GIẾNG CỔ GIO AN (Dựa theo tài liệu của Ban Danh thắng Quảng trị) Nhóm thực hiện : - Nguyễn Quang Chức - Khánh Ly - Trần Bình HỆ THỐNG NHỮNG CÔNG TRÌNH KHAI THÁC NƯỚC CỦA NGƯỜI XƯA Ở GIO AN Bấy lâu nay, các nhà nghiên cứu thông qua công trình của mình đã đề xuất nhiều tên gọi khác nhau về những công trình khai thác nước bằng cách dùng đá xếp , chẵng hạn : Hệ thống dấu vết thuỷ lợi sử dụng chất liệu đá xếp (Tạ Chí đại Trường), Giếng nước cổ(Lê Duy Sơn), Giếng cổ-Đá thần(Trần Viết Điền ), Công trình khai thác nước dùng đá xếp(Lê Mỹ Dung), Hệ thống giếng xếp đá cổ(Vũ Triều Dương) hay Sys tème' ,'puits(M.Colani)... Dân gian gọi chung các công trình ở đây bằng tên gọi là giếng đi kèm với một tên riêng cụ thể như giếng Tép, giếng Kình, giếng ông, giếng Bà... Các công trình được gọi là giếng ở đây không mang hình ảnh những chiếc giếng thường thấy ở những làng , xã nông nghiệp ở đồng bằng , mà người xưa đã biết tận dụng những mạch nước ngầm từ triền đồi ở những độ dốc khác nhau và sắp xếp việc hứng nước , lắng nước , dẫn nước , chứa nước , tiêu nước ...theo ý đồ của mình bằng cách xếp đá , ngăn dòng, lập bể, khai mương... Theo bà M.Colani ( Pháp), các giếng ở đây được phân bố kiểu bậc thang(Systéme) theo trình tự : - Một mặt bằng được gia cố bằng cách sắp đá ở trên cùng - Cấp tiếp theo là vũng trên (basin supérieur) nhận nước từ trên cao xuốngbằng các vòi chảy được làm bằng đá hay gỗ - Nước ở vũng trên chảy vào hố chứa để con người sử dụng(basind'alimentation). - Nước từ hố chứa sẽ qua các vũng đọng thấp hơn để cho gia súc uống hoặc tắm - Cuối cùng theo triền dốc nước sẽ tạo thành những dòng chảy( ruisseau, defluant) theo các đường mương được kè đá ra tưới tiêu cho nông nghiệp, trồng trọt Ngoài ra bà cũng dùng thuật ngữ " Puits" (giếng) để chỉ những công trình đào sâu vào đất, kè đá, có hình vuông hay hình tròn để chứa nước. Bà cho rằng Puits có cấu trúc đơn giản hơn Système và phân loại theo số lượng của vòi chảy. Theo khảo sát của chúng tôi, hệ thống những công trình khai thác nước của người Gio an xưa có 3 loại , tuỳ theo mặt bằng , độ chênh nhau của sườn đồi và mội nước : Loại 1:Có cấu trúc hoàn chỉnh nhất và có thể xem đây là công trình khai thác nước ở những khu dân cư tương đối tập trung và có nguồn nứoc ngầm mạnh. Các khu vực sử dụng nước được phân định hệ thống rỏ ràng : -Bộ phận mặt bằng đựơc gia cố bằng đá xếp để bảo vệ mội nước (nguồn nước) -Bể lắng cũng được xếp đá , phần đáy bể được lót bằng nhiều vật liệu gốm sành( có lẽ đươc bổ sung sau này).Nước từ đây sẽ chảy qua hệ thống máng, chân của máng nước được tạo gồ ra như một chiếc mộng đá cố định vị trí máng rất chắc chắn Nước sẽ theo máng chảy xuống bể chứa , bể có thể rộng , hẹp tuỳ nơi và cũng được lót đáy bằng nhiều mảnh gốm, sành..., thành bể được gè đá mồ côi. Độ sâu của bể chứa khoãng 30 đến 50 cm, dùng