hót ăn không ngồi rồi và lũ nội giám mặt trắng béo phị, Thái tử DƯƠNG HOÁN không la lẫm gì với những chuyện mây mưa chăn gối. Đám nội giám bất lương còn thay nhau bày vẽ ra những việc nam nữ gợi sự tò mò ham thích để lấy lòng Thái tử hòng mưu sự ân sủng sau này. Chưa kể, trước mặt Thái tử là đấng Phụ hoàng tuổi đã cập kề sáu mươi mà chung quanh vẫn nào hậu, nào phi với hàng chục hàng trăm cung tần mỹ nữ ngày đêm khêu gợi. "Tum… tum…" tiếng trống bạc theo võng từ xa vẳng tới. Trước viên Tổng Thái giám, cặp mắt lộ quang sáng chói của THẦN TÔNG luôn bút rứt. Từ khi là Thái tử DƯƠNG HOÁN đến lúc trở thành đức vua THẦN TÔNG, cậu bé mười ba tuổi có thể thoả thích ngụp lặn trong dòng hoan lạc mà không bị ai ngăn cấm. Và ngoài hậu, phi và các phu nhân có biết bao nhiêu vưu vật ngoan ngoãn khác được kiệu được võng nối nhau dẫn đến trước long sàng này đâng hiến thoả mãn cơn khát của vị vua niên thiếu. Nhưng kỳ lạ, càng uống lại càng thấy khát. Và giữa những cơn khát bỏng rẫy nối nhau hành hạ trong tần thần và thể xác của THẦN TÔNG, có lúc ngài lờ mờ, nôn nao nhớ lại một điều gì không rõ… THẦN TÔNG hoàng đế nhỏm người dậy. Trái với lệ thường vẫn chờ cho tiếng trống nối tiếp dồn dập báo võng đến gần, võng qua cửa, võng đến dâng hiến trước long sàng, lần này THẦN TÔNG hấp tấp xỏ chân vào đôi hài thêu chim phượng mà cung nữ vừa vội quì xuống đăth vào đôi chân bé nhỏ trắng lạnh của đức vua. Chợt ngài như trông tháy ngọn lửa đỏ rừng rực toả khói đen lên vòm trời NA NGẠN hơn hai tháng trước cũng lẫn với tiếng sóng nước tiếng giông bão gầm gào suốt trên dải sống GÂM dài dặc trong một ngày đầu hè hơn bốn mươi năm trước. Võng đã tới trước long sàng. Tiếng trống ngừng bặt. NGẠN LA được dìu ra khỏi võng. THẦN TÔNG kêu thảng thốt. Mắt dán chặt vào NGẠN LA. Tổng Thái giám cũng không thể ghìm nỗi tiếng kêu thán phục. Đang đứng trước long sàng kia, không rõ là người hay nữ thần LẠC THUỶ? Phảng phất vẻ mèo hoang. Da dẻ thơm tho. Vẻ mặt luôn biến ảo. Lúc sầu dung mãn diện. Lúc mãn diện quang thái. Lạ lùng ma quái. Trán có nốt ruồi. Dung nhan đầy vẻ cô tịch. Người mảnh khảnh như gió thổi bay. Nàng đến, mà có cảm giác đã đem tất cả cái ánh sáng vàng cháy rực của chiều tà rắc vào hoàng cung. Vậy mà cử chỉ thì quê kệch vụng về. Bàn tay và đôi chân hơi thô nhưng đối cánh tay và đôi chân thon đến nuột nà không giấu được xiêm áo lụa… Tổng Thái giám hồi lâu mới trấn tĩnh được, khẽ nhắc: - Tân cung nhân! Mau quì xuống cảm tạ ân sủng của Hoàng thượng. NGẠN LA không quì. Nhìn thấy THẦN TÔNG bé nhỏ trong chiếc áo gấm giản dụi, xung quanh khong có lính tiền hô hậu ủng, gươm giáo sáng loà, phút chốc NGẠN LA thấy thích thú, như tìm thấy một cậu bé cùng trang lứa để đùa nghịch. Quên hết giàn thiêu, quên hết lãnh cung. Đôi mắt mèo hoàng của nàng nhìn xoáy vào đức vua, rồi nhoẻn cười: - Lần này, tôi mới nhìn rõ Vua… Tổng Thái giám tái mặt thét: - Hỗn. Khi quân! Bay đâu, mau tống giám vào ngục. Vua cau mày. NGẠN LA không để ý, cái nhìn mà mị khiến THẦN TÔNG bị thôi miên. THẦN TÔNG thốt nhiên phì cười. Dường như một ngọn gió mát lành vừa thổi qua bầu không khí đặc sệt tình dục của cung điện và của long sàng. - Nàng thật kỳ lạ. Đừng sợ láo già kia. Lão phải nghe lệnh ta…! Tổng thái giám hậm hực quay đi nơi khác để tránh mặt. Lát sau, thấy trong nội tẩm vẻ im ắng, cực chảng đã, Tổng Thái giám phải rón rén bước chân, nghiêng đầu ghé vào. Tổng Thái giám trợn mắt há miệng. … Thả đỉa va va Chớ bắt đàn bà Làm tội đàn ông… Tiếng cung nhân NGẠN LA lanh lảnh cất lê, như tiếng ngọc rơi. Còn THẦN TÔNG thì vừa chạy đuổi vừa hát theo từng lời của NGẠN LA, thích chí cười khanh khách. Ngài nhẩy cả lên long sàng, làm chăn gối lộn tùng phèo. Vui quá! Khắc hẳn cung cách khép nép, lúc nào cũng làm ra vẻ thướt tha yểu điệu của tất cả các hậu, phi, cung nữ và tiểu thư ngài từng biết. THẦN TÔNG lớn tiếng, vừa chạy vừa cười, hát theo NGẠN LA: … Cơm trắng như bông Gạo tiền như nước Đổ mắm đổ muối… Viên Tổng Thái giám không còn tin ở mắt mình nữa. Trong kia, sau một hồi chạy đuổi, đức THẦN TÔNG thua cuộc bị bắt, đang phải khom lưng làm ngựa cõng cung nhân NGẠN LA. Cô bé hai chân quặp ngang bụng, hai tay bíu lấy chỏm tóc của THẦN TÔNG, miệng đếm; "một… hat…!" theo từng bước đi của Hoàng thượng. Được mấy bước, THẦN TÔNG không chịu nổi sức nặng trên lưng, ngã ngồi xuống. NGẠN LA mất đà ngã lăn kềnh ra tấm thảm mầu huyết dụ. Tổng Thái giám hoảng hốt chạy vào nâng Ngài ngự dậy. Còn cung nhân NGẠN LA thì cứ nằm đío, mặt xịu ra dằn dỗi. "Chao ơi… Không còn phép tắc gì nữa… không còn phép tắc…!". Viên Tổng Thái giám kêu lên. Rồi Thái giám chỉ tay vào mặt NGẠN LA: - Nhà ngươi đáng tội chết chém… Đáng tội chết thiêu…! "Chết thiêu!" NGẠN LA nhỏm dậy, bất giác nhắc lại lời viên Thái giám. Nỗi sợ cùng cực khiến cô bé rúm người lại, hai tay chống trên thảm, lùi xa. Lùi xa THẦN TÔNG: - Chao ơi…! Chết thiêu…! Giàn thiều…! Nhìn vẻ hốt hoảng của NGẠN LA. THẦN TÔNG mỉm cười. Bây giờ ngài không còn là một cậu bé nữa, mà là một người đàn ông từng trải. THẦN TÔNG xua viên Tổng Thái giám lui ra, rồi cúi xuống, thì thầm vào tai nàng: - Hãy xưng là "thiếp" cho phải phép, NGẠN LA. Một cơn sống thèm khát dữu dội đang dâng lên khiến toàn thân đức vua run rẩy. Ngài cúi xuống, bắt đầu mở những dải buộc trên xiêm y của nàng. Một làn da nâu óng mượt bất chợt hiện ra. Điều làm THẦN TÔNG nhìn thấy dưới mấy ngón tay mình khiến THẦN TÔNG nghẹn thở. Tươ tắn như một đoá hoa nhro xíu. Ngọt ngào như mật, chiếc rốn nhỏ màu chu sa của nàng duyên dáng lũm xuống trên chiếc bụng thon nhỏ. "Chu sa đỗ tế". Một người đàn bà có chiếc rốn màu chu sa là ước mơ muôn đời của các bậc đế vương. Hàng trăm năm mới có một người đàn bà nhưu thế. Người đó sẽ là niềm khoái lạc vô tận và đem lại may mắn cho ngôi báu. Đã nhiều lần khi còn là Thái tử DƯƠNG HOÁN, lũ Thái giám và bọn thị vệ đã thì thầm bên tai Ngài như thế. THẦN TÔNG không tin ở mắt mình. Rồi, say đắm, THẦN TÔNG cúi xuống, định ghé môi lên đoá hoa ma mị đó. Gần nữa, và gần nữa. Một làn hương mang vị đắng của cỏ non, của mật ong, của hao sen cuối thị, phả lên từ da thịt nàng. Một nỗi hoan lạc để mê đang dìu dặt tới… Nhưng vua bỗng giật bắn người, chồm dậy, mặt tái đi vì sợ hãi. Ngài nhìn thấy trên chiếc rốn đó gương mặt của Tiên hoàng NHÂN TÔNG. Cái gương mặt ngài nhìn trước khi hấp hối, đã bị biến dạng vì bênh tật. Cái nhìn ảm đảm và đe doạ chiếu thẳng vào mắt THẦN TÔNG.
Chương 11 NIỆM XỨ THUẬN THIÊN năm thứ hai (1129). Mùa Xuân. Tháng Giêng. Ngày THÌN. Vua cho mở hội khánh thành tám vạn bốn ngìn bảo tháp ở gác THIÊN PHÙ. Cách đây ba tháng, ngựa trạm đã phi suốt ngày đem mang lệnh vua cấp báo các ngôi chùa trong nước truyền cho tất cả các sư sãi phải về kinh dự đại lễ. Chuẩn bị hàng trang, dặn dò chú tiểu đóng cửa cho chặt, tay náo kháoc chéo vai, một tay cầm gậy trúc, các sư sãi lên đường về kinh. Các nẻo đường trong nước nhan nhản những vị sư khất thực gầy guộc trong chiếc áo vàng lầm bụi qua vai đi miên man. Đôi khi, người ta bắt gặp xác của một vị sư vô danh khô quắt dưới bóng cây, trên gương mặt vẫn ngưng đọng nụ cười mãn nguyện của người tin rằng mình đang lên đường tới cõi Phật. Để có tám vạn bốn nghìn bảo tháp, triều đình đã huy động vô kể thợ gốm, thợ ngoã ròng rã cả năm trời trước đó để nặn ra những ngôi tháp cao chừng năm tấc, đem nung bằng lửa rơm và than củi trong những chiếc vò khum khum mà mọi kích thước đều do nhóm thợ cả đo đạc, tính toán cẩn thận… Khi ánh lửa tàn, các ngôi tháp xuất lò có màu đỏ như son. Những ngôi bảo tháp được đặt trên gác THIÊN PHÙ khiến cả ngôi gác lộng lẫy, hắt bóng duyên dáng xuống dòng sông uốn lượn. Những nhà sư đến từ khắp mọi miền ngôi la liệt tụng kinh gõ mõ cầu cho sự thịnh vượng của nhà Phật, mừng thiên hạ thái bình, quân của trièu đình bách chiến bách thắng, cầu chúc cho đức hoàng đế THẦN TÔNG sống lâu muôn tuổi. Kiệu vàng của THẦN TÔNG đã đến gần chân gác THIÊN PHÙ. Trong tiếng tiền hô hạu ủng của hàng ngàn quân họ tống và đoàn tuỳ tung, nhát loạt sư sãi cùng háo hức ngẩng đầu nhìn vế phí đức vua. THẦN TÔNG đã sang tuổi mười bốn. Gương mặt xanh xao với đường sống mũi thẳng như một lưỡi dao. Một vành ria mờ mờ hiện bao quanh môi mỏng luôn mím chặt. Đôi mắt ngài ngừ nau hiền như mắt đàn bà. Và thỉnh thoảng đôi mắt đó lại thoắt rờn rờn lên như sóng nước. Kiệu dừng. hai thị vệ đỡ hai tay ngài ngữ xuống kiệu. Quan quân, dân chúng và tăng ni cúi rạp mình trong tiếng hô vang dội: "Đức hoàng đế vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế…!". Tim THẦN TÔNG đập rộn. Tột đỉnh vinh hoa quyền lực là đây. Cố nén niềm kiêu hãnh trong lòng, THẦN TÔNG giơ tay, khẽ nói: - Bình thân! Tại cuộc đại lễ này, ta ở dưới chân đức Phật và chỉ ngang hàng với chú tiếu nhỏ kia! Nói rồi đức vua thong thả dạo bước giữa những hàng dài như vô tận các tăng ni phật tử đang ngồi xếp vòng tròn tay lần tràng hạt, tay gõ mõ, miệng tụng kinh. Chưa bao giờ lòng thành kính với đức Phật lại được bầy ra rờ rỡ như trong đại lễ này. THẦN TÔNG bước đi giữa miên man những màu áo cà sa. Miên mang tiếng gõ mõ đcọ kinh rầm rì như biển sóng lúc nửa đêm khiến những trái tim cứng rắn nhất cũng trở nên mềm dịu. THẦN TÔNG như được ai đó bỏ vào trong nôi và đu đưa và giấc miên viễn. Con đường nào tít tắp xa trước mặt chợt hiện? Mọc đầy đá tai mèo màu tím. Cái ánh sáng nhàn nhạt này không rõ của ngày hay của đêm. Mà văng vẳng tiếng lục lạc rung từ đầu tích trượng của tỳ kheo. Người đàn ông gầy guộc vai đeo tay nải, tay cầm bát gỗ khất thực trên đường thiên lý. Con đường không soi tỏ đi đâu về đâu. THẦN TÔNG không thể cắt nghĩa nổi, tại sao con đường đó cứ bám chặt lấy tâm trí ngài. Trong giấc mơ, bất kể ngày hay đêm, THẦN TÔNG đều thấy hiện lên gương mặt của một thiếu nữ. Gương mặt nhạt nhoà. Chỉ thấy một đôi mày dài và có đuôi như lá. Không khóc mà dường như ấn nấp đâu đó trong khoé mắt là những giọt nước nặng trĩu. Đẹp và buồn miên man khiến trái tim yếu ớt của ngài thổ thức. Mỗi lần mơ thấy gương mặt ấy, THẦN TÔNG đuổi theo. Gương mặt cứ chập chờ xa dần. Nếu có thi thoảng ngài đuổi kịp, thì gương mặt thiếu nữ ấy biến mất, lồng vào đó là một gương mặt có cái mõm nhọn, phủ một lớp lông tơ mượt mà. THẦN TÔNG thức dậy, thấy tràn ngập xung mình mùi ngọt nhàn nhạt, man mát như hương hoa lúa. Ngài chép miệng, cố nhớ lại xem đó là mùi gì. Không rõ. Chỉ biết đó là mùi khiến ngài khát. Khát lắm. Thái y đến để phân định xem mùi gì khiến đức vua đang nhớ, đang khát đến hành hạ thể xác. Tất cả các thứ mang mùi ngọt nhàn nhạt được mang đến. Không phải. Mãi về sau, khi nhũ mẫu mang đến một ít sữa đàn bà mới vắt, đựng trong bình ngọc, Đức vua nhìn thấy mới tỏ vẻ háo hức, nói: "Hình như ta nhớ thứ này". Rồi vồ lấy bình ngọc uống cạn. Sau đó đẩy bình ra: "Được. Nhưng chưa hẳn là thứu ta tìm kiếm. Nhưng từ nay, cứ đúng ngọ, hãy đem cho ta!". Từ đó, cứ đúng ngọ, một bình sữa đàn bà mới vắt được đặt lên mâm ngự thiện. Bình sữa này được Thái y tuyển từ mười hai bình sữa của mười hai người đàn bà sinh con so khoẻ mạnh, mới được bứt ra khỏi trẻ sơ sinh, mang thẳng vào cung, ngày ngày được tẩm bổ sâm nhung quế phụ, chỉ để bữa vắt sữa vào bình ngọc đem dâng Vua. Một lần, Đức vua đòi xem mặt những nô tỳ đã vắt sữa cho vua uống. Nhìn khắp lượt mười hai gương mặt, rồi Vua dừng lại ở một người đàn bà có đôi bầu vú nhỏ, nhọn hoắt, ở giữa hai bầu vú có ba sợi lông dài vàng óng, mắt tròn, mặt nhọn có nhiều lông tơ như mặt dã nhân. Vua đặt tay vào đôi vú, ve vuốt ba sợi lông vàng, nhìn lâu cái gương mặt đó, như nhìn