Gia đình ĐC Lê Duẩn ở Bích La Đông (1946-1953)

Thảo luận trong 'Triệu Phong' bắt đầu bởi NTT, 14/7/10.

  1. NTT Thành viên

    Vào khoảng năm 1916, gia đình đồng chí Lê Duẩn rời làng Bích La Đông nơi đồng chí được sinh ra để đến cư ngụ tại Chợ Sãi, thuộc làng Hậu Kiên. Theo ý của cụ Lê Văn Hiệp, thân sinh ra đồng chí Lê Duẩn, Hậu Kiên là nơi "Nhất cận thị nhì cận giang" vừa có chợ Sải lại vừa có sông Thạch Hãn để làm nghề buôn bán và gần trường học.

    Cụ ông và cụ bà thân sinh đồng chí Lê Duẩn sống bằng nghề làm mộc, nấu và bán cao dán, một loại thuốc Nam để chữa trị các bệnh mụn nhọt và gia đình còn làm nghề hàng xáo.

    Sau khi đồng chí lập gia đình riêng thì nghề làm xáo của cụ bà mai một dần, thay vào đó là một gian hàng xén nho nhỏ của bà Lê Duẩn đặt tại nhà, cũng tức là đặt tại chợ vì chợ sát nhà. Cái nghề làm thuốc cao dán của cụ ông cực kỳ uy tín. Cả làng tôi và các làng lân cận hễ ai có mụt nhọt, đau đầu, đau bụng, đau lưng, thậm chí là cả đau mắt đều đến cụ để mua. Chỉ cần nói bệnh là có thuốc cao đem về dán. Thuốc nước sến sệt, màu đen, đựng trong các vỏ ngao, vỏ hến hoặc bệt vào các tờ giấy bản. Thuốc nấu bằng cây gì, lá gì tôi không biết, chỉ biết rằng trong gia đình tôi: cha mẹ, anh em chúng tôi ai có mụn nhọt, đều đến cụ mua thuốc và lành bệnh. Ấn tượng nhất với tôi vào thời kỳ này là thuốc cao dán của cụ.

    Vào đầu năm 1946, tức là sau gần 30 năm ở chợ Sãi, khi chiến sự trên địa bàn Quảng Trị bắt đầu ác liệt, gia đình đồng chí Lê Duẩn trở về quê hương bản quán là làng Bích La Đông để sinh sống.

    Dọn về làng cũ trong gia đình có ông cụ, bà Lê Duẩn và ba người con gái có tên là Cừ, Sửu (sau đổi tên Hồng) và Muội.

    Ngôi nhà được dựng tại xóm Cát còn có tên gọi rất hay là xóm Đông Bội cũng của làng Bích La Đông, phía nam sông, gần cầu Ba Bến, gần làng An Hưng. Nhà làm bằng tre, lợp tranh, vách đất, hai mái. Nhà trên khoảng 24m2 có 3 gian. Một gian ông cụ nằm và bán thuốc cao dán. Gian giữa thờ tự. Gian bên là của bà và các chị sinh hoạt. Nhà tuy nhỏ nhưng gọn gàng, sạch sẽ, thoáng mát. Nhà dưới (quê tôi gọi là lều) bề ngang cỡ 3m, chiều dài cỡ 6m cũng làm bằng tranh tre, dùng để bàn ăn, bếp nấu và quầy hàng xén của bà. Quầy tạp hóa của bà vẫn bán những thứ như ở chợ Sải: mấy liếp cúc bấm, kim băng, kim may, trục chỉ, gương lược, trái bồ kết gội đầu, ve dầu Nhị Thiên Đường, bao diêm... nay thêm muối ớt, nước mắm, dầu hỏa, đá lửa, đèn Hoa Kỳ, tim đèn, nến hương giấy vàng bạc, hàng mã các loại, tranh giấy dân gian in vào giấy bản rẻ tiền dùng cho việc cúng, giỗ hoặc ngày tết, ngày rằm, ngày cúng đất...

    Nói quầy tạp hóa là hơi ngoa ngôn, bởi những thứ ấy bà vẫn gánh bộ về chợ Bích La Đông, cách nhà một cây số để ngồi bán, dưới một cái lán che sơ sài. Sáng gánh đi, chiều gánh về, tối bán tại nhà...

    Bà Lê Duẩn, cha tôi gọi bằng chị, con ông bác thúc bá. Vì vậy chúng tôi gọi bà bằng o (cô) và các chị trong nhà là chị. Bởi có chút quan hệ họ hàng ấy, nên vào tháng 3/1936 sau khi mãn hạn tù ở Côn Đảo lần thứ nhất đồng chí Lê Duẩn có về làng thăm họ hàng, chú bác, anh em. Nhân thể cha tôi có mời ông đến dự ngày đầy tháng của tôi. Nghe lời cha tôi nói lại bữa ấy ông vui lắm, nói rất nhiều về đời sống của dân trong làng, ông mong bà con, thôn xóm giúp đỡ nhau trong sản xuất, trong hoạn nạn. Ông kể chuyện tù Côn Đảo khổ lắm, bọn cai ngục cho tù ăn cơm bằng gạo mốc và thức ăn là cá khô đã mục, có giòi bọ trộn cát và sỏi nhỏ làm cho tù đau dạ dày mà chết...