để lấy nước uống (vòi) và tắm giặt Vùng dành cho gia súc có thể là nằm tiếp nối bể chứa , hoặc độc lập... Cuối cùng là hệ thống các mương dẩn nước được kè đá tưới tiêu cho nông nghiệp Loại 2: Giếng có kết cấu đơn giản hơn , nhưng nguyên tắc căn bản vẫn mang dạng cấu trúc gồm phần tầng đá gia cố,bể lắng và tràn vào hố chứa (không thông qua máng dẫn nước). Loại 3: Việc khai thác nước được con người đào xuống đất, và đặt nổi lên những khối đá được chế tác thành hình trụ rỗng . đây là kỹ thuật Khai thác nước dựa trên nguyên tắc bình thông nhau: các ống đá được xếp chồng và nâng mặt nước trong lòng giếng cao hẳn lên , tạo nên một độ chênh so với mặt bằng của mương dẩn, nước sẽ theo các lổ khoét trên thành giếng để tràn ra ngoài. NHỮNG THẾ HỆ CHỦ NHÂN GIẾNG CỔ GIO AN ( Dựa theo tài liệu của Ban Quản lý Ditích & DT ) Đi tìm niên đại và xác định chính xác được chủ nhân của Giếng cổ Gio an là điều không dễ. Sự độc đáo của các công trình cấp và lấy nước của người xưa thể hiện một nền văn minh nông nghiệp và về chế tác đá ( những phiến đá lớn được chẻ , đục đẽo để làm ra những tấm đá vuông vắn kê lót để tắm giặt , những máng đá dẫn nước nặng hàng tấn được tính toán đặt một cách khéo léo và chắc chắn vào các gờ giếng , những khối đá lớn được đục rỗng lòng thành những khối hình trụ , đẹp và tinh xão để làm bi giếng...). Nhìn chung, các tác giả nghiên cứu về chủ nhân giếng cổ đã sử dụng phương pháp và tiếp cận các nguồn tư liệu minh chứng như sau: - Khảo sát , mô tả thực tế các hệ giếng. - Đối chứng và so sánh với các kỹ thuật làm thuỷ lợi của người Việt cổ, người Chàm,người Thái, các dân tộc ở Trường sơn và người Khơ me - Sử dụng các nguồn tài liệu thời phong kiến như Ô châu cận lục , Phủ biên tạp lục...và các nguồn tài liệu khác thời nhà Nguyễn - Đào khảo cổ có tính chất thám sát ở lòng bể lắng, lòng hồ chứa . - Khảo sát các di tích kế cận có liên quan Những nguồn tài liệu có khai thác hố trợ và minh chứng quan trọng nhất như văn bia, gia phả, hương phổ, địa bạ, lệ làng...đều gần như không có vì đã mất mát hết qua thời gian và chiến tranh , nên chính vì vậy mà việc xác định nguồn gốc di cư,thời điểm khai khẩn, khai canh vùng đất này gặp rất nhiều khó khăn. Hệ quả làviệc thảo luận và thống nhất về chủ nhân các hệ thóng giếng cổ trên vẫn chưa có kết quả. Ngoài các bản vẽ , khảo tả từng công trình đã được thực hiện công phu từ đầu thế kỷ XX do bà M.Colani thực hiện, sau này còn có nhiều nhà khảo cổ đã đến giếng cổ để tiếp tục nghiên cứu . Riêng công tác đào thám sát lòng giếng , từ năm 1937 M.Colani đã cho tiến hành, vào năm 1992 nhà khảo cổ học Lâm Mỹ Dung và các cộng sự đã tiếp tục ...Hiện vật thu được ở các lòng giếng chủ yếu là các mảnh gốm , sành vỡ có nhiều niên đại khác nhau "loại gốm có chất liệu hơi thô,do nung không cao lắm, là loại gốm thông dụng của người Chăm cho đến