ra cố nhân: "Từ nay, ta chỉ uống sữa của người này". Mười một người đàn bà khác được trả về nhà. Mỗi ngày, người đàn bà mặt nhọn được chăm bẵm, tẩm bổ những món lợn sữa, trước giờ ngọ chừng ba khắc bắt đầu vén áo, ghé đầu vú vào miệng bình ngọc. Một dòng sữa trắng đục, hăng hơn sữa người thường phun thành từng tia xuống đáy bình. Vua uống sữa, đã cơn khát, khỏi ốm. Mỗi lần THẦN TÔNG uống cái thứ sữa đựng trong bình ngọc, thì đỡ nôn nao. Nhưng vẫn mường tượng thiếu một cái gì đó. Mỗi lần ghé môi vào mình sữa, ngài dường như thấy những giọt sữa rỏ xuống từ một bầu vú ấm và lông lá. Giấc mơ viên của THẦN TÔNG tiếp nối, trong khi chân vẫn đưa ngài qua những dòng sư sãi đang cúi đầu tụng kinh gõ mõ. Chợt một tiếng mõ lạc lõng, rơi ra ngoài giàn đại hợp của muôn ngàn tiếng mõ đnag râm ran trong buổi lễ, rót thẳng vào tai THẦN TÔNG. Tiéng mõ đó đứng riêng một sắc, lúc trầm đục như thúc tức vỡ ngực, lcú trong trẻo như tiếng hạc bay, lúc như khóc như than, lúc rủ rỉ như ru êm. Có một sức trì níu ma quái nào đó kéo đôi chân ngài vô tình lựa giữa ngàn ngạt những tăng ni để hướng về phía tiếng mõ. THẦN TÔNG đưa mắt tìm kiếm. Ngài chạy giữa hàng hàng lớp lớp những bóng áo cà sa để nửa vai trần, đầu trọc, đang ngồi xếp bằng theo thế liên hoa, đang nao nức tụng kinh. Ngài xuống quýt tìm nơi phát ra tiếng mõ. THẦN TÔNG chạy ra xa tít. Đám cận thần và lũ thị vệ áo bào vướng víu, võ phục nặng nề khó khăn lắm mới kịp theo bước chân ngài ngự. Khi họ dừng lại, thấy đức vua đứng sững trước một người bé nhỏ. Đó là một sư bà ngồi ở cuối dẫy cuối cùng. Cái đầu trọc cúi xuống. Những sợi tóc mọc tháng điểm lấp lánh như bạc hắt ánh sáng lên gương mặt chăm chú đang hết sức căng thẳng của THẦN TÔNG. Dáng cúi đầu thật yêu kiều. Cái bàn tay lần tràng hạt thon mềm. Chỉ nhìn cũng biết chúng mát như lụa. Bàn tay phải quấn quýt lấy chiếc dùi mõ và bàn tay đó như run rẩy gỗ lên từng chuỗi âm thanh như hơn khóc. Đôi hàng mi nặng trĩu rỉ xuống trông như ngủ. Dường như người gõ mõ đang cử động chiếc dùi trong một cơn mê, với trái tim đang run lên nối nhịp với chiếc mõ vô tri. THẦN TÔNG không bước nổi. Nặng như ngàn cân đeo đầu mũi chân. Ngài dính chặt xuóng mảnh đất trước sư bà. THẦN TÔNG đứng rất lâu, mồ hôi nhỏ giọt ướt cả mặt đất mặc dù có hai tiểu thái giám cầm quạt phe phẩy hai bên. Tiếng mõ khiến tim ngài đau nhói. Cơn đau tim này không bao giờ có trong lồng ngực của một đứa trẻ mười bốn. THẦN TÔNG cảm thấy như mình đã sống qua nhiều kiếp, oải mình vì bể dâu. Một người đàn ông từng trải đang hiện diện trong ngài, ngắm nhìn người đàn bà đầu trọc lạ lẫm lạc lõng với khung cảnh đô hội và trước tám vạn bốn nghìn bảo tháp đang đỏ rực toả sáng. Dường như không Phật, không trời, không vua, không trần gian trong cái hàng mi nặng trĩu sập xuống như then khoá kia. Và ngài háo hức muốn được nhìn tận mặt. Được nhìn vào đôi mắt ẩn sau hàng mi khép như ngủ kia. Nhưng những tiếng rộn rịch của đám tiền hô hậu ủng nãy giờ đã kịp đến tề tựu xung quanh vua trước mặt, sư bà vẫn không ngẩng đầu, vẫn như chìm vào một giấc ngủ say đắm từ thuở hồng hoang. Hàng trăm đôi mắt đổ dồn vào chỗ đức vua và sư bà. Mọi người chưa bao giờ thấy sự lạ như vậy. Bởi dẫu là sư bà hay ai đi nữa thì khi đức vua có biệt nhãn, người đó buộc phải giữ lễ, phải ngưng tụng kinh, phải quì mọp xuống, chắp hai tay xưng tụng đức vua. Khi đức vua cho phép bình thần thì mới được quay lại việc tụng kinh gõ mõ. Viên thị vệ theo hầu vua nổi giận thét: - Sư bà chùa TRẦM… Ngài ngự giáng lâm… sao sư bà không mau mau quì lạy? Sư bà vẫn không ngẩng mặt. Viên thị vệ rút soạt kiếm ra khỏi vỏ. Mũi kiếm lách dưới cằm sư bà: - Mụ này hỗn xược! Thất lễ! Muốn ta đưa mụ đi đường tắt lên Niết bàn phải không? Viên thị vệ tay giữ kiếm không rời khỏi cổ sư bà, mắt nhìn THẦN TÔNG chờ đợi. Nếu nhà vua gật đầu, hoặc chỉ cần nhìn lảng sang chỗ khác, lưỡi kiếm sắc như nước lập tức sẽ đưa ngang, cái cổ mảnh mai sẽ đứt lìa và máu của sư bà sẽ phun lên làm đỏ thêm nhưũng ngọn tháp. Nhưng THẦN TÔNG lại không hề tức giận. Ngài hạ giọng như thì thầm: - Sư bà! Người hãy cho ta nhìn mặt. Lúc đó sư bà chùa TRẦM mới như sực tỉnh khỏi giấc ngủ, vụt ngẩng đầu lên. Đôi mắt lập tức chiếu rực vào mắt THẦN TÔNG. Đôi mắt dài như lá, không khóc mà sũng lệ khiến cho đôi hàng mi không phải là bờ bến mà chỉ như những cánh xửa khép mở đưa người ta đến một cõi phiêu bồng xa thẳm. Đôi màu khói lam ủ dột như chau. Đôi mát ấy hắt cái ánh sáng kỳ lạ khiến ngài ngự rùng mình và trái tim như tuột rơi đâu mất. Mùi da thịt thơm ngát như mùi sen chớm nở thoảng len khiến THẦN TÔNG sững sờ. Vẻ quyến rũ vô tình của sư bà khiến cho người ta quên mất hai nếp nhăn khắc khổ đã hằn vết bên khoé miệng tuyệt đẹp. THẦN TÔNG bất giác tự hỏi: "Sư bà bao nhiêu tuổi nhỉ? Hai mươi. Năm mươi… Hay đã thiên thu…?". Tên thị vệ cũng ngẩn người nhìn, thẫn thờ buông kiếm. Lưỡi kiếm tuột từ cổ xuống, đậu hững hờ trên vai sư bà. - Đức hoàng đế vạn tuế…! Sư bà khẽ nói trong miệng, giọng buông thõng và đôi hàng mi lại đổ sóng soài như cố che giấu điều gì. Đôi bàn tay như lụa lần tràng hạt. Tiếng mõ lại đều đều vang lên. Nhưng không giấu được sự run rẩy. THẦN TÔNG bỗng cảm thấy như say sóng. Dáng vẻ lạ lẩm và mùi hương thoảng lên từ da thịt của người đàn bà luống tuổi đã tự giam mình trong cửa Phật lâu ngày khiến ngài cứ thấy da diết nhớ. Đang đứng trước mặt bà mà lại nhớ. Dường như cái giấc mơ cố hữu đang trở lại. Có phải các gương mặt thiếu nữ mà ngài rượt đuổi mỗi đêm? Nhưng đây lại là một sư bà luống tuổi! Không rõ nhớ gì. Nhưng thổn thức và trống vắng mà cồn cào lo sợ. Sợ giây phút cái hình ảnh đang hiển hiện trước mặt kia bỗng chốc sẽ tan biến vào thinh không như một ảo giác. THẦN TÔNG bỗng hạ giọng, như nài nỉ: - Sư bà động TRẦM, người có thể về trông nom việc tụng kinh niệm Phật trong nội cung ta được chăng? Sư bà vẫn không ngẩng đầu. THẦN TÔNG lại khẩn khoản: - Nội cung của ta đang cần một người nhu sư bà để giáo hoá Phật đạo cho các cung nữ. Lời từ chối bật ra từ lồng ngực rung động: - Kẻ tu hành xin cảm tạ đặc ân của Đức hoàng đế. Kẻ tu hành này đã quen uống nước suối ăn mầm cây trong động TRẦM. Không quen với các nghi lễ quí phái chốn kinh thành… THẦN TÔNG ngạc nhiên, thoáng sợ: - Ngươi từ chối ư? Đó là niềm mong ước của cả ngàn tăng ni… Sư bà vụt nhìn lên, chói chang mắt THẦN TÔNG: - Đức hoàng đế bỏ quaq cho kẻ tu hành này… Lễ sắp tàn. Xin hoàng đế gia ân cho kẻ tu hành này được trở về động TRẦM. THẦN TÔNG lại thêm một lần nài nỉ khiến mọi người chung quanh lại thêm sửng sốt: - Thôi được… sư bà sẽ về chùa TRẦM. Nhưng trước khi sư bà trở về, ta muốn lưu sư bà lại một tuần trăng để cùng đàm đạo đôi điều về Phật pháp… THẦN TÔNG hấp tấp phất tay áo trửo gót không kịp để sư bà từ chối. Khi vua vừa quay mình, từ đôi mắt sóng sánh của sư bà hai dòng lệ trào ra, nối nhau chảy xuống theo những nếp nhăn khắc khổ trên miệng và chảy vào đầu lưỡi, đầy vị mặn. "Nghiệp chướng!" Hai tiếng nấc khẽ trong khoé miệng của sư bà. Chương 12 ĐOẠ XỨ Má đỏ thầm phai… Sư bà chùa TRẦM quì trước bệ rồng. Vua THẦN TÔNG nhấp môi vào chén nước sâm từ tay viên Thái giám đứng hầu ben ngài dâng lên mà mắt vẫn đăm đăm vào sư bà. Người đàn bà lạ lẫm vừa rơi xuống từ một đỉnh núi phủ đầy tuyết sương, trên mắt, trên môi, tên đôi vai mỏng còn nồng mặn mùi rễ cây oải hương và gió thổi quấn quyện từ địa ngục. Ngập ngừng, những lời nói của THẦN TÔNG buông, treo lơ lửng đầu lưỡi: - Sư bà hãy đem Phật đạo giáo hoá các cung nhân của trẫm! Những ngón tay dài và mảnh, trong suốt, chắp lại trước ngực. Có thể thấy roõnhững mạch máu màu tím đang nhẩn nha chảy, lan toả chút hới ấm trên mu bàn tay. Mười búp tay tiểu thư hao gầy dưới những móng tay cũng mãu tím. Đôi hàng mi sững lặng in bóng lên màu da bạc. Đôi môi đầy đặn như môi Phật, màu trắng. Một bóng tối mờ ảo phủ trên gương mặt. Mong manh. Xa xôi. Không thời gian. Chung quanh ngừng lặng. Vẻ xa hoa của hoàng cung trở nên trơ trẽn trước gương mặt này. Một nỗi buồn vô cớ thấu vào tận đáy tim THẦN TÔNG. Sư bà chợt ngẩng đầu, đưa mắt nhìn qua vai THẦN TÔNG. Vẻ hư vô trong mắt bà lớ lên đỉnh điểm một vẻ đẹp không ta xiết. Vẻ đẹp của người đã từng sống và từng chết đi, rồi tái sinh ở thế giới bên kia. Xa xa, cửa CÀN NGUYÊN điện nhuộm vàng. Hoàng hôn rớt lại trong một vệt ráng chiều thấm máu trên đường chân trời. THẦN TÔNG giật mình nhận ra trong mắt sư bà một ánh lạnh lẽo. Một con thuyền quen lênh đênh trên đại dương trong đêm tối. Với những gỗ những ván ngâm mặn mòi trong nước biển. Không tay chèo không bánh lái, lấy lênh đênh làm bến đỗ. Không ao ước bình yên. Biển cũng trở thành nhạt nhẽo. Giông tố cũng trở thành cợt đùa. Mà nhưữngcon sóng xô nhanh chỉ là tiếng ru đều đặn giục lênh đênh. Khẽ nói: - Kẻ bần ni sợ mình bất túc, tâu bệ hạ. Nơi này không phải là xứ của bần ni. Xứ của bần ni là động TRẦM… Từ trên ngai vàng, THẦN TÔNG cúi nhìn xuống mài đầu cạo trọc mà những gốc tóc nhô lên sớm đã thưa thớt chớm bạc: - Sư bà bình thân. Ta đã hỏi quan Tây thượng cáp môn sứ về bà. Tiếng tăn về năng lực giáo hoá của sư bà đã được đồn thổi khắp xứ Đoài, về đến tận kinh kỳ. Trẫm vốn sùng đạo, những mong dùng Phật đạo để lấy lẽ từ bi làm phép trị nước. Sư bà nói mơ màng: - Các tiên đế vốn là người sùng đạo… - Phải, trẫm noi gương các tiên đế, lại thêm mong cho khắp thiên hạ không còn kiện tụng tù ngục, nhà nhà cất tiếng âu ca… Muốn vậy, màu cà sa của Phật phải bao trùm khắp cõi phàm. Các tiên đế đã giành lại giang sơn, mở mang bờ cõi. Công lao ấy núi THÁI HẰNG cũng không thể so bì. Nhưng để được như vậy, máu cũng chảy thành sông… Từng di kinh lý vùng biên ải, trẫm đã nhìn thấy xương người phơi trắng trên bờ cõi. Trẫm đau lòng khi nhìn thấy cảnh đó. Với Phật pháp, non sông của trẫm sẽ không lặp lại cảnh núi xương sông máu… Sư bà nhìn vào đôi mắt rực ánh hào quang của THẦN TÔNG: - Thưa, có phải vì vậy mà vừa mới lên ngôi, tháng Hai năm MẬU THAN ngày ẤT MÃO, Bệ hạ xuống chiéu tha cho các tù nhân ở phủ Đô hộ. Ngày NHÂM TUẤT, người lại xuống chiếu tha cho một trăm ba mươi kẻ bị biếm truất? Mắt THẦN TÔNG sáng rỡ: - Sư bà ở chốn hang động, xa lánh phàm trần mà cũng rành việc nước? Sư bà tiếp giọng đều đều: - Người còn đi khắp các chùa quán để cảm tạ đức Phật dã giúp cho người chiến thắng quân CHÂN LẠP ở bế BA ĐẦU? Rồi hôm này người lại mở đại lễ khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp? THẦN TÔNG ngạc nhiên lẩm bẩm: - Kỳ lạ! Bà này sao quá rành rẽ nhất cử nhất động của ta…! Câu nói đó không qua tai sư bà. - Tâu Bệ hạ, chẳng có gì lạ… ĐẦu ngón tay út của Bệ hạ nhấc lên cũng đủ gây mưa móc hay sóng gió trong thiên hạ. Bần ni tuy ngụ nơi thâm sơn cùng cốc nhưng không phải những âm ba chốn kinh thành quyền quí không dội tới. Kẻ xuất gia muốn hành đạo tất phải hiểu việc đời! "Khẩu khí chẳng phải tầm thường. Mà sao người tu hành này lại cứ toát ra một sự huyền bí khiến ta không thể dằn lòng để rời xa bà ta vậy? Mà bà ta ở độ tuổi có thể sinh ra ta. Cái thân hình có lẽ ngày xưa rất quyến rũ kia đã bị cuộc đời tu hành khắc khổ mài mòn trở nên vóc hạc xương mai. Có một sức hút kỳ lạ ở người đàn bà này. Cái mũi côi cút trên gương mặt. Đôi môi ấy hẳn xưa đã từng sống động và khao khát. Lông mày màu khói nhạt mượt như lụa. Cái cổ cao không thể nào thanh mảnh hơn thế, khi chắp tay cúi xuống hiện rõ vẻ kiêu hảnh của một con ngựa yêu kiều. Trên đầu, làn da trắng xanh chỉ có những chân tóc bị cạo che phủ hắt sáng như toả hào quang…". Một giấc mơ xa xôi, dịu dàng và cam chịu, khác với sự nôn nóng thường nhật của một ông vua muốn gì được nấy đang manh nha trong lòng THẦN TÔNG. "Không thể hiểu nổi… tại sao giữa muôn nghìn tăng ni Phật tử, ta lại chỉ nhìn thấy bà và lập tức cưỡng bà về cung… Tại sao khi bà ta xuất hiện, mọi thứ xung quanh đều nhạt nhoà, không hiện hữu…". THẦN TÔNG không ngớt ngẫm nghĩ và càng lúc càng thấy lạ trước mình. Ngài chằm chằm nhìn tận mặt củasư bà, dò hỏi, cố đuổi theo một ý nghĩ vô hình vừa loé lên rồi chập chờn trêu cợt bay xa để ngài phải miệt mài theo dõi. THẦN TÔNG quên cả việc đáp lại câu nói của sư bà. Giai âm trong giọng nói của sư bà vẫn cất lên như tiếng của một ngọn suối đang chảy âm u dưới vòm đá: - Nhưng tâu Bệ hạ… Xin người thứ lỗi… Lòng nhân đức như trời biển của người thật là đáng trân trọng, làm cảm động đến cả thánh thần. Vậy nên năm rồi nhièu nơi hạn hán ruộng đồng nứt nể không có nước cấy cày người đã trai giới cầu đảo an chay niệm Phật cầu mưa. Lòng thành của đấng cửu trùng đã cảm động tới Trời Phật. Bệ hạ lại muốn dùng Phật đạo từ bi để giáo hoá chúng sinh khỏi cảnh đầu rơi máu chảy. Điều đó tốt vậy thay! - Đa tạ sư bà… - Trước khi Đức THÁI TỔ mang mang cơ nghiệp nhà LÝ thì nước Nam ta vẫn là xứ man rợ, Phật đạo có nhen nhóm những chưa phổ độ đến chúng sinh. Cùng với Đức THÁNH TÔNG cho tạo tác văn miếu, đắp tượng KHỔNG TỬ, CHU CÔNG và Thất thập nhị hiền, thì LINH NHÂN Thái hậu và Đức Tiên đế NHÂN TÔNG đã lập hơn một trăm chùa nguy nga lộng lẫy, Phật đạo ngày càng rạng rỡ… - Đúng vậy. Nhờ ơn các bậc Tiện hoàng, chưua bao giờ Phật đạo lại được phổ độ rộng khắp như ngày nay! Sư bà làm cử chỉ gần như phản đối: - Phải, bây giờ khắp nơi đua nhau xây chùa tạo quán, lũ lượt người người nhập chùa làm tăng ni Phật tử. Đi đâu cũng bắt gặp bóng áo cà sa cầm bát đợi bố thí vàng rực khắp góc chợ sân đình. - Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hàng cùng ngõ hẻm. khi mới lên kế nghiệp đế vương ta đã thề cùng trời đất quỷ thần… - Nhưng chẳng lẽ Bệ hạ không tháy rằng trong vương quốc của Bệ hạ đâu phải đã hết những kẻ ác phạm? Năm ngoái Bệ hạ xuống chiếu tha cho bao kẻ gian ác đáng ra phải trừng phạt tại Đô hộ phủ thì năm nay những kẻ đó lại đang hoành hành làm khốn khổ chúng dân. Năm ngoái Bệ hạ rộng lượng xuống chiếu phục chức cho những kẻ bị biếm truất thì năm nay bọn thamm ô quan lại đó lại đang ngất ngưởng trên chức trọng quyền cao để bòn rút xương tuỷ của dân đen… Nét mặt THẦN TÔNG cau lại. Mắt ngài đã bắt đầu phóng ra những luồng giận dữ. Sư bà nhận thấy những không nao núng. Đôi mắt vẫn chiếu rọi vào mắt THẦN TÔNG khiến đức vua thấy chói chang. Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh đức vua lên tiếng quát khẽ: - Sư bà… Không được lộng ngôn mạn thượng! Ánh mắt nộ khí của THẦN TÔNG bắt gặp phải cái nhìn chưúa chất nỗi đau đớn mênh mang của sư bà. Trong thoáng chốc, THẦN TÔNG buốt lạnh nhận ra trong đó một nỗi buồn hoài huỷ xót thương cho kiếp người. Và rực lên nhưu ánh hoàng hôn loé rạng ben cơn giông ẩn hiện thăm thẳm ở cuối trời. Ngài muốn biểu hiện một cử chỉ nào đó của quyền lực tối thượng với người đàn bà dang quì trước mặt. Nhưng rút cuộc ngài chỉ im lặng. Năm ngón tay choãi ra trên đầu rồng tay vịn ngai vàng. Ngài trở lại là một đứa trẻ đang bị lạc cả phần hồn lẫn phần xác, chơi vơi trên đồng cỏ mênh mang. Ngài bỗng muốn được người đàn bà kỳ lạ đang quỳ trước mặt ấy choàng tay ôm vào lòng. Bà ta có biết ru không nhi? Sư bà có thể ru ta với lời ru của một người mẹ hay với sự nóng ấm của lồng ngực người đàn bà? Tại sao ở bà ta lại toát ra nỗi quyến rũ huyền hoặc. Yêu tinh hay thần nữ? Một kẻ tu hành hay là một kẻ bị giáng xuống nơi trần thế này để chịu kiếp nạn? THẦN TÔNG chú mục vào khoé miệng khoé mắt đã hằn nhiều nếp nhăn khắc của của sư bà để kìm giữ ngọn lửa cứ chợt muốn cháy bùng lên ở trong lòng. Sư bà vẫn không rời mắt khỏi gương mặt THẦN TÔNG. Cái gương mặt vừa quen vừa lạ như thấp thoáng vẳng lên từ một cõi xa xôi huyền bí nào đó trong cuộc đời oái oăm này. Nỗi đau cô quành nhói lên trong vùng ngực mảnh mai của sư bà. * ** Đoạ xứ! Bến ĐÁ sông GÂM. Bè nứa với chiếc nón lá của người tỳ kheo. Cơn giông sầm đổ. Rồi trời quang mây tạnh và hoa gạo như những bụm máu qua vai một người con trai. Thác OÁN. Túp lều lau sậy le lói bếp lửa. Người đàn ông cá bơn… Ta tưởng dứt bỏ lòng trần, đường tu trọn kiếp. Nào ngờ… * ** Đoạ xứ! Sư bà cố tìm lại nét thư sinh ngời ngợi mà ngang tàng thân thiết xưa kia. Đâu đây dường như vãn phảng phất gương mặt tưởng chưùng xa xôi quên lãng mà thật ra vẫn ám ảnh lẩn khuất sâu thẳm trong dáy cùng tâm trí sư bà. Dường như chúng đang được cầm tù trong vài đường nét còn lộ chút thân thuộc. Cái thân hình nhỏ nhắn xanh xao của một đứa trẻ mà dục vọng đã rừng rực ấm ảnh như định mệnh. Ngai vàng tôn nghiêm quá lạc lõng trước vị đế vương nhỏ bé này. Không rõ đức vua mong muốn điều gì? Một lần nữa sư bà lại rúng vai rùng mình sợ hãi nghĩ đến nỗi cám dỗ tục luỵ cõi trần! - Tâu Bệ hạ… Người đã nhận ra người còn thiếu điều gì trong khi dùng phép từ bi vô tận của Phật đạo chăng? Viên Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh ngai vàng lại một lần nữa giật mình cố trừng mắt về phía sư bà. THẦN TÔNG giơ mấy ngón tay: - Sư bà là kẻ tu hành lẽ nào chẳng hiểu đạo từ bi có thể cải hoá khắp lượt chúng sinh. Tôn vinh Phật đạo và cai trị bằng cách giáo hoá Phật đạo khắp thiên hạ, phép trị quốc của ta vậy là đã đầy đủ. - Vậy Bệ hạ nghĩ sao về những kẻ đã được ân sủng của ngài mà trở lại làm điều thất đức? Bởi vì hạt thiện mà gieo không đúng chỗ ắt sẽ mọc lên mầm ác. Cũng vạy, lời giáo hoá của chốn thanh bần sao có thể len lỏi vào nơi cung cấm ngào ngạt son phấn. Bần ni xin tạ ơn lòng đoái thương của Bệ hạ mà không dám nhận trọng trách Bệ hạ vừa giao phó. Xin Bẹ hạ rộng lượng gia ân cho bần ni được trở về ngày động TRẦM. - Không được!… Sư bà đừng trái lời trẫm… Bay đâu! THẦN TÔNG giật giọng, mấy ngón tay trắng mảnh co lại, đấm mạnh lên ngai vàng. - Xin tuận lệnh! Tâu bệ hạ! Viên Tổng Thái giám đứng hầu vội rạp mình rồi lui bước, khuất vào phía sau bóng tối nội điện. Hai tấm rèm nặng trĩu sau lưng Ngài ngự được từ từ kéo ra. Luồng ánh sáng chói loà từ đằng sau tấm rèm đập vào mắt. Hàng trăm cung nữ nối nhau quì mọp. Dào dạt mùi phấn sáp chế từ bột nếp, chu sa và hoa hồng. Mùi xạ hương, mùi trầm xông ướp trong xiêm áo của các cung nữ cùng ganh đua ngào ngạt. Xiêm ấo ba bảy lớp trăm hồng ngàn tía. Sư bà cúi mặt, khó thở với vị phàm trần nồng nặc, nhưng vẫn phải sững sờ vì vẻ đẹp rực rỡ của các cô gái hầu hết đang tuổi trăng tròn… Sư bà biết rằng tất cả nhưũng cô gái đẹp của trăm miền được THẦN TÔNG tuyển nạp về đây mới chỉ trong vòng hai năm trời từ khi người lên nối đức tiên đế lên ngôi hoàng đế trị vì thiên hạ. Sư bà chợt hiểu đâu là cái căn nguyên của ngọn lửa rừng rừng lúc như thiêu đốt lúc như lặn tắt trên gương mặt, trong đôi mắt của con người ngồi trên ngai vàng kia. Bất giác sư bà cúi xuống khẽ thở dài: THẦN TÔNG nhìn sư bà, dịu giọng: - Hãy xem… các cung nhân của ta đã sẵn sàng. Sư bà hãy theo ta! - Tâu bệ hạ… Bần ni không thể… Nhưng THẦN TÔNG đã đứng dậy. Viên Tổng quản Thái giám lén nhẹ trở lại chỗ cũ bên ngai vàng từ lúc cánh rèm kéo lên vội đưa tay đỡ ngài ngự. Sư bà định nói nữa nhưng nhìn THẦN TÔNG đã đứng dậy quay gót, bất đắc dĩ, sư bà đành bước theo THẦN TÔNG. Hai hàng cung nữ quì bất động trên điện ngọc. Chỉ thấy những tấm lưng thon, những bờ vai mỏng, những mái tóc dày rung rung. Và phảng phất đâu đó những hơi thở rộn ràng cố ghìm nén lại trong lồng ngực. Vốn quen với khoảng không gian trong trẻo và lạnh lẽo của hang động TRẦM, mỗi bước đi sư bà mỗi thấy bức bối ngột ngạt. Tay đỡ đức vua, Tổng quản Thái giám không ngăn được gườm mắt khi đi qua sư bà. Từ hôm sư bà vào cấm cung đến nay, mâm Lục đầu bài bỏ ngỏ. Sự bất thường chưa từng có ở TỬ CẤM THÀNH, từ ngày Hoàng đế lên ngôi. Theo lệ của triều đình, ngoại trừ Hoàng hậu là người làm chủ trong cung cấm, còn thì mọi phi tần cung nữ đều dược ghi trên mỗi tấm thẻ bài màu xanh. THẦN TÔNG lên ngôi hai năm, số thẻ bài mằm chất đầy mấy chiếc tráp lớn để chật trên giá. Đã vậy, mùa thu năm ngoái, Hoàng thượng còn xuóng chiếu cho con gái các quan và các nhà hào phú trong thiên hạ đến tuổi cũng chưa được lấy chồng, phải chờ đợt tuyển chọn người vào hậu cung, ai bị loại mới được tính tới chuyện hôn thú… Buổi tối, sau khi Hoàng thượng dùng ngự thiện, viên Tổng quản Thái giám quì xuống, hai tay dâng chiếc mân bày các Lục đầu bài để ngửa. Vua liếc nhìn qua, trong đám phi hậu cung tần, vua thích ai thì cầm tấm thẻ có tên người đó lật úp xuống. Được lệnh truyền, các Thái giám nội thị cứ theo thẻ được chọn mà sửa sang, chuẩn bị đưa người vào nội thất hầum hạ đức vua. Trừ ngày đầu tháng, Đức vua thường ngự ở cung NGHÊNH XUÂN của Hoàng hậu, còn các ngày trong tháng, viên Tổng quản Thái giám thường là người biết tường tận mọi ham muốn sở thích của vua mà chọn lựa phi tần mỹ nức cho vừa lòng ngài ngự. Những ngày xuân, tiết trời ẩm ướt, cây hăng hăng lộc, cái rét vẫn ngấm ngầm làm tê tái thịt da, Tổng quản thận trọng đặt lên mâm lục đàu bài những chiếc thẻ mang tên các cung tân đến từ phương Nam với nước da nâu hồng ấm áp, mắt to mi rợp, môi mọng hơi trề như nũng nịu. Tổng quản biết, các cung tần này đầu gối tay aaps bên vua sẽ như mang ánh nắng phương nam chói gắt đến sưỡi ấm cho ngài, làm tan hơi lạnh của tiết đông xuân. Mùa hạ, trên mân Lục đầu bài chen chúc tên của các mỹ nữ tuyển từ Bắc phương. Mí mắt dài hẹp tản khoé thu ba trên làn da trắng muốt như bạch hoa trà. Tóc đen dài vấn vít quấn cao trên đầu, cài chặt bằng trâm vàng, trâm bạc hoặc cành thoa có gắn hao sen còn hàm tiếu thơm ngào ngạt. Cẩn trọng hơn, tổng quản còn xem ai có làn da mát lạnh giữa mùa hè thì mới chọn khi lâm hạnh, vua hài lòng như được đắm trong dòng suối mát. Bây giờ, Đức vua dã cho vời sư bà đã ngoài sáu chục tuổi này và giữ trong cung làm gì đây? Viên Tổng quản Thái giám không dám nghĩ tiếp. Ông ta băn khoăn nhìn sư bà bước đi, mong manh lạc lõng giữa hậu cung muôn hồng nghìn tía. - Sư bà! Các cung nhân của trẫm thành thạo về đường son phấn mà vụng dại về đường phụng thờ Phật. Ta lưu sư bà trong cung để sư bà uốn nắn điều này… Mắt không rời sư bà, Vua nhắc lại: - Hậu cung của Bệ hạ đã quá đủ đầy. Mà Phật đạo thì quá xa lạ với những chỗ huyên náo. Xin Bệ hạ đừng buộc kẻ kém cỏi này phải nói ra những lời lạc lõng. Môi sư bà run rẩy như cố ghìm tiếng nấc: - Xin Bệ hạ cứ trọn hưởng lạc thú, cho sơm trọn kiếp này… Nhìn những giọt nước mắt long lanh bên khoé mắt sư bà, THẦN TÔNG ngạc nhiên, gần như mừng rỡ: - Sư bà sao lại khóc? Trẫm đã làm sư bà đau lòng ư? Sư bà cố kìm những giọt nước mắt: - Tâu Bệ hạ! Bần ni chỉ là phận con sâu cái kiến, có đáng kể gì đối với Đấng cửu trùng. Xin người đừng để tâm. Chỉ có điều, xin Bệ hạ hiểu cho rằng, với một kẻ đã rắp tâm xa lánh cõi phàm, chỉ quen ăn rau rừng, uống nước suối, nhìn ngắm đất nâu và cỏ xanh, thì việc bắt buộc phải ở lại nơi này, cũng không khác gì bị hãm vào đoạ xứ… Xin hãy cho bần ni được về chốn cũ. Đức vua nổi giận: - Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dâu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha. Sư bà ai oán ngẩng nhìn. Đôi mắt chỉ biểu lộ sự tuyệt vọng, ngao ngán, mà không oán giận: - Vậy thì, Bệ hạ cứ một mực như thé, xin hãy nghe. Bần ni chỉ xin nói lại lời di chục của đức Phật mà thôi. Quyển bốn, Phá tăng sự, đã nói: lúc BỒ TÁT còn là hoàng tử ở trong cung, khi vui vẻ chơi đùa, hay nói làm nhảm. Một mình của ba