những thế kỷVIII - IX sau Công nguyên và muộn hơn nữa ..." (Lâm Mỹ Dung ) . M.Colani giả thiết về chủ nhân của Giếng cổ là ở phía biển Đông tràn vào những năm sau Công nguyên nhưng nó tỏ ra không thuyết phục trước các kết quả khảo sát của Lâm Mỹ Dung . Chúng ta có thể thấy rằng, các mạch nước ngầm trong lòng đất có từ rất lâu đời và lớp cư dân đầu tiên và trước tiên rất có thể là những cư dân thời đá mới và sơ kỳ kim khí - cách chúng ta năm , bảy ngàn năm.Trãi qua một thời kỳ dài , đây chính là dịa bàn cư trú của các dân tộc nói ngôn ngữ Môn-Khơ me. Họ có nguồn gốc Inđonesien sinh tụ ở địa vực này từ lâu đời , suốt thời kỳ người Cham pa lập Quốc trên địa bàn quận Nhật Nam thời thuộc Hán những thế kỷ đầu công nguyên. Trong suốt thời kỳ từ năm 192 cho đến 1306; khi vùng đất Do linh còn là cương vực của Vương quốc Chăm pa, bức tranh dân cư nơi đây vẫn là nơi xen cài của nhiều dân tộc có nguồn gốc khác nhau: Lớp dân Việt cổ qua hình ảnh của những di vật như Trống đồng Đông sơn, gốm...đã phát hiện ở Quảng trị , Thừa Thiên.Cư dân Sa huỳnh mà hậu duệ là người Chăm; và bên cạnh đó là lớp dân cư nói ngôn ngữ Môn -Khe me ở Tây Quảng trị- Thừa thiên như người Pa cô, Vân Kiều ...Lớp cư dân xen cài ấy là hình ảnh mà người Việt đã tiếp xúc vào thời gian đầu tiên , khi Cương vực Đại Việt mở vượt đến đây. Dương văn An trong sách "Ô Châu cận lục" vào những năm giữa thế kỷ XVI (1553) đã nhiều lần gọi dân bản địa vùng này là người Thổ Rí (đất Châu Rí). Trong tập Thi Thiên của dòng họ Bùi ở làng Câu Nhi(Quảng trị) được viết bằng chử Hán theo lối chân tự trên giấy tinh cỡ 18cm x 30cm , gốc của tài liệu này vào triều Lê Sơ năm Thuận Thiên thứ II ( Lê Thái Tổ 1428-1433) của tác giả Bùi Trành , viết theo lối văn tự sự nhằm kể lại nguồn gốc , sự tích của những người đầu tiên có công lập làng với dụng ý nhắc nhở con cháu đời sau biết đến công khó của những vị tiền bối. đề Trành vốn gốc người Thanh Hoá , hưỡng ứng chủ trương khuyến khích di dân của nhà Lê , ông đứng lên chiêu mộ người vào Ô Châu( Quảng trị) để tìm đất chiếm khẩn. Trong tài liệu này có đoạn viết " Lúc mới vào đất này, vẫn còn người Chiêm Thành, ta lấy lòng thành tín đối đãi tử tế với họ, nên người Chiêm Thành tôn kính, khâm phục. Họ thường mang thổ cẩm đến hiến ta để tỏ lòng biết ơn. Ta đem thổ cẩm đó nhờ quan trên dâng Vua, được ban khen và cho tên Cẩm đế Lê Quan "... "Ở đây người Chiêm đông, người mình ít , sợ sau này sinh con cháu người Sở, kẻ Tề ..." ...V.v... Trong các địa bàn dân tộc Miền Tây Quảng trị , có một hệ thông chuyện kể gồm 18 dạng chuyện liên quan đến việc lý giải nguồn gốc của dân tộc mình . Với rất nhiều tài liệu đã thu thập khác , bước đầu cho chúng ta thấy bức tranh dân cư ở vùng Quảng trị trong lịch sử là một sự xen cài bởi nhiều lớp dân cư có nguồn gốc sinh tụ không giống nhau. Trở lại với cư dân vùng