bà phu nhân và sáu vạn mỹ nữ. Ngài nói, nếu ta không làm chuyện tục lậu với họ, e rằng người ngoài nói ta khong phải là kẻ trượng phu… Mắt THẦN TÔNG sáng rỡ: - Sư bà thật hiểu rộng biết nhiều. Ta này đường đường là vua một nước, mấy trăm mỹ nữ cung tần, chưa có chi là nhiều… - Nếu Bệ hạ quả thực sùng đạo Phật, vậy có thể làm theo đức Phật dạy được chăng? Phật dạy: "Tỳ kheo các người, nên tự cạo đầu, bỏ hết đồ trang sức, mác áo nâu màu xấu, cầm bát xin ăn cho sống qua ngày. Phải tự biết như thế mới là phải phép, hễ hơi có lòng kiêu ngạo là phải dẹp đi ngay!". - Khổ ái như thế phỏng có ích gì đối với một bậc đế vương? - Theo chỗ bần ni biết, Bệ hạ và những người trong cung cấm, dù vui chơi, tận hưởng xa hoa thảo chí mà tâm vẫn phiền não. Đó là vì chưa xem phép "biết đủ" của đức Phật. Cái phép "biết đủ" tức là chõ vui vẻ yên ổ. Con người biết đủ, dẫu nằm trên đất lạnh vẫn yên vui. Kẻ không biết đủ dẫu ở lầu cao cửa rộng giữa son phấn ngọc ngà cũng không xứng ý. Không biết là đủ, dù giàu cũng là nghèo, Biết đủ, dù nghèo cũng như giầu. Kẻ không biết đủ thường bị ngũ dục lôi đi. Người biết đủ lấy thế mà thương xót…! THẦN TÔNG cả cười: - Dương như ta đã nghe những lời này nhiều lắm rồi. Từ kiếp trước! Nhưng ta thấy, thiên hạ chỉ có nhưũng kẻ không có thì mới tự an ủi rằng mình đang "tri túc". Còn những bậc đế vương xưa nay, dẫu có cả thiên hạ trong tay cũng không bao giờ tự cho là đủ. Nếu không, việc ra sức động binh mở mang bờ cõi, sơn hào hải vị đầy bàn, son phấn mỹ nhân bao bọc quanh mình… chẳng là hão huyền sao…! Sư bà rạp đầu, chắp hai tay vái dài THẦN TÔNG: - Muôn tâu! Xin Bệ hạ gia ân, cho phép bàn ni ra khỏi đoạ xứ này! - Không được. Sư bà phải ở lại! THẦN TÔNG ghé vào tai sư bà, khẽ nói: - Sư bà nên biết, hình như những năm qua, đêm đêm ta mơ thấy gương mặt của sư bà… Câu nói thầm đó tựa như tiếng sét bên tai sư bà. Lồng ngực mảnh mai run rẩy của sư bà không ghìm nổi tiếng nấc. Sư bà buột miệng: - Quá lắm! TỪ LỘ! Hai kiếp của người rốt cục cũng chỉ đầy đoạ thân ta mà thôi! THẦN TÔNG giật nẩy mình khi nghe hai tiếng "TỪ LỘ". Đứng sững. Cau mày như nhớ lại một điều gì. Giây lâu. Có một cái gì như bóng mây thoáng qua. Cố nhớ lại một hình bóng nào đó. Nhưng rốt cục, chỉ thấy gương mặt thiếu nữ nhạt nhoà. Đôi mắt sũng nước như lá. Và trong không gian ngòn ngọt nhàn nhạt mùi sữa dã nhân. THẦN TÔNG bất chợt đưa hai tay về phái sư bà đang khóc nứuc nở. Như một đứa trẻ đòi mẹ che chở. lại như một người tình khao khát được ôm ấp. Mắt vua cũng giàn giụa nước. Nhưng sư bà động TRẦM bỗng sững lại. Từ phái sau THẦN TÔNG, một cung nhân tha thướt trong bộ xiêm áo màu hồng. Đôi mắt xám mênh mang với con ngươi ánh nâu như mắt mèo hoang. Moi mọng màu hoang thổ. Tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống bờ vai thon mảnh. Thấp thoáng sau tấm sa mỏng, chiếc rốn màu chu sa ẩn hiện theo bước di kiêu hãnh của loài ngưụa hoang. Dương như không gian tràn ngập nàng. Cung nhân hồ ly. Dù không quay lại, THẦN TÔNG vẫn biết dó là NGẠN LA. Ngài ngự rụt đôi tay đang đưa về phía sư bà, cất tiếng vọng lại: - NGẠN LA! Sao bây giờ nàng mới đến?
Chương 12 ĐOẠ XỨ Má đỏ thầm phai… Sư bà chùa TRẦM quì trước bệ rồng. Vua THẦN TÔNG nhấp môi vào chén nước sâm từ tay viên Thái giám đứng hầu ben ngài dâng lên mà mắt vẫn đăm đăm vào sư bà. Người đàn bà lạ lẫm vừa rơi xuống từ một đỉnh núi phủ đầy tuyết sương, trên mắt, trên môi, tên đôi vai mỏng còn nồng mặn mùi rễ cây oải hương và gió thổi quấn quyện từ địa ngục. Ngập ngừng, những lời nói của THẦN TÔNG buông, treo lơ lửng đầu lưỡi: - Sư bà hãy đem Phật đạo giáo hoá các cung nhân của trẫm! Những ngón tay dài và mảnh, trong suốt, chắp lại trước ngực. Có thể thấy roõnhững mạch máu màu tím đang nhẩn nha chảy, lan toả chút hới ấm trên mu bàn tay. Mười búp tay tiểu thư hao gầy dưới những móng tay cũng mãu tím. Đôi hàng mi sững lặng in bóng lên màu da bạc. Đôi môi đầy đặn như môi Phật, màu trắng. Một bóng tối mờ ảo phủ trên gương mặt. Mong manh. Xa xôi. Không thời gian. Chung quanh ngừng lặng. Vẻ xa hoa của hoàng cung trở nên trơ trẽn trước gương mặt này. Một nỗi buồn vô cớ thấu vào tận đáy tim THẦN TÔNG. Sư bà chợt ngẩng đầu, đưa mắt nhìn qua vai THẦN TÔNG. Vẻ hư vô trong mắt bà lớ lên đỉnh điểm một vẻ đẹp không ta xiết. Vẻ đẹp của người đã từng sống và từng chết đi, rồi tái sinh ở thế giới bên kia. Xa xa, cửa CÀN NGUYÊN điện nhuộm vàng. Hoàng hôn rớt lại trong một vệt ráng chiều thấm máu trên đường chân trời. THẦN TÔNG giật mình nhận ra trong mắt sư bà một ánh lạnh lẽo. Một con thuyền quen lênh đênh trên đại dương trong đêm tối. Với những gỗ những ván ngâm mặn mòi trong nước biển. Không tay chèo không bánh lái, lấy lênh đênh làm bến đỗ. Không ao ước bình yên. Biển cũng trở thành nhạt nhẽo. Giông tố cũng trở thành cợt đùa. Mà nhưữngcon sóng xô nhanh chỉ là tiếng ru đều đặn giục lênh đênh. Khẽ nói: - Kẻ bần ni sợ mình bất túc, tâu bệ hạ. Nơi này không phải là xứ của bần ni. Xứ của bần ni là động TRẦM… Từ trên ngai vàng, THẦN TÔNG cúi nhìn xuống mài đầu cạo trọc mà những gốc tóc nhô lên sớm đã thưa thớt chớm bạc: - Sư bà bình thân. Ta đã hỏi quan Tây thượng cáp môn sứ về bà. Tiếng tăn về năng lực giáo hoá của sư bà đã được đồn thổi khắp xứ Đoài, về đến tận kinh kỳ. Trẫm vốn sùng đạo, những mong dùng Phật đạo để lấy lẽ từ bi làm phép trị nước. Sư bà nói mơ màng: - Các tiên đế vốn là người sùng đạo… - Phải, trẫm noi gương các tiên đế, lại thêm mong cho khắp thiên hạ không còn kiện tụng tù ngục, nhà nhà cất tiếng âu ca… Muốn vậy, màu cà sa của Phật phải bao trùm khắp cõi phàm. Các tiên đế đã giành lại giang sơn, mở mang bờ cõi. Công lao ấy núi THÁI HẰNG cũng không thể so bì. Nhưng để được như vậy, máu cũng chảy thành sông… Từng di kinh lý vùng biên ải, trẫm đã nhìn thấy xương người phơi trắng trên bờ cõi. Trẫm đau lòng khi nhìn thấy cảnh đó. Với Phật pháp, non sông của trẫm sẽ không lặp lại cảnh núi xương sông máu… Sư bà nhìn vào đôi mắt rực ánh hào quang của THẦN TÔNG: - Thưa, có phải vì vậy mà vừa mới lên ngôi, tháng Hai năm MẬU THAN ngày ẤT MÃO, Bệ hạ xuống chiéu tha cho các tù nhân ở phủ Đô hộ. Ngày NHÂM TUẤT, người lại xuống chiếu tha cho một trăm ba mươi kẻ bị biếm truất? Mắt THẦN TÔNG sáng rỡ: - Sư bà ở chốn hang động, xa lánh phàm trần mà cũng rành việc nước? Sư bà tiếp giọng đều đều: - Người còn đi khắp các chùa quán để cảm tạ đức Phật dã giúp cho người chiến thắng quân CHÂN LẠP ở bế BA ĐẦU? Rồi hôm này người lại mở đại lễ khánh thành tám vạn bốn nghìn bảo tháp? THẦN TÔNG ngạc nhiên lẩm bẩm: - Kỳ lạ! Bà này sao quá rành rẽ nhất cử nhất động của ta…! Câu nói đó không qua tai sư bà. - Tâu Bệ hạ, chẳng có gì lạ… ĐẦu ngón tay út của Bệ hạ nhấc lên cũng đủ gây mưa móc hay sóng gió trong thiên hạ. Bần ni tuy ngụ nơi thâm sơn cùng cốc nhưng không phải những âm ba chốn kinh thành quyền quí không dội tới. Kẻ xuất gia muốn hành đạo tất phải hiểu việc đời! "Khẩu khí chẳng phải tầm thường. Mà sao người tu hành này lại cứ toát ra một sự huyền bí khiến ta không thể dằn lòng để rời xa bà ta vậy? Mà bà ta ở độ tuổi có thể sinh ra ta. Cái thân hình có lẽ ngày xưa rất quyến rũ kia đã bị cuộc đời tu hành khắc khổ mài mòn trở nên vóc hạc xương mai. Có một sức hút kỳ lạ ở người đàn bà này. Cái mũi côi cút trên gương mặt. Đôi môi ấy hẳn xưa đã từng sống động và khao khát. Lông mày màu khói nhạt mượt như lụa. Cái cổ cao không thể nào thanh mảnh hơn thế, khi chắp tay cúi xuống hiện rõ vẻ kiêu hảnh của một con ngựa yêu kiều. Trên đầu, làn da trắng xanh chỉ có những chân tóc bị cạo che phủ hắt sáng như toả hào quang…". Một giấc mơ xa xôi, dịu dàng và cam chịu, khác với sự nôn nóng thường nhật của một ông vua muốn gì được nấy đang manh nha trong lòng THẦN TÔNG. "Không thể hiểu nổi… tại sao giữa muôn nghìn tăng ni Phật tử, ta lại chỉ nhìn thấy bà và lập tức cưỡng bà về cung… Tại sao khi bà ta xuất hiện, mọi thứ xung quanh đều nhạt nhoà, không hiện hữu…". THẦN TÔNG không ngớt ngẫm nghĩ và càng lúc càng thấy lạ trước mình. Ngài chằm chằm nhìn tận mặt củasư bà, dò hỏi, cố đuổi theo một ý nghĩ vô hình vừa loé lên rồi chập chờn trêu cợt bay xa để ngài phải miệt mài theo dõi. THẦN TÔNG quên cả việc đáp lại câu nói của sư bà. Giai âm trong giọng nói của sư bà vẫn cất lên như tiếng của một ngọn suối đang chảy âm u dưới vòm đá: - Nhưng tâu Bệ hạ… Xin người thứ lỗi… Lòng nhân đức như trời biển của người thật là đáng trân trọng, làm cảm động đến cả thánh thần. Vậy nên năm rồi nhièu nơi hạn hán ruộng đồng nứt nể không có nước cấy cày người đã trai giới cầu đảo an chay niệm Phật cầu mưa. Lòng thành của đấng cửu trùng đã cảm động tới Trời Phật. Bệ hạ lại muốn dùng Phật đạo từ bi để giáo hoá chúng sinh khỏi cảnh đầu rơi máu chảy. Điều đó tốt vậy thay! - Đa tạ sư bà… - Trước khi Đức THÁI TỔ mang mang cơ nghiệp nhà LÝ thì nước Nam ta vẫn là xứ man rợ, Phật đạo có nhen nhóm những chưa phổ độ đến chúng sinh. Cùng với Đức THÁNH TÔNG cho tạo tác văn miếu, đắp tượng KHỔNG TỬ, CHU CÔNG và Thất thập nhị hiền, thì LINH NHÂN Thái hậu và Đức Tiên đế NHÂN TÔNG đã lập hơn một trăm chùa nguy nga lộng lẫy, Phật đạo ngày càng rạng rỡ… - Đúng vậy. Nhờ ơn các bậc Tiện hoàng, chưua bao giờ Phật đạo lại được phổ độ rộng khắp như ngày nay! Sư bà làm cử chỉ gần như phản đối: - Phải, bây giờ khắp nơi đua nhau xây chùa tạo quán, lũ lượt người người nhập chùa làm tăng ni Phật tử. Đi đâu cũng bắt gặp bóng áo cà sa cầm bát đợi bố thí vàng rực khắp góc chợ sân đình. - Càng nhiều bóng áo cà sa, vương quốc của ta càng bớt những kẻ ác phạm. Ta đang mong bóng áo cà sa của nhà Phật nhuộm mọi hàng cùng ngõ hẻm. khi mới lên kế nghiệp đế vương ta đã thề cùng trời đất quỷ thần… - Nhưng chẳng lẽ Bệ hạ không tháy rằng trong vương quốc của Bệ hạ đâu phải đã hết những kẻ ác phạm? Năm ngoái Bệ hạ xuống chiếu tha cho bao kẻ gian ác đáng ra phải trừng phạt tại Đô hộ phủ thì năm nay những kẻ đó lại đang hoành hành làm khốn khổ chúng dân. Năm ngoái Bệ hạ rộng lượng xuống chiếu phục chức cho những kẻ bị biếm truất thì năm nay bọn thamm ô quan lại đó lại đang ngất ngưởng trên chức trọng quyền cao để bòn rút xương tuỷ của dân đen… Nét mặt THẦN TÔNG cau lại. Mắt ngài đã bắt đầu phóng ra những luồng giận dữ. Sư bà nhận thấy những không nao núng. Đôi mắt vẫn chiếu rọi vào mắt THẦN TÔNG khiến đức vua thấy chói chang. Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh đức vua lên tiếng quát khẽ: - Sư bà… Không được lộng ngôn mạn thượng! Ánh mắt nộ khí của THẦN TÔNG bắt gặp phải cái nhìn chưúa chất nỗi đau đớn mênh mang của sư bà. Trong thoáng chốc, THẦN TÔNG buốt lạnh nhận ra trong đó một nỗi buồn hoài huỷ xót thương cho kiếp người. Và rực lên nhưu ánh hoàng hôn loé rạng ben cơn giông ẩn hiện thăm thẳm ở cuối trời. Ngài muốn biểu hiện một cử chỉ nào đó của quyền lực tối thượng với người đàn bà dang quì trước mặt. Nhưng rút cuộc ngài chỉ im lặng. Năm ngón tay choãi ra trên đầu rồng tay vịn ngai vàng. Ngài trở lại là một đứa trẻ đang bị lạc cả phần hồn lẫn phần xác, chơi vơi trên đồng cỏ mênh mang. Ngài bỗng muốn được người đàn bà kỳ lạ đang quỳ trước mặt ấy choàng tay ôm vào lòng. Bà ta có biết ru không nhi? Sư bà có thể ru ta với lời ru của một người mẹ hay với sự nóng ấm của lồng ngực người đàn bà? Tại sao ở bà ta lại toát ra nỗi quyến rũ huyền hoặc. Yêu tinh hay thần nữ? Một kẻ tu hành hay là một kẻ bị giáng xuống nơi trần thế này để chịu kiếp nạn? THẦN TÔNG chú mục vào khoé miệng khoé mắt đã hằn nhiều nếp nhăn khắc của của sư bà để kìm giữ ngọn lửa cứ chợt muốn cháy bùng lên ở trong lòng. Sư bà vẫn không rời mắt khỏi gương mặt THẦN TÔNG. Cái gương mặt vừa quen vừa lạ như thấp thoáng vẳng lên từ một cõi xa xôi huyền bí nào đó trong cuộc đời oái oăm này. Nỗi đau cô quành nhói lên trong vùng ngực mảnh mai của sư bà. * ** Đoạ xứ! Bến ĐÁ sông GÂM. Bè nứa với chiếc nón lá của người tỳ kheo. Cơn giông sầm đổ. Rồi trời quang mây tạnh và hoa gạo như những bụm máu qua vai một người con trai. Thác OÁN. Túp lều lau sậy le lói bếp lửa. Người đàn ông cá bơn… Ta tưởng dứt bỏ lòng trần, đường tu trọn kiếp. Nào ngờ… * ** Đoạ xứ! Sư bà cố tìm lại nét thư sinh ngời ngợi mà ngang tàng thân thiết xưa kia. Đâu đây dường như vãn phảng phất gương mặt tưởng chưùng xa xôi quên lãng mà thật ra vẫn ám ảnh lẩn khuất sâu thẳm trong dáy cùng tâm trí sư bà. Dường như chúng đang được cầm tù trong vài đường nét còn lộ chút thân thuộc. Cái thân hình nhỏ nhắn xanh xao của một đứa trẻ mà dục vọng đã rừng rực ấm ảnh như định mệnh. Ngai vàng tôn nghiêm quá lạc lõng trước vị đế vương nhỏ bé này. Không rõ đức vua mong muốn điều gì? Một lần nữa sư bà lại rúng vai rùng mình sợ hãi nghĩ đến nỗi cám dỗ tục luỵ cõi trần! - Tâu Bệ hạ… Người đã nhận ra người còn thiếu điều gì trong khi dùng phép từ bi vô tận của Phật đạo chăng? Viên Tổng quản Thái giám đứng hầu bên cạnh ngai vàng lại một lần nữa giật mình cố trừng mắt về phía sư bà. THẦN TÔNG giơ mấy ngón tay: - Sư bà là kẻ tu hành lẽ nào chẳng hiểu đạo từ bi có thể cải hoá khắp lượt chúng sinh. Tôn vinh Phật đạo và cai trị bằng cách giáo hoá Phật đạo khắp thiên hạ, phép trị quốc của ta vậy là đã đầy đủ. - Vậy Bệ hạ nghĩ sao về những kẻ đã được ân sủng của ngài mà trở lại làm điều thất đức? Bởi vì hạt thiện mà gieo không đúng chỗ ắt sẽ mọc lên mầm ác. Cũng vạy, lời giáo hoá của chốn thanh bần sao có thể len lỏi vào nơi cung cấm ngào ngạt son phấn. Bần ni xin tạ ơn lòng đoái thương của Bệ hạ mà không dám nhận trọng trách Bệ hạ vừa giao phó. Xin Bẹ hạ rộng lượng gia ân cho bần ni được trở về ngày động TRẦM. - Không được!… Sư bà đừng trái lời trẫm… Bay đâu! THẦN TÔNG giật giọng, mấy ngón tay trắng mảnh co lại, đấm mạnh lên ngai vàng. - Xin tuận lệnh! Tâu bệ hạ! Viên Tổng Thái giám đứng hầu vội rạp mình rồi lui bước, khuất vào phía sau bóng tối nội điện. Hai tấm rèm nặng trĩu sau lưng Ngài ngự được từ từ kéo ra. Luồng ánh sáng chói loà từ đằng sau tấm rèm đập vào mắt. Hàng trăm cung nữ nối nhau quì mọp. Dào dạt mùi phấn sáp chế từ bột nếp, chu sa và hoa hồng. Mùi xạ hương, mùi trầm xông ướp trong xiêm áo của các cung nữ cùng ganh đua ngào ngạt. Xiêm ấo ba bảy lớp trăm hồng ngàn tía. Sư bà cúi mặt, khó thở với vị phàm trần nồng nặc, nhưng vẫn phải sững sờ vì vẻ đẹp rực rỡ của các cô gái hầu hết đang tuổi trăng tròn… Sư bà biết rằng tất cả nhưũng cô gái đẹp của trăm miền được THẦN TÔNG tuyển nạp về đây mới chỉ trong vòng hai năm trời từ khi người lên nối đức tiên đế lên ngôi hoàng đế trị vì thiên hạ. Sư bà chợt hiểu đâu là cái căn nguyên của ngọn lửa rừng rừng lúc như thiêu đốt lúc như lặn tắt trên gương mặt, trong đôi mắt của con người ngồi trên ngai vàng kia. Bất giác sư bà cúi xuống khẽ thở dài: THẦN TÔNG nhìn sư bà, dịu giọng: - Hãy xem… các cung nhân của ta đã sẵn sàng. Sư bà hãy theo ta! - Tâu bệ hạ… Bần ni không thể… Nhưng THẦN TÔNG đã đứng dậy. Viên Tổng quản Thái giám lén nhẹ trở lại chỗ cũ bên ngai vàng từ lúc cánh rèm kéo lên vội đưa tay đỡ ngài ngự. Sư bà định nói nữa nhưng nhìn THẦN TÔNG đã đứng dậy quay gót, bất đắc dĩ, sư bà đành bước theo THẦN TÔNG. Hai hàng cung nữ quì bất động trên điện ngọc. Chỉ thấy những tấm lưng thon, những bờ vai mỏng, những mái tóc dày rung rung. Và phảng phất đâu đó những hơi thở rộn ràng cố ghìm nén lại trong lồng ngực. Vốn quen với khoảng không gian trong trẻo và lạnh lẽo của hang động TRẦM, mỗi bước đi sư bà mỗi thấy bức bối ngột ngạt. Tay đỡ đức vua, Tổng quản Thái giám không ngăn được gườm mắt khi đi qua sư bà. Từ hôm sư bà vào cấm cung đến nay, mâm Lục đầu bài bỏ ngỏ. Sự bất thường chưa từng có ở TỬ CẤM THÀNH, từ ngày Hoàng đế lên ngôi. Theo lệ của triều đình, ngoại trừ Hoàng hậu là người làm chủ trong cung cấm, còn thì mọi phi tần cung nữ đều dược ghi trên mỗi tấm thẻ bài màu xanh. THẦN TÔNG lên ngôi hai năm, số thẻ bài mằm chất đầy mấy chiếc tráp lớn để chật trên giá. Đã vậy, mùa thu năm ngoái, Hoàng thượng còn xuóng chiếu cho con gái các quan và các nhà hào phú trong thiên hạ đến tuổi cũng chưa được lấy chồng, phải chờ đợt tuyển chọn người vào hậu cung, ai bị loại mới được tính tới chuyện hôn thú… Buổi tối, sau khi Hoàng thượng dùng ngự thiện, viên Tổng quản Thái giám quì xuống, hai tay dâng chiếc mân bày các Lục đầu bài để ngửa. Vua liếc nhìn qua, trong đám phi hậu cung tần, vua thích ai thì cầm tấm thẻ có tên người đó lật úp xuống. Được lệnh truyền, các Thái giám nội thị cứ theo thẻ được chọn mà sửa sang, chuẩn bị đưa người vào nội thất hầum hạ đức vua. Trừ ngày đầu tháng, Đức vua thường ngự ở cung NGHÊNH XUÂN của Hoàng hậu, còn các ngày trong tháng, viên Tổng quản Thái giám thường là người biết tường tận mọi ham muốn sở thích của vua mà chọn lựa phi tần mỹ nức cho vừa lòng ngài ngự. Những ngày xuân, tiết trời ẩm ướt, cây hăng hăng lộc, cái rét vẫn ngấm ngầm làm tê tái thịt da, Tổng quản thận trọng đặt lên mâm lục đàu bài những chiếc thẻ mang tên các cung tân đến từ phương Nam với nước da nâu hồng ấm áp, mắt to mi rợp, môi mọng hơi trề như nũng nịu. Tổng quản biết, các cung tần này đầu gối tay aaps bên vua sẽ như mang ánh nắng phương nam chói gắt đến sưỡi ấm cho ngài, làm tan hơi lạnh của tiết đông xuân. Mùa hạ, trên mân Lục đầu bài chen chúc tên của các mỹ nữ tuyển từ Bắc phương. Mí mắt dài hẹp tản khoé thu ba trên làn da trắng muốt như bạch hoa trà. Tóc đen dài vấn vít quấn cao trên đầu, cài chặt bằng trâm vàng, trâm bạc hoặc cành thoa có gắn hao sen còn hàm tiếu thơm ngào ngạt. Cẩn trọng hơn, tổng quản còn xem ai có làn da mát lạnh giữa mùa hè thì mới chọn khi lâm hạnh, vua hài lòng như được đắm trong dòng suối mát. Bây giờ, Đức vua dã cho vời sư bà đã ngoài sáu chục tuổi này và giữ trong cung làm gì đây? Viên Tổng quản Thái giám không dám nghĩ tiếp. Ông ta băn khoăn nhìn sư bà bước đi, mong manh lạc lõng giữa hậu cung muôn hồng nghìn tía. - Sư bà! Các cung nhân của trẫm thành thạo về đường son phấn mà vụng dại về đường phụng thờ Phật. Ta lưu sư bà trong cung để sư bà uốn nắn điều này… Mắt không rời sư bà, Vua nhắc lại: - Hậu cung của Bệ hạ đã quá đủ đầy. Mà Phật đạo thì quá xa lạ với những chỗ huyên náo. Xin Bệ hạ đừng buộc kẻ kém cỏi này phải nói ra những lời lạc lõng. Môi sư bà run rẩy như cố ghìm tiếng nấc: - Xin Bệ hạ cứ trọn hưởng lạc thú, cho sơm trọn kiếp này… Nhìn những giọt nước mắt long lanh bên khoé mắt sư bà, THẦN TÔNG ngạc nhiên, gần như mừng rỡ: - Sư bà sao lại khóc? Trẫm đã làm sư bà đau lòng ư? Sư bà cố kìm những giọt nước mắt: - Tâu Bệ hạ! Bần ni chỉ là phận con sâu cái kiến, có đáng kể gì đối với Đấng cửu trùng. Xin người đừng để tâm. Chỉ có điều, xin Bệ hạ hiểu cho rằng, với một kẻ đã rắp tâm xa lánh cõi phàm, chỉ quen ăn rau rừng, uống nước suối, nhìn ngắm đất nâu và cỏ xanh, thì việc bắt buộc phải ở lại nơi này, cũng không khác gì bị hãm vào đoạ xứ… Xin hãy cho bần ni được về chốn cũ. Đức vua nổi giận: - Sư bà! Nên nhớ rằng, bà dâu đã dâng mình cho Phật đạo, nhưng bà sống ngày nào thì vẫn ăn ở đi lại trên đất của Thiên tử. Nếu bà quá ngang ngược, ta sẽ không dung tha. Sư bà ai oán ngẩng nhìn. Đôi mắt chỉ biểu lộ sự tuyệt vọng, ngao ngán, mà không oán giận: - Vậy thì, Bệ hạ cứ một mực như thé, xin hãy nghe. Bần ni chỉ xin nói lại lời di chục của đức Phật mà thôi. Quyển bốn, Phá tăng sự, đã nói: lúc BỒ TÁT còn là hoàng tử ở trong cung, khi vui vẻ chơi đùa, hay nói làm nhảm. Một mình của ba bà phu nhân và sáu vạn mỹ nữ. Ngài nói, nếu ta không làm chuyện tục lậu với họ, e rằng người ngoài nói ta khong phải là kẻ trượng phu… Mắt THẦN TÔNG sáng rỡ: - Sư bà thật hiểu rộng biết nhiều. Ta này đường đường là vua một nước, mấy trăm mỹ nữ cung tần, chưa có chi là nhiều… - Nếu Bệ hạ quả thực sùng đạo Phật, vậy có thể làm theo đức Phật dạy được chăng? Phật dạy: "Tỳ kheo các người, nên tự cạo đầu, bỏ hết đồ trang sức, mác áo nâu màu xấu, cầm bát xin ăn cho sống qua ngày. Phải tự biết như thế mới là phải phép, hễ hơi có lòng kiêu ngạo là phải dẹp đi ngay!". - Khổ ái như thế phỏng có ích gì đối với một bậc đế vương? - Theo chỗ bần ni biết, Bệ hạ và những người trong cung cấm, dù vui chơi, tận hưởng xa hoa thảo chí mà tâm vẫn phiền não. Đó là vì chưa xem phép "biết đủ" của đức Phật. Cái phép "biết đủ" tức là chõ vui vẻ yên ổ. Con người biết đủ, dẫu nằm trên đất lạnh vẫn yên vui. Kẻ không biết đủ dẫu ở lầu cao cửa rộng giữa son phấn ngọc ngà cũng không xứng ý. Không biết là đủ, dù giàu cũng là nghèo, Biết đủ, dù nghèo cũng như giầu. Kẻ không biết đủ thường bị ngũ dục lôi đi. Người biết đủ lấy thế mà thương xót…! THẦN TÔNG cả cười: - Dương như ta đã nghe những lời này nhiều lắm rồi. Từ kiếp trước! Nhưng ta thấy, thiên hạ chỉ có nhưũng kẻ không có thì mới tự an ủi rằng mình đang "tri túc". Còn những bậc đế vương xưa nay, dẫu có cả thiên hạ trong tay cũng không bao giờ tự cho là đủ. Nếu không, việc ra sức động binh mở mang bờ cõi, sơn hào hải vị đầy bàn, son phấn mỹ nhân bao bọc quanh mình… chẳng là hão huyền sao…! Sư bà rạp đầu, chắp hai tay vái dài THẦN TÔNG: - Muôn tâu! Xin Bệ hạ gia ân, cho phép bàn ni ra khỏi đoạ xứ này! - Không được. Sư bà phải ở lại! THẦN TÔNG ghé vào tai sư bà, khẽ nói: - Sư bà nên biết, hình như những năm qua, đêm đêm ta mơ thấy gương mặt của sư bà… Câu nói thầm đó tựa như tiếng sét bên tai sư bà. Lồng ngực mảnh mai run rẩy của sư bà không ghìm nổi tiếng nấc. Sư bà buột miệng: - Quá lắm! TỪ LỘ! Hai kiếp của người rốt cục cũng chỉ đầy đoạ thân ta mà thôi! THẦN TÔNG giật nẩy mình khi nghe hai tiếng "TỪ LỘ". Đứng sững. Cau mày như nhớ lại một điều gì. Giây lâu. Có một cái gì như bóng mây thoáng qua. Cố nhớ lại một hình bóng nào đó. Nhưng rốt cục, chỉ thấy gương mặt thiếu nữ nhạt nhoà. Đôi mắt sũng nước như lá. Và trong không gian ngòn ngọt nhàn nhạt mùi sữa dã nhân. THẦN TÔNG bất chợt đưa hai tay về phái sư bà đang khóc nứuc nở. Như một đứa trẻ đòi mẹ che chở. lại như một người tình khao khát được ôm ấp. Mắt vua cũng giàn giụa nước. Nhưng sư bà động TRẦM bỗng sững lại. Từ phái sau THẦN TÔNG, một cung nhân tha thướt trong bộ xiêm áo màu hồng. Đôi mắt xám mênh mang với con ngươi ánh nâu như mắt mèo hoang. Moi mọng màu hoang thổ. Tóc mượt như lụa không thèm búi chảy tràn xuống bờ vai thon mảnh. Thấp thoáng sau tấm sa mỏng, chiếc rốn màu chu sa ẩn hiện theo bước di kiêu hãnh của loài ngưụa hoang. Dương như không gian tràn ngập nàng. Cung nhân hồ ly. Dù không quay lại, THẦN TÔNG vẫn biết dó là NGẠN LA. Ngài ngự rụt đôi tay đang đưa về phía sư bà, cất tiếng vọng lại: - NGẠN LA! Sao bây giờ nàng mới đến?