Giếng Cổ, sự xen cài cư trú của người Chăm và người nói ngôn ngữ Môn-Khơ me( trước 1306) ở vùng đất này ít nhiều đã lưu lại dấu ấn. Với những khảo sát thực tế, chúng tôi cho rằng khả năng người Chăm trước năm 1306 đã khai thác các hệ thống giếng nước ở đây để phục vụ ruộng đồng trong điều kiện mật độ dân cư đang thua thớt là rất ít. Tuy nhiên sự xuất hiện của người Việt sau năm 1306 vẫn không thể không tạo ra những xáo trộn, thậm chí va chạm ở những tộc người, xu thế ấy diển ra tuy chậm nhưng đó là sự hoà tan hoặc dãn ra của người Chăm rời bỏ vùng cư trú màu mỡ ở đồng bằng để kiến tạo nên những vùng ruộng đồng ở các thung lũng và triền đồi ở Tây Do linhvà các hệ thống nươc từ đó mới bắt đầu được khai thác mang chức năng thuỷ lợi chứ không còn chỉ là chức năng sinh hoạt trực tiếp như những người Vân Kiều, Pa cô đã từng sử dụngtrước đó. Việc làm chủ và khai thác các nguồn thuỷ lợi này diển ra trong một tình thế mà người Chăm không còn là nhân dân của một Vương quốc đang tồn tại ở đây , nên chính vì vậy mà những di tích Chăm như đền , tháp ,các kiến trúc hoặc những tác phẩm Gốm nung...không có điều kiện thực hiện hay xây dựng, và nếu như thế sự vắng bóng các di tích Chăm ở đây là điều có thể giải thích được. Sau biến cố Nguyễn Hoàng và Tướng nhà Mạclà Lập Bạo , năm 1572, chúa Tiên đã đưa số tù binh này định cư ở xứ Cồn Tiên và đặt làm 36 phường . Sự thành lập 36 phường nêu trên sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là sự hoà nhập bắt buộc của người Chăm ... Từ đó đến nay , những nét biến đổi ở hệ thống di tích khai thác nước ở đây không nhiều và vấn đề chủ nhân của các công trình khai thác nước dùng đá xếp ở Do an sẽ bao gồm nhiều lớp cư dân thừa kế nhau từ thời cổ đại đến trung, cận , hiện đại mà chúng ta có thể hình dung . Giếng Đìa Toàn cảnh Giếng Pheo Bài viết được lấy từ Blog Trần Bình
Hay quá anh Vượng ơi, hình như có anh trong ảnh giơ tay hứng nước đúng ko??? Giếng còn 2 cái giếng chính là Giếng Ông Giếng Bà, nước luôn luôn trong và mát lạnh, dù có khuấy cho đục mấy nữa thì để 1 chút sau lại trong veo... nước mát lạnh là ko nói quá luôn Xung quanh còn trồng nhiều rau dền thì phải, đem bánh ướt lên đó xin ít rau chắm nước mắm thì thôi rồi Hồi nhỏ lt hay đạp xe lên đó chơi với lớp lắm. QTOL ta nên tổ chức thăm quan thôi.
Ừh trong đó có hình của anh hôm đi cùng đoàn vnweblog thăm giếng Cổ Gio An. Có thể nói Gio An hiện có một số "giếng cổ" Đang được xem xét để đưa vào di tích lịch sử. Và hầu như các giếng điều được gắn liền với các chiến công lịch sử như Giếng Đìa, Giếng Trạng. Còn Còn tấm hình này mình được chụp ở Giếng Trạng. cùng với anh Minh ( ở NHNN&PTTN QT). Đặc biệt xung quanh các giếng này đề được trồng rau Liệt ( Râu trên đá bài viết của một bạn nào đó đã đăng). Mình hy vọng một ngày nào đó được dẫn mọi người đến thăm các Giếng Cổ ở Gio An.