Chương 13 HỔ BÍNH THÌN. THIÊN CHƯƠNG BẢO TỰ năm thứ tư (1136). Mùa xuân. Tháng Ba Đã qua giờ Dần. Hoàng thành vẫn chìm trong giấc ngủ. Những tầng sương lảng bảng trĩu dần xuống sát nóc điện CÀN NGUYÊN và các cung điện nhấp nhô trong tĩnh lặng. Chỉ có các ngọn cây bồ đề trồng dọc theo lối đi giữa các cung điện nguy nga là nhẹ rung xào xạc trong gió. Phía đằng đông, sau nóc điện VĨNH QUANG, một giải mây ưng ửng vắt ngang báo hiệu một ngài đẹp trời, nắng ấm. Tổng quản Thái giám uể oải thức giấc. Quờ tay dến hộp đựng trầu, mắt nhắm mắt mở tìm con dao cau sắc như nước, dọc đôi lá trầu quế vàng điểm lốm đốm tàn nhang. Với bình vôi bằng bạc cặn đầy cặn, lấy chiếc chìa vôi khẽ quết lên mặt lá trầu. Không nhìn, khéo léo cuộn lại có hai bên hai chiếc cánh cũng sắp sửa bay lên rồi nhét vào mồm nhai bỏm bẻm. Như tất cả những người nghiện trầu khác, thái giám vừa nhai vừa nuối cái thứ nước trầu đắng nghét ấy vào trong miệng, thận hưởng cái vị nồng cạy say say xộc lên tận óc. Chừng như chưa đã , lại với tay lấy hộp thuốc lào bên cạnh, vo một viên lớn, nhét vào dưới môi. Viên thuốc lào khiến môi trên của Thái giám kệnh lên như một chiếc mỏ chim. “Chà, cái thứ thuốc tẩm quế hương Giang Nam này sao mà đã…”. Thái giám ngáp một tiếc rõ to rồi uể oải tuồn người vào chiếc áo thụng rộng thùng thình, tay cần sào trúc, chân thấp chân cao hạ những ngọn đèn lồng treo trên cột và trước các cánh cửa điện rồi chúm miệng nhọn thổi tắt từng chiếc. Bỗng những tiếng ngựa hí cuồng loạn dội tới từ phía sau lưng. Tổng quản Thái giám rùng rời chân tay, buông tay sào, làm vỡ tan cả chùm đèn. hoanngrhốt nhìn về có tiếng ngựa hí thấy trong chuồng ngựa hoàng cung, con ngựa màu hoa đào của vua dang dựng ngược trên hai chân sau, tung bờm nhe răng hí lên những hồi dài. Thái giám bủn rủn cả chân tay. Đây là con ngựa mà Lệnh thư gia NGUYỄN MỸ đã dâng lên vua hai năm trước. Toàn thân ngựa bao phủ một lớp lông dài màu hồng thắm của cánh hoa đào, mà đầu và khuôn bờm dài lại lung linh màu xanh hồ thuỷ. Hai chân trước đều một cựa, hai chân sau đều hai cựa. Sáu chiếc cựa nhỏ và sắc như cựa gà xinh xắn nhú lên, màu vàng óng ánh. Khi Lệnh thư gia dắt con ngựa lưng phủ gấm đến trước điện, ngài ngự đã không cầm được nỗi ham thích mà đứng phắt dậy, hai tay vỗ vào nhau miệng reo ầm lên như trẻ nhỏ, lập tức ban lện trọng thưởng cho NGUYỄN MỸ. Triều thần dâng biểu mừng, tán dương đó là thần mã trời ban xuống để thưởng công lao an quốc bình thiên hạ của đức vua. Ngài ngự càng hể hả truyền mở tiệc mừng, sai dựng tàu ngựa mới, tuyển chọn thêm giám mã để chăm sóc ngựa quý. Các giám mã được đặc cách hưởng lương và bổng lộc hàng Ngũ phẩm. Trong chuồng, con ngựa hoa đào vẫn tung bờm nhe răng hí những hồi dài. Hai chân trước của nó đã hạ xuống gõ cồm cộp vào tàu ngựa để tìm đường thoát. Đám giám mã thức dậy hốt hoàng chạy tới hò nhau liều mình ghìm chặt lấy. Dẫu vậy tiếng hí bất thường của con ngựa cũng làm cả hoàng cung nhốn nháo thức dậy. Tổng quản Thái giám còn luống cuống chưa biết tính sao thì lại nghe một hồi tiếng thét, tiếng gầm còn ghê gớm hơn ở phía cung điện LONG AN trước mặt. Đêm nay Hoàng thượng ngự tại cung LONG AN cùng MINH BẢO phu nhân. Đúng lúc con ngựa hoa đào nổi điên trong chuồng thì từ phía cung LONG AN vẳng lên những tiếng thét hãi hùng. Rồi hai cánh cửa cung mở toang. Mấy tiểu nội giám đứng đầu bên ngoài đang ngơ ngáo, chưa hiểu chuyện gì xảy ra trong cung, bóng MINH BẢO phu nhân vọt ra. Tấm xiêm y đã kịp quấn quanh người nhưng hai tay phu nhân ôm ngực. Những giọt máu dỏ vọt qua kẻ tay chảy ròng ròng trên nền đá. Chạy được mấy bước, phu nhân đổ gục xuống thảm điều, nằm bất động mà cái miệng vẫn há ra cứng đờ trong nỗi thất kinh tột cùng. Đồng thời, từ phía long sàng sau màn gấm, một hồi tiếng gầm rú kỳ lạ cất lên tưởng chừng làm rung rinh cả vòm nóc cung điện. Tổng quản Thái giám càng rụng rời chân tay, thất thểu xốc áo chạy vào nơi vua ngự. Vừa chạy vừa vấp phải đám cung nữ, hoạn quan, linh ngự lâm từ những căn nhà sơn son từ hai bên cung điện ùn ùn đổ về phía cửa cung. Cảnh tượng trước mắt khiến Tổng quản thái giám dụi mắt mấy lần. Cuối cùng, phải tự vả vào má, để tin chắc rằng mình đang chứng kiến sự thật chứ không phải ngủ mê. Đức vua đang ngồi chồm hỗm trên long sàng, hai mứt đỏ đọc long lên, răng nhe trắng nhởn và bên mép nhoe nhoét máu. Quanh long sàng, các thị nữ khiếp đảm, chân ríu lại không đi nổi lấy một bước. Vua hoá hổ! * ** Thái y TỤÊ GIÁC bẩm với LỆ THIÊN hoàng hậu và Thái bảo Khu mật sứ LÝ TRÁC: - Dạ bẩm… Kỳ lạ lắm. Đầu tiên là những vệt lông vàng như tư mọc trên ngực, trên lưng Hoàng thượng. Dọc theo những đường xước rớm máu mà Hoàng thượng ngứa ngáy ngày đêm, tự cào cấu trên da thịt mình. Vết cào xước đến đâu lông mọc lan đến đó. Hạ quan cùng với các đồng sự trong Thái y viện đã tìm những phương thuốc quý, hữu hiệu từ trước đến nay để chữa trị. Các nội nhân hoả đầu cũng lựa chọn những đồ ngự thiện bổ tì mát can để dâng lên… Nhưng bệnh tình của Hoàng thượng vẫn không thuyên giảm. Chỉ ít ngay sau, những vết xước se mặt, máu đọng khô lại, những mảng lông cũng cứng dần. Lông sậm màu. Khắp thân ngài ngự bao phủ một lớp lông cứng, dài, màu vàng màu nâu chen lẫn. Ở cổ và bả vai lông xù lên như bờm dài… Ngài ngự gầm rít suốt ngày, xé tan mọi áo quần trên người. Bao nhiêu đồ ngự thiện dọn ra còn y nguyên. Đôi lúc mọi người chung quanh rùng mình… dạ bẩm… vì thấy mắt ngài ngự đỏ đọc… Dạ bẩm, cặp mắt nhìn hau háu vào những cánh tay trần của cung nữ… như… ngài ngự thèm… thịt sống…! LỆ THIÊN hoàng hậu giơ bàn tay: - Khỏi nói thêm… Những điều đó ta đã thấy…! - Dạ bẩm hoàng hậu… Hạ thần đã mấy đời làm nghề y, trị bệnh cứu người. Dạ bẩm, đã từng chứng kiến nhiều căn bệnh kỳ quái… Nhưng sự thật lần này… Thái bảo LÝ TRÁC: - Thôi… Quan Thái y không cần dài dòng… Quan thái y ngập ngừng nhìn Thái bảo LÝ TRÁC, lại e dè liếc nhìn sàng LỆ THIÊN hoàng hậu. Hoàng hậu nói: - Có điều gì nhà ngươi không tiện nói ra chăng? - Dạ bẩm Hoàng hậu… - Bệnh tình của hoàng thượng nguy cấp lắm rồi. Chẳng có điều gì phải e dè! - Dạ bẩm… Hoàng hậu có tha tội, hak quan mới dám xin nói… - Nhà ngươi cứ nói… - Dạ bẩm… do can vượng sinh nhiệt. Gần đây hường thượng phòng dục quá độ… mà lại không được như ý… nên… LỆ THIÊN hoàng hậu ngồi thừ người, đỏ mặt. Rồi hoàng hậu cất tiếng nhẹ nhàng bảo quan Thái y: - Thôi được… ta có việc lui về hậu cung. Có gì nhà ngươi cứ bàn với quan Thái bảo. Ta sẽ nghe sau… Điều khẩn thiết lúc này là phải tìm được căn nguyên chứng bệnh của Hoàng thượng! - Dạ… Đúng vậy… bẩm Hoàng hậu! Còn lại hai người, Thái bảo LÝ TRÁC vẫn đưa mắt cẩn thận nhìn xung quanh xem có viên nội giám, cung nữ nào quẩn quanh gần đó, rồi mới hỏi nhỏ Thái y: - Vừa rồi… Quan Thái y nói vậy là nghĩa sao? - Thưa… Quan Thái bảoalafngười tinh tường, chắc ngài đã để tâm… Hoàng thượng từ ngày còn nhỏ, vào ở trong cung, đã có nhiều dáng vẻ khác người. Thần thái nhiều lúc không bình thường… - Đức Tiên đế NHÂN TÔNG đã có lần nhận xét vậy! - Dạ! - Ta nhớ… Có lúc Đức Tiên đế nói: “DƯƠNG HOÁN lanh lợi, thông minh. Nhưng nhiều lúc như có điều bứt rứt không yên trong lòng. Nhỡn lực ánh ỏi thâm sâu, lúc trì trệ… e rằng một khi gánh nghiệp lớn sẽ tổn trí, hao lực…” - Đại quan chắc đã tường… Từ ngày nối nghiệp Tiên vương, Hoàng thượng phán xử mọi việc thật anh minh… Nhưng thánh thể thật có điều chẳng an tâm… Đã thế, một vài đại quan trong triều… hạ quan e rằng… - Quan Thái y cứ nói! - Đầu tháng trước, khi được gọi vào cung để chẩn bệnh cho Hoàng thượng… hạ quan được thấy vò mỹ tửu của quan tham tri chính sự TỪ VĂN THÔNG dâng lên thánh thượng…! - Vò mỹ tửu đó có sao? - Dạ. Hạ quan xin nói rõ… Mỹ tửu đó có tên trong dân gian là "Phật leo tường". - Phật leo tường? - Sở dĩ mang tên nôm na như vậy để chỉ… Phật ngồi trên bệ trong chùa mà uống loại rượu này thì Phật cũng phải leo tường trốn ra ngoài mà hưởng thú vui của hạ giới…! - Lại có loại rượu tà dâm như vậy lọt vào trong cung ư? - Thứ rượu này được chế từ nhiều thuốc quý, trân vị… cùng với bốn mươi chín đôi càng con giang điêu, thường gọi là càng con bối. Tất cả bỏ vào trong một nồi sứ. Thêm vào các món như hải sâm khô, vây cá biển. Rồi thịt đùi lợn rừng đen truyền thái mỏng hầm lấy bốn đấu nước cốt rưới vào làm thang, dun trong nồi sử bốn giờ ba khắc, chỉ dùng than hoa, không được để lửa bén ngọn. Rồi gạn lóc lấy tình chất hoà vào rượu, thêm nhung hươu, nhân sâm, câu kỷ, hạ thổ,… Thứ rượu này uống vào thì chuyện phòng the hăng hái bội phần… - Chà chà… Ta xem, toàn những món có thể nuốt trôi điền trang một nhà có máu mặt chỉ trong một ché rượu… Thảo nào vừa rồi hoàng thượng xuống chỉ thưởng cho Tham tri TỪ VĂN THÔNG một thái ấp rộng ngay bờ hồ DÂM ĐÀM…! - Hạ quan e rằng Đức hoàng thượng đã quá lạm dụng thứ mỹ tửu này. - Thì ngoài Hoàng hậu với hai phu nhân, cung tầm mỹ nữ trong cung đâu có thiếu! - Qủa vậy. Nhưng chuyện trong nội cung hạ quan được nghe nói, việc lâm hạn với cung nhân NGẠN LA… Hoàng thượng vẫn không được như ý. Nội bức ngoại phá. Bức bối, không thoả mãn bên trong ắt bộc phát ra bên ngoài… Lại thêm sư bà động TRẦM thường vào cung giảng giải kinh sách cho cung nữ… Mỗi lần như vậy tâm trí Hoàng thượng có vẻ bất an…! - Hừ… Lũ hồ ly, yêu quái! LÝ TRÁC lẩm bảm trong miệng. Bất giác, hình cảnh cung nữ NGẠN LA trong lễ hoả thiêu ở NA NGẠN năm nào lại nhoi nhói hiện lên trong tâm trí LÝ TRÁC. Một nỗi buốt lạnh bất chợt ập tới khiến quan Thái bảo thoắt rùng mình. Thái bảo LÝ TRÁC bậm môi mím miệng im lặng hồi lâu. Rồi bất chợt ngẩng lên, gằn giọng nói với Thái y: - Ông với các vị trong Thái y viện tiếp tục theo dõi, chẩn trị bện tình của Hoàng thượng. Còn ta… ta sẽ bẩm báo với hoàng hậu. Phải kíp diệt trừ cái hoạ này…! * ** Theo lệnh của LỆ THIÊN hoàng hậu, Thái bảo LỶ TRÁC cho đón pháp sư, đạo sỹ vào lập đàn trừ tà, đuổi yêu quái trong cung. Một đàn cao bảy thước đựng lên trên sân TỬ CẤM THÀNH, trước cung LONG ANH. Trên đốt bẩy ngọn nến tươnhgj trưng cho bảy vía của hoàng thượng. Bên mỗi ngọn nến là một tiểu thái giám đứng canh, tuyệt đối không để một giây nến tắt lửa. Một bộ roi dâu buộc ngũ sắc đặt trên bàn lớn trước đàn lễ. Một vị pháp sư áo thụng đen nẹp trắng, đầu đội mũ cao, ngồi gõ mõ, tụng niệm. Chung quanh là các tiểu pháp sư, đạo đồng, thái giám, cung nữ cũng mặc áo choàng đen, mặt bôi vẽ, tay cầm roi dâu buộc sợi ngũ sắc ở ngọn. Trước đàn, cung nữ NGẠN LA bị trói chặt vào một cọc tre bằng những sợi thừng ngũ sắc tẩm phân lợn. Hôm trước nghe Thái bảo LÝ TRÁC tâu trình, LỆ THIÊN hoàng hậy cau mặt, mày ngài như dựng hẳn lên: - Từ ngày con hồ ly này vào cung, trong cung bao nhiêu sự biến loạn! Yêu quái! - Dạ bẩm… Cách đây chín năm, trên giàn thiêu NA NGẠN, thần đã bẩm với Hoàng thương… - … Mà hoàng thượng cứ mê đắm nó quá thế…! - … Khi đó hạ thần đã dâng tâu phải diệt trừ ngay… - … Mà đâu có phải Hoàng thượng được thoả ý với nó. Có lần Hoàng thượng kể với ta, lúc định gần gụi nó thì Hoàng thượng lại nhìn thấy gương mặt Đức tiên đế phụ hoàng hiện lên ngay trong… nó. Chà, yêu quái…! Yêu quái! - Hà thần đã biết, mầm hoạ là vậy… - Thôi. Quan Thái bảo khỏi nhiều lời. Con bé này đúng là hồ ly tái thế, yêu quái hiện hình… Hãy đón pháp sư, đạo sỹ cao tay ấn, lập đàn gải phép trừ yêu, cứu mệnh hoàng thượng! - Hoàng hậu thật vô cùng sáng suốt! - Khoan… Còn mụ sư bà động TRẦM. Cũng phải diệt trừ…! - Dạ… bẩm… - Sao? - Bẩm… Sư bà động TRẦM là do đích thân Hoàng thượng triệu vào cung để khai tâm cho cung nữ… - Cũng là yêu quái. Quan Thái bảo không thấy, từ đó đến nay, năm nào Hoàng thượng chẳng mấy lần sai người triệu mụ ta vào cung. Mà mỗi lẫn như vậy, dẫu sư bà trở về động TRẦM rồi, Hoàng thượng vẫn cứ ngẩn ngơ như người mất vía hàng tháng, chẳng còn thiết gì đến mọi chuyện khác…! - Dạ… Qủa có vậy! Nhưng tội trnạg sư bà chưa rõ ràng. Vả lại, lúc này sư bà đang ở động TRẦM. Triều đình làm quá e kinh động tăng ni trong cả xứ… LỆ THIÊN hoàng hậu cắn môi. Bấy lâu nay mỗi khi nỗi ghen tuông uất ức nổi lên. Hoàng hậu như muốn mang cả sư bà cùng cung nữ NGẠN LA ra mà băm vằm mổ xẻ. Nhưng lời lẽ của quan Thái bảo khiến hoàng hậu cũng phải đắn đo… Ngẫm nghĩ mọt lát, Hoàng hậu bảo LÝ TRÁC: - Thôi được… Quan Thái bảo cứ diệt trừ yêu quái NGẠN LA trước đã… Còn sư bà động TRẦM… Ta sẽ có lện liền theo…! Bị trói cứng vào cọc tre, mùi hôi thối của dợi dây thừng ngữ sắc tẩm phân lợn khiến NGẠN LA lợn giọng buồn nôn. NGẠN LA đưa mắt nhìn quanh. San sát là những khuôn mặt vui mừng hả hê đắc ý. LỆ THIÊN hoàng hậu. MINH BẢO phủ nhân. CẢM THÁNH phu nhân. NHẬT PHỤNG phu nhân… Cùng bao nhiêu cung tần mỹ nữ vây quanh đàn trừ tà kia chẳng phải vì tò mò muốn tháy pháp sư trổ tài phát thuật thần thông diệt trừ yêu quái, mà còn vò nỗi ghen ghét oán hận nàng. Từ ngày có nàng, Vua đã si mê cả trong bữa ăn đến trong giấc ngủ, khiến bọn họ có trang điểm rực rỡ, ngày đêm trổ hết tài uốn éo yeu kiều mà vua cũng vẫn không hề biết có bọn họ ở trên đời này… Rồi còn Thái bảo LÝ TRÁC, tên quan già độc ác tàn bạo kia nữa. Hắn đang nhìn nàng chịu khổ nhục, đau đớn với cặp mắt sung sướng thoả mãn làm sao. Nàng đã làm gì hắn, cha mẹ nàng đã nợ nần gì hắn trong cõi đời này mà gần mười năm nay, từ ngày trên giàn thiêu NA NGẠN trở về, hắn cứ như một hồn ma bóng quỷ dai dẳng bám theo cuộc sống của nàng, tìm mọi cách hãm trừ nàng… Có tiếng gầm gừ từ phía sau bức màn đỏ đối diện với đàn trừ tà. NGẠN LA rùng mình. Nàng biết đó là Đức vua hoá hổ. Lồng ngực NGẠN LA nhoi nhói đau xót. Nàng biết lúc này Đức vua đang bị trói trên long sàng, dẫu rằng nhưũng sợi dây trói không phải là thừng ngữ sắc tẩm phân lợn hôi thối mà là tết bởi các sợi vàng nhỏ li ti bền chặt. Phải làm như vậy để vua không quẫy lộn, nhất là không dùng những ngón tay có móng dài sắc nhọn mà cào cấu, rút bỏ ra khỏi thân mình những cụm lông vàng dính bê bết máu. Bây giờ Ngài ngự nằm đó, chỉ có thể giương đôi mắt có tròng lồi hẳn ra mà gầm gừ, mà rít lên những tiếng nho nhỏ đầy đớn đau, uất ức. Trước đàn trừ tà, pháp sư đang quỳ, lẩm nhẩm khấn, bỗng đột nhiên thét lên một tiếng, mắt đảo ngang đảo dọc. Lập tức, từ đăng sau tấm màn đỏ, một tiểu pháp sư tay xác một con gà trắng chạy ra. Con gà trắng đã giấu kín dưới long sàng của Ngài ngự từ hôm bắt đầu cuộc lễ trừ tà đuổi quỉ. Một lò than rực đỏ được đem đặt trước mặt pháp sư. Một tiểu pháp sư khác hai tay nâng một lưỡi thep nhỏ răng chấu. Pháp sư lẹ làng cầm cổ con gà gắng, kề chiếc lưỡi cưa vào cổ gà, vêếtđứt mang hình răng cưa ở cổ gà bắt đầu nhểu ra những giọt máu. Nét nặt NGẠN LA thất sắc. Nàng nhìn chằm chằm vào chiếc cổ bị cưa của con gà trắng, nhìn con gà giẫy giụa mà không chết nổi. Đôi mắt con gà đờ dại dần dần… Pháp sư cao con gà bị cứa cổ trên lò lửa. Trong tiếng xèo xèo và mùi khét lẹt của thịt gà bị thiêu đốt, trong tiếng đập cánh tuyệt vọng của con gà trắng dang chờ cái chết chầm chậm, nghiến ngẩm ra khỏi thân mình, qua những giọt máu rỉ rả chảy, pháp sư nhìn chừng chừng vào người NGẠN LA, lớn tiếng đọc những câu kinh, câu chú không đầu không cuối: … Án phạ nhật ra chỉ mảnh, bát ra nể bát ra dà, tát phạ ha… án phạ nhật ra nằng dã, hồng phấn tra… Rồi, phấp sư tiến sát trước mặt NGẠN LA , giọng âm âm như giọng cô hồn từ dưới đất sâu vọng lên: - Ngươi là yêu quái nơi cây đa cây gạo, hay là loài chồn cáo thành tinh nơi miếu hoang? Mau mau trở lại hình hài, rời xa đức kim thượng, nếu không muốn tan xương nát thịt. Muốn ta đầy ngươi xuống ngục A TỲ? Địa ngục A TỲ bảy lần thành sắt, trên bao bảy lần lưới sắt, dưới cũng mười tám lớp vòng quanh, đều là rừng đao. Bảy lần trong thành ấy lại có rừng kiến. Bốn góc thành có bốn con chó ngao lớn, mắt như ánh chớp, nanh như kiếm sắc, răng như núi dao, lưỡi như câu sắt, móng như thiết xoa, đuôi như thiết mãng, tất cả các lõ chaâ lồng đều xì lửa như bắn như khạc… Những người đứng chung quanh đàn trừ tà run như dẽ khi nghe những lời của pháp sư. Chỉ riêng quan Thái bảo LÝ TRÁC ngồi im lặng phía sau LỆ THIÊN hoàng hậu. Đôi môi mỏng mím chặt, quan Thái bảo nhìn chằm chằm về phía cọc trói cung nữ NGẠN LA. Kỳ lạ, cái cảm giác ngồn ngột, chờn chợn mười năm trước ở giàn thiêu NA NGẠN đã theo đuổi, ám ảnh trong quan Thái bảo suốt từ đó đến nay bây giờ lại đột ngột tràn tới, thấu lạnh suốt dọc sống lưng. Quan Thái bảo muốn quay đi, muốn không nhìn về phía NGẠN LA, muốn nhắm nghiền hai mắt. Nhưng không được. Như có một sức mạnh kỳ lạ, lạnh lùng, tàn nhẫn xoay đầu ông ta trở lại, đảy cặp mắt mở to hơn, hướng bắt cái nhìn của ông phải dính chặt vào cái mớ tóc đen dài, khuôn mặt thon nhỏ như không còn máu… đáng uất ức mệ mỏi ngã tựa vào đầu cọc tre kia. Trước mặt mọi người, pháp sư khoa chân múa tay, giọng gào thét đến gần khản đặc về sự khủng khiếp của ngục A TỲ: - … Này yêu quái các ngươi. Hãy nghe mà nhớ cho kỹ cái nơi mà các người sắp sửa rơi xuống để muôn năm phải ở đó mà sám hội cho tội lỗi của các người. Bốn cửa mỗi bên đều có mười tám quân ngục tốt, đầu như quỷ la sát, miệng như la sát, trên đầu có mười tám ngà, chân tay như sắt tẽ, bảy lầu trong thành có vô số phướn sắt, đầu phướn lửa phụt lên như suối vọt, nước sắt chảy tràn trong thành A TỲ. Bốn cửa thành, trên mỗi cửa có mười tám vạc bằng đồng, trông vạc nấu sắt, có tám mươi bốn ngàn con mãng xà sắt lớn, nhả độc phun lửa, thân to dài cuộn đầy khắp trong thành… Nghe đến đây, một tiểu pháp sư hạ bó roi dâu trên bàn, cởi dây buộc. Đồng thời đám đạo đồng, thái giám, cung nữ mặc quần áo đen, mặt mày bôi vẽ xanh đỏ đứng quanh đàn cũng bắt đầu nhảy nhót, miệng thét lên the thé, tay vung vẩy những ngọn roi dâu buộc chỉ ngũ sắc ướm vào đầu vào cổ cung nữ NGẠN LA bên cọc trói. - … Kẻ phải đoạ nơi địa ngục chỉ có giương mắt cấm khẩu, cấm khẩu giương mắt. Tội người ấy chịu muôn ức dao bay tròn như vòng xoáy, chém suốt từ đầu xả xuống đến chân, tất cả đau hơn nói trên đây gấp trăm ngàn muôn phần. Trong khi chịu khổ, lửa dữ nhập tâm, ngất đi rồi chết, quân ngục tốt và quỷ la sát cầm gậy sắt đánh xuống đất quát to lên rằng "Sống dậy! Sống dậy". Tức khắc sống liền, trong một ngày một đêm muôn lần chết đi sống lại, chịu khổ não như trên đã nói. Những tội nhân trong khi chịu khổ không nói gì được, chỉ kêu la rằng: "A ba ba, a cha cha, a la la, a bà bà… Yêu quái! Hãy mau mau kêu lên để giải thoát…". Dứt lời, pháp sư vớ lấy nhưũng chiếc roi râu trên bàn, miệng hú lên, vừa hú vừa thẳng tay quật vun vút vào NGẠN LA. Đám đạo đồng, thái giám, cung nữ chung quanhg càng la hét, nhảy nhót dữ dội. Những người đứng ngồi chung quanh đàn trừ tà, dù trong lòng hả hê vì sự ghanh ghét, nhưng lúc này nhiều kẻ cũng phải nhắm mắt không còn có thể nhìn mãi cảnh tưởng trước mặt. Chỉ riêng cung nữ NGẠN LA là nghiến răng im lặng, không một lời khóc lóc, kêu xin. Hai hàm răng cắn chặt moi máu rỉ xuống thành vệt, nàng chịu đựng cái đau xé da thịt. Không nghe tiếng nhẩy nhót, hò hét man rợ của lũ người vây quanh. Lúc này bên tai NGẠN LA lại chỉ còn văng vẳng lên, mỗi lúc một rõ lời của sư bà động TRẦM hồi cuối năm ngoái: "Cung nữ NGẠN LA. Đừng biết nó, đừng nghĩ đến nó thì sẽ không có khổ hạnh, không có đau đớn. Sống gửi thác về. Nơi Niết bàn đang mở ra, chờ đón những kẻ như cung nữ…!" - Đánh! Đánh nữa! Con yêu quái này gan to mật lớn… không một tiếng kêu! Nghe trong tiếng quát của Hoàng hậu LỆ THIÊN đã có nhuốm phần hoảng sợ. - Bẩm Hoàng hậu. Yêu nữ này… LÝ TRÁC run run lên tiếng. Từ nãy quan Thái bảo như bát chợt đứng ngồi không yên. Mỗi làn roi pháp sư quất xuống thân thể NGẠN LA kia sao bỗng dưng cũng nhoi nhói trên thân thế như những ngọn roi đó quất xuống chính người quan Thái bảo. Nghe tiếng Hoàng hậu LỆ THIÊN, LÝ TRÁC như sực tỉnh. Ông ta lên tiếng mà không biết mình định can ngăn pháp sư hãy dừng tay toi hay thúc dục thêm để pháp sư mạnh tay đòn hơn, cho nhanh chóng xoá đi, làm tiêu tan một cái gì đó rất khủng khiếp, rất ghê sợ mỗi lúc mỗi lớn theo mỗi làn roi quất xuống thân thể cung nữ NGẠN LA kia. Chợt LÝ TRÁC rùng mình hai tay giữ chặt lấy thành ghế đang ngồi, miệng há to mà không cất nổi thành tiếng kêu. Đó là lúc cung nữ NGẠN LA gục xuống, ngất đi sau một làn roi xé thịt của pháp sư. Tấm áo trắng vấy máu đỏ bị ngọn roi xé rách. Phần trước áo xoã xuống để lộ mảng ngực tràn ngang dọc lằn roi. Và LÝ TRÁC nhìn thấy vết bớt hình con thạch sùng màu tím trên ngực căng đầy của cô gái. Quan Thái bảo như vừa bị quất một roi trúng tim. Hơn hai mươi năm trước, anh học trò nghèo châu Ái áo dùm cơm nắm vượt đường xanh núi thẳm ra kinh thành ứng thi mong kiếm chút công danh. Giữa đường gặp nạn, số bạc vụn mang theo bị cướp sạch, lại thêm bệnh nặng, áo quần còn sót lại phải gán cho hàng quán bên đường thế trừ nợ tạm. May sao gặp một thày lang qua đường tốt bụng đưa về nhà. Thày làng vốn dòng dõi thư gia khá giá, đã vào đến kỳ thi tam trường nhưng bỗng chán việc học hành, quay về quê theo nghề của cha ông, xem mạch bốc thuốc cứu nhân độ thế. Ba năm ở lại nhà thày lang, anh học trò được thày chữa chạy khỏi bệnh nan y, lại chỉ bảo thêm để dùi mài kinh sử. Công việc của anh chỉ kèm cặp cho cậu con trai tám tuổi của ân nhân làm quen thêm ít mặt chữ thánh hiền. Bát cơm xiếu mẫu lúc khốn khó đói lòng, công ơn cứu mạng đinh ninh suốt đời mang nặng. Lại thêm, tình quyến luyến giữa anh học trò đàng trong mặt mũi sáng sủa, thông minh lanh lợi với cô con gái chủ nhà vừa tuổi trăng tròn. Đến dịp triều đình mở khoa thi mới, thày lang cấp bạc, tư trang nghiên bút cho anh học trò lên đường tiếp tục tìm kiếm công danh. Cô gái giấu cha mẹ, lén bọc ít bạc vụn tiền mừng tuổi dịp Tết mỗi năm. Họ đã trao thân vào buổi tối anh chuẩn bị lên đường. Anh học trò úp mặt trền vầng ngực như vầng trăng non mới nhú, ngậm mãi cái vết bớt màu tím nhạt trên bầu vú cô gái, nước mắt ứa ra, nghẹn ngào chỉ mong ra đi sớm giật bảng vàng, vinh hoa phú quí trở về để đền đáp ân tình sâu nặng. Cái vết bớt có hình con thạch sùng bám mãi vào đầu óc và tâm trí anh học trò đàng trong từ khi anh đỗ nhất kỳ thi tam trường, được một thân vương chốn kinh thành gọi gả con gái, và tâu xin với đức tiên hoàng NHÂN TÔNG đặc ân đổi họ ĐỖ thành họ LÝ. Một vài năm sau khi công thành danh toại, phú quý mọi bề, LÝ ngầm dấu phu nhân mật sai người tâm phúc về nơi cũ dò tìm tin tức. Gia đình thày lang tan tác trong đợt quân CHÂN LẠP tắt đường biển vào cướp phá khắp vùng năm Canh Tý. Trước đó, cô con gái có hoang thai đã bỏ nhà đi, để lại nỗi tủi nhục khôn cùng cho cha mẹ họ hàng làng xóm. Hơn hai mươi năm đã qua. Công danh rộng mở, chàng học trò nghèo năm xưa đã trở thành quan Thái bảo nhất phẩm triều đình, ngày đêm ra vào cận kề cung cấm. Chỉ có một điều tâm sự không thế nóicùng ai. Đó là dù vợ lớn vợ nhỏ, dù thê thiếp hàng đàn, quan nhất phẩm đã đến nay gần lục tuần, sức tàn lực kiệt mà vẫn không có được một mụn con nối dõi. Và cái bớt màu tím định mệnh, cái con thạch sùng đuôi cong, bốn chân dang rộng đó cứ mỗi ngày đêm như mọc thêm móng dài vuốt sắc, như quẫy lộn, như rúc đầu nhe răng mà ngoạm mà cắn mà đâm sâu bám chặt, xoá đi không dứt ra khỏi đầu óc, tâm trí quan Thái bảo. -Chẳng lẽ… yêu quái lại còn bày đặt thế kia để làm rối loạn tâm trí ta?… LÝ TRÁC cắn răng lẩm bẩm trong miệng. - Quan Thái bảo … đã cho quân đến động TRẦM lôi mụ sư trụ trì về đây chưa? Tiếng LỆ THIÊN Hoàng hậu riết dóng kề bên khiến LÝ TRÁC giật bắn người. Quan Thái bảo ấp úng: - Dạ bẩm Hoàng hậu… Đã… có ạ! - Giải mụ đó tới đây. Không lẽ hoàng triều ta chịu bó tay trước lũ yêu nữ này? - Dạ…! - Thái bảo LÝ TRÁC hổn hển - Tâu Hoàng hậu… ĐỂ hạ thần… LỆ THIÊN Hoàng hậu nhìn LÝ TRÁC ngạc nhiên. LÝ TRÁC: - … Để… Để hạ thần… hạ thần muốn hỏi… hỏi con yêu nữ này mấy câu… Có thể làm nó tỉnh ngộ… mà rời xa… hoàng thượng…! Rồi không đợi được Hoàng hậu gật đầu, LÝ TRÁC lẩy bẩy đứng dậy, lẩy bẩy bước tới gần cọc trói cung nữ NGẠN LA. NGẠN LA vẫn gục đầu ngất lịm đi sau lằn roi độc địa của pháp sư. LÝ TRÁC bước tới, dừng lại, trân trân nhìn vào khuôn mặt người cung nữ. LÝ TRÁC muốn đưa tay lật khuôn mặt đó lên để nhìn cho rõ hơn, nhưng lại lúng túng. Đằng sau lưng, chung quanh đang có bao nhiêu con mắt dõi nhìn theo mỗi bước đi, mỗi cử chỉ của ông. Thái bảo đứng thở không ra hơi. Rồi bỗng nhiên quay về phí pháp sư, phất tay, giọng rít lên tức tối độc ác mà cũng thống khổ, đau đớn: - Đánh! Được lời, pháp lấy vạt áo lau môg hôi tứa đẫm trên trán, nghiến răng vung roi. Chợt một tiếng gầm rền vang như sấm từ long sàng phía sau màn lụa đỏ. Đức vua hoá hổ như chợt tỉnh, thoát ra khỏi cơn mê tăm tối. Vua hoá hổ xé tan bức màn, nhẩy ra ngoài. Những đoạn dây trói đứt tung văng lả tả. Vua hoá hổ nhìn sững NGẠN LA loã lồ đang ngất xỉu trước mặt LÝ TRÁC. Sững lặng trong giây lát, vua hoá hổ lại gầm lên một tiếng, nghe như tiếng khóc. Rồi lao vút tới, hai tay lông lá vồ lấy Thái bảo LÝ TRÁC. LÝ TRÁC cúi người xuống định tránh những vuốt sắc nhọn. Nhưng không kịp. Không thoát. LÝ TRÁC giẫy dụa trong tay THẦN TÔNG. Một tiếng thét đau đớn xé ra. LÝ TRÁC rũ xuống. Khắp mặt LÝ TRÁC đầm đìa máu đỏ. Bên con ngươi mắt phải đã bị móng hổ sắc bật ra ra khỏi tròng. Khắp chung quanh đàn lễ lặng ngắt khiếp hãi. Vang lên tiếng trống điểm và tiếng bước chân người tới. Lũ lính thị vệ đi bắt sư bà động TRẦM vừa lôi xềnh xệch sư bà đến trước đàn lễ trừ tà. Mắt sư bà chảy tràn đôi dòng lệ. hai tay bị trói chặt sau lưng, sư abf ngước lên trời: - Nam mô Quán thế âm Bồ tát cứu khổ cứu nạn. Người đi đâu mà để chó lợn giầy xéo long môn, hạ kẻ vôi tội? Xin hãy ra tay cứu vớt…! Mọi người lại càng sững sờ. Nhưng thật bất ngời, vua hổ THẦN TÔNG bỗng phục xuống, lết bốn chân đến trước mặt sư bà động TRẦM. Đức vua phủ phục dưới chân sư bà, kêu lên như tiếng hổ khóc: - Sư bà ơi… xin hãy tìm đường cứu ta! Vua ngã vật xuống, nằm im thin thít trên sân cung điện. Con mụ nhăn chết tiệt, chuyên gia chọc gậy bánh xe và làm loạn. Định vào hùa với quân địch để hăm dọa cháu tớ hửm? Rưng mà... mình cũng đang muốn đọc. Bực cả mình, thời gian nó kéo dài lâu quá khiến mình quên hết đoạn trên rồi CHƯƠNG 14 CÔ PHONG Sư bà động TRẦM đổ gục bên gốc lim. Chiếc nay tải mầu già khoác chéo qua ngực bà. Sư bà vẫn chưa hết lợm giọng khi nhớ lại quang cảnh lão pháp sư và lũ đệ tử nhảy múa làm lễ trừ tà đuổi quỷ trong cung cấm. Gương mặt độc ác, biến dạng của Thái bảo LÝ TRÁC. Hoàng hậu LỆ THIÊN và đám phi tần hả hê trước cung nữ NGẠN LA chịu cực hình. Và vua THẦN TÔNG, dưới hình hài một con hổ vằn vện từ trên long sàng lết bốn chân đến bên sư bà, lời kêu cứu thống thiết: - Sư bà, xin hãy tìm đường cứu ta! Lúc đó sư bà đã ngất đi. Khi tỉnh lại, sư bà thấy có ai đó đang mơn man thoa vuối đôi tay bị day trói cứa nát của mình. Sầu dung mãn diệt. Bây giờ, sư bà mới tháy, trên chán người ấy có nốt ruồi. "Chao ôi! Nghiệt duyên!". Lần đầu tiên, kể từ khi gặp NGẠN LA, lòng sư bà trào lên nỗi thương xót cô gái xa lạ. Dung nhan của cô ta đầy vẻ cô tịch. Xa xăm quá trong thế giới này. Một người tưởng đã dứt lòng trần như bà mà thoạt đầu mới gặp NGẠN LA cũng đã giật mình. Biết, con người này xuất hiện ở đâu, muôn ngàn người xung quanh cô ta trở nên vô hình vô dạng. Cũng nhưu chính vẻ đẹp mong manh và hư vô của bà, như sương khói, như tuyết ngưng, cũng lại là một mãnh lực làm nổi ba dào cho suốt cuộc đời bà, ngay cả đén khi xuống tóc vào chùa đi tu vẫn không được yên ổn. Trên quả đồi, đàn bò thơ thẩn gặm cỏ. Những con nghé đang chập chững những bước đầu tiên và rúc tìm vú mẹ. Đám trẻ chăn trâu đốt nửa nướng khoai sắn và châu chấu, vừa thổi vừa ăn, trêu trọc chí choé, đuổi nhau chạy khắp đồi, vừa chạy vừa hát: Nghé ơi, à nghé Nghé khôn theo mẹ Nghé dại theo đàn… Da diết buồn. Tiếng hát gọi nghé của lũ trẻ trâu. Như một con nghé lạc, sư bà đã đến đây, trong cớn sốt. Bập bỗng như đi trên đôi chân kẻ khác. Toàn thân đau nhức, bà tự hỏi không biết thwcj hay mộng. Bà tìm đại sư MINH KHÔNG. Ngao du như gió. Duyên nợ từ kiếp trước, trong một lần ghé qua động TRẦM, đại sư MINH KHÔNG đã cho bà biết bí tích về hai kiếp của THẦN TÔNG. Cách đây sáu năm, năm THIÊN THUẬN thứ tư, đức THẦN TÔNG đã cho dựng chùa lớn, sửa nhà rộng, thỉnh đại sư MINH KHIÔNG về ở. Nể tình Đức kim thượng, sư đến, suốt bữa đại tiệc rượu thịt ê hề, chỉ cười nửa miệng, uống một chén rượu, ngụ lại một hôm, rồi biến đi đâu mắt tăm dạng. Vua nhớ tiếc, cho người đi tìm khắp nơi. Đại sư MINH KHÔNG thuở thiếu thời đã kết bạn cùng TỪ LỘ, GIÁC HẢI, đội nón tơi, mặc áo vá, tích trượng trong tay, vượt bao gian khó hiểm hoạ ngàn trung xa cách tìm đường sang TÂY TRÚC học đoạ. Trở về, mỗi người đi mỗi ngả. TỪ LỘ trả xong thù cha, duyên nợ rửa sạch, chu du đây đó tầm đạo, chung cục về chùa PHẬT TÍCH dưới chân núi SÀI, lấy pháp danh là ĐẠO HẠNH, phát tâm cầu giải thoát, viết kinh sách, giảng đạo học, khuyến khích đệ tử và dân chúng kiệt thị vậy dục, cuố đất lật cỏ mà ăn, khinh rẻ chợ búa, bán chác, trồng nhặt được gì ăn nấy, chối bỏ vàng lụa, coi cuộc đời chỉ là cõi tạm. Dân chúng nghe theo, đem thóc gạo tiền bạc của nhà hiến làm của chung, cho một vài vị chức sắc trong đám tăng lữ trông coi, bữa bữa đếm đầu người mà xay thóc giã gạo, lấy đấu đong gạo nấu cơm. Cơm chín, tất thảy đều đơm vào những cái bát bằng gỗ hoặc bằng sành, nghe tiếng mõ chùa, nhất loạt cùng vục đầu xuống ăn. Một hồi mõ chùa nữa, dù người đang ăn dở xũng buông đũa, bỏ ra ngoài xỉa răng, uống nước vối, có đói chết cũng nhất quyết không thèm ăn thêm một miếng. Quần áo cũng nhất loạt nhấn nâu. Thấy ai ăn mặc màu mè liền xúm đến dèm pha cho kỳ xấu hổ mất mặt mới thôi. Người theo về chấn núi SÀI đông như kiến cỏ. Ngày rằm mồng một hàng tháng, dân chúng chen vai thích cánh đến nghe sư thuyết giảng đen cả chân núi SÀI. Trong lúc các đệ tử đang rơi nước mắt nghe lời thuyết giảng, số của cải mà họ gom góp đem bỏ làm của chung đã bị những người coi kho đem về nhà làm của riêng. ĐẠO HẠNH đại sư vẫn say sưa gửi tâm về cõi Phật mà không hề hay biết rằng, ngài càng ra sức ăn chay, khắc nghiệt hành xác, sô của cải về tay đám chức sắc trong tăng lữ và những kẻ coi kho ngày càng nhiều. Bữa ăn của đám đệ tử ngày càng còm cõi. Trước những con mắt đói hau háu nhìn phần cơm ít ỏi được chia mỗi bữa, cái muôi múc canh của người phân phát thức ăn ngày càng trở nên ngạo ngược. GIÁC HẢI về trụ trì chùa HẢI THANH, nối Thiền phái của KHÔNG LỘ THIỀN SƯ. Sinh thời, Đức NHÂN TÔNG cho vời vào kinh, GIÁC HẢI đã cùng đạo sĩ THÔNG HUYỀN biểu diễn huyền thuật, khiến cho hai con kỳ nhông đang leo lên cây bồ đề bỗng dưng rơi xuống trước mặt vua và biến thành hai que củi khô… Đức NHÂN TÔNG cảm phục có thơ khen: "GIÁC HẢI tâm như hải. THÔNG HUYỀN đạo hựu huyền. Thần thông kiếm biến hoá. Nhất Phật, nhất thần tiên". Riêng MINH KHÔNG, từ TÂY TRÚC trở về, liền kiến lập chùa DIÊN PHÚC. Không thuyết giảng. Hàng ngày chỉ lẳng lặng ngồi thiền, lẳng lặng nhìn cảnh đời trước mắt. Cho đến một lần sư đột nhiên nôn ra một bụm máu đen, nằm lịm di ba ngày ngư đã chết. Đám đệ tử chuẩn bị đem sư vào chốn dành cho người đã viên tịch, sư bỗng tỉnh dậy, than rằng: "Phật chưa giải thoát cho ta khỏi chốn phàm tục này!". Sau khi ĐẠI HẠNH đại sư chùa PHẬT TÍCH viên tịch, MINH KHÔNG được coi là vị cao tăng nhất nước, thần thông siêu quần, thường thi triển phép đi trên sông trên biển, tàng hình, xuyên qua đất đá, sau một tiếng thét có thể phi thân leê không trung mà tay trạm mặt trời mặt trăng, mỗi khi trời làm hạn hán, lụt lội đều có thể trai giới cầu đảo được mưa được nắng. MINH KHÔNG trụ trì chùa DIÊN PHÚC nhưng ưa ngao du đây đó, thân bất định, lúc biến hoá ra bà già ăn mày để thử lòng từ bi của người, lúc biến thành một người thợ rèn đi thu nhặt đồng vụn, bạc vụn về đúc tạo "ĐẠI NAM TỨ KHÍ". Đó là tượng PHẬT A DI ĐÀ ở chùa QUỲNH LÂM xứ HẢI DƯƠNG. ĐỈNH ĐỒNG ở tháp BÁO THIÊN ngay giữa kinh thành. ĐẬI HỒNG CHUNG ở PHỔ LOẠI. VẠC LỚN ở MINH ĐẢNH… Có khi đại sư lúc biến thành một kẻ mang vàng ngọc đi mua quan bán tước để vạch mặt đám "phụ mẫu chi dân" lòng lang dạ sói, lúc biến thành một cô gái yêu kiều lẳng lơ để thử bụng dạ của mấy ông sư hổ mang. Sư không coi trong việc giáo hoá dân chúng, chỉ lấy việc sửa mình, cứu người thay cho lời nói, thường chế giễu mấy vị cao tăng đi đâu chũng chỉ cho giáo lý của mình là độc nhất vô nhị, ra sức bài xích những giáo lý khác. Đồ rằng, năm nọ, ở hạt HẢI DƯƠNG có xẩy ra trận kịch chiến giữa môn đồ hai phái để giành ảnh hưởng và tranh đệ tử cúng đường. Môn đồ hai phái chiếm đóng hai làng kề nhau, người trong làng hễ mở mồm ho he nói khác với những tín điều của đám môn đồ này là lập tức bị trói chân trói tay, đánh đập, đem bêu giữa đường cho dân chúng ném đá đến chết. Dân hai làng trước đây vốn thân thiện, nhiều người là họ hàng thân thiết, nay bỗng buộc bị hoá kẻ thù. Việc đi lại bị cấm chợ ngăn sông, khổ sở muôn phần. Dân trong làng mười phần, tự nghi kỵ, trừ khử, ám hại nhau mất ba còn bảy, đau đớn kêu trời không thấu. Mãi sau mới có một thầy đồ sáng ý, cải trang thành kẻ ăn mày lở lói, bôi nhọ nhem mặt mũi trốn làng đi thỉnh đại sư MINH KHÔNG về cứu nạn. Đại sư dịp đó đang rong chơi ở miền thượng, nghe thầy đồ khóc lọch kể lể sự tình thì nghiến răng nói: "Quân tà đạo vô lương! Kẻ nào ngoài miệng cũng bai bải giở giọng từ bi, vậy mà trong bụng rắn rết không kể xiết, cứ hễ thấy kẻ nào không giống mình là muốn đánh đập hãm hại. Chúng tranh giành giết chóc nhau chưa từng đó năm chưa thoả lòng tham, sao còn bắt đân đen con đỏ chịu khổ nạn này!". Dứt lời, đại sư xuất vía, lướt đi trên không trung, trong nháy mắt đã tới làng của thầy đồ. Ngài vừa đặt chân xuống đất thì cát bay đá chạt, khi mây tan mưa tạnh, hai ngôi đền thờ tà đạo đã tan thành bình địa. Dây trói đứt tung. Dân chúng reo hồ nhảy múa trong khi bọn gian ác thoắt biến thành tượng đá… Nếu chẳng tìm được MINH KHÔNG, vua THẦN TÔNG sẽ chết khi đôi bàn tay mọc đầy móng vuốt sắc nhọn cào thủng ngực và tự vua sẽ moi quả tim của mình ra cấu xé. Đó là sự trừng phạt của địa ngục. Cái vị đế vương lên ngôi trong khi chỉ đang là một đứa trẻ. Người hoá hổ, đã đành là đau đớn. Nhưng ta, ta sống làm gì, những chuỗi ngày tháng thừa thãi này? Mấy chục năm nay, ta đã ẩn náu, đã cố tình xa lánh. Như một ngọn gió đơn độc thổi ngoài bãi hoang. Mà trong lòng vẫn nhói đau trước những thăng trầm thất thường của con người ấy. Con ngừi bập bỗng ấy, mỗi bước đi đều làm nhói tim ta. Trong khi ta chưa trả nợ xong kiếp này, thì chàng đã kịp trải qua hai kiếp, để hành hạ, vó xé ta bằng những nỗi đau khổ của chàng, bằng những bước đi thập thững và dại dột của chàng. Khi con mắt chàng đỏ đọc ngọn lửa báo thù thuở chàng còn là TỪ LỘ, trong mắt chàng không có ta. Khi ta hiến dâng cho chàng, trẫm mình xuống vực xâu, trong mắt chàng không có ta. Khi chàng lôi tuột ta từ động TRẦM về hậu cung đẫm mùi son phấn và mưu đồ ác độc, chàng đã đầy đoạ ta thêm một lần nữa. Và lần này mới độc ác làm sao. Chàng là một ông vua còn trai trẻ, được vây quanh bởi lớp lớp cung tần mỹ nữ, lại đang si mê một cung nữ nửa người nửa phù thuỷ có thể mê hoặc được cả Niết bàn lần Địa ngục. Thế mà ngọn lửa từ kiếp trước vẫn cháy trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta. Ôi! Đoạ xứ mà chàng đã dìm ta vào! Ta phải ở bên cạnh chàng hàng ngày để chàng nhìn ngắm trong nghi hoặc, một ngày chàng tự vấn hàng trăm lần không biết nên gọi ta là sư bà, là mẹ, hay là một người tình? Phải ra khỏi đoạ x̗