    Riêng tôi thực sự được biết đến ông là mãi đến ngày 2/2/1973 khi ông vào thăm Vĩnh Linh và thăm bà con quê hương sơ tán. Gia đình o (vợ đồng chí Lê Duẩn) còn có người con trai nữa tên là Lê Hãn nhưng tôi chưa gặp bao giờ.

    Nhà tôi ở cạnh nhà o, cách nhau chưa đầy 100m, rất nhiều lần tôi sang nhà o để mua những thứ hàng mà mẹ tôi sai bảo.

    Những năm tháng ấy quê tôi giặc Pháp càn quét và ruồng bố liên miên. Chúng nó đốt nhà, cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ. Có ngày chỉ trong một tiếng đồng hồ sau khi giặc Pháp càn vào đã có đến 49 người bị giết. Có lẽ đó cũng là ngày đen tối nhất của làng tôi qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

    Những lúc giặc Pháp càn vào làng thông thường chỉ những nông dân khỏe mạnh nam cũng như nữ và một số thanh niên không có trong lực lượng du kích bỏ chạy qua làng khác, còn người già cả, người ốm đau, hoặc trẻ em vẫn ở tại nhà, trốn tránh loanh quanh. Ông cụ, o và các chị vẫn ở lại như mọi người bình thường khác. Chỉ có chị Cừ, chị lớn nhất chạy với bà con làng xóm. Tôi không biết đích xác tuổi tác của chị, nhưng xem ra vào những năm 1946, 1947 chị Cừ cỡ 13, 14, chị Hồng cỡ 10, 11 còn chị Muội thì 5, 6 tuổi gì đó.

    Đầu năm 1953, cụ ông, o và các chị đã rời làng đi nơi khác. Trước khi rời làng để đi hẳn cho đến tận bây giờ, tôi còn nhớ ông cụ và gia đình đã bỏ ngôi nhà bên xóm Cát (xóm Đông Bội) mà sang bờ bắc sông, tạm ở nhờ nhà một người anh em với bà tại làng chừng một, hai tháng... Đó cũng là năm giặc Pháp đem quân về đóng đồn Bích La- Vân Hòa. Sau này tôi được biết để đảm bảo sự an toàn cho gia đình đồng chí Lê Duẩn mà bộ đội ta đã tổ chức đưa gia đình ra vùng tự do Thanh- Nghệ- Tĩnh...

    Nhắc đến thời kỳ khó khăn này của gia đình đồng chí Lê Duẩn nhân dân trong làng tôi cũng như nhân dân vùng phụ cận đều tỏ ra rất cảm phục sự chịu thương, chịu khó cùng hòa đồng với công việc lao động, làm ăn sinh sống của tất cả các thành viên trong gia đình. Gia đình đã sống một cách bình thản, lặng lẽ trong cộng đồng dân cư.

    Cuối năm 1953 tôi có đến thăm gia đình bà tại Cổng Chốt, gần nhà thờ Cầu Rầm thành phố Vinh. Tại đây tôi chỉ thấy có cụ ông, bà và chị Cừ, còn hai chị Hồng và Muội đã đi học xa...

    Đó cũng là lần thăm cuối cùng của tôi với gia đình. Những năm sau này khi tôi công tác ở Hà Nội, Sơn Tây hay Thanh Hóa, dù ở rất gần nhà o nhưng tôi chưa một lần đến, bởi tính tôi hay e ngại...

    Trong xóm tôi ở, tên đồng chí Lê Duẩn được gọi bằng Lê Văn Duận, hoặc ông Thông Duận. Thông là chức vụ nghề nghiệp vì đã có lúc ông làm thư ký kho vật tư ga xe lửa Đà Nẵng. Làng tôi có đến 4 họ Lê, bao gồm: Lê Mậu (hoặc Lê Hữu), Lê Cảnh (hoặc Lê Công), Lê Văn và Lê Bá. Ông là người họ Lê Văn. Còn chữ Duận có thể do tập quán quê tôi nói dấu hỏi thành dấu nặng và cũng có trường hợp năm nhuận thì nói năm duận, cái nhà thì nói cái dà...

    Vui nhất là chuyện này: Người trong xóm to nhỏ với nhau rằng: Người ký tên Bộ trưởng Bộ tài chính trên tờ bạc Tài chính đầu tiên của ta là ông Thông Duận, ông đổi tên Lê Văn Duận thành Lê Văn Hiến. Với cái đà suy diễn ấy có mấy bác còn quả quyết độc lập rồi, xóm mình xin ông ít tiền để tiêu pha.

    Sau này có thời gian công tác tại Văn phòng Tỉnh ủy tôi đã hơn một lần được phục vụ đồng chí Lê Duẩn khi ông về thăm Bình Trị Thiên. Tháng 3/1985 Văn phòng Tỉnh ủy Bình Trị Thiên phân công tôi đón tiếp, phục vụ, tháp tùng bà Lê Duẩn về thăm nhân 10 năm ngày quê hương giải phóng hoàn toàn. Bà đi cùng chị Cừ. Bà khỏe mạnh, đi lại dễ dàng, nói năng lưu loát. Lần này bà đi thăm được nhiều nơi: Bích La Đông, Hậu Kiên, Vệ Nghĩa...

    Sau ngày tỉnh Quảng Trị được lập lại, tại hội trường Sở Điện lực có cuộc hội thảo về phát triển kinh tế- xã hội. Tại đây tôi gặp lại chị Lê Thị Muội sau gần 45 năm xa cách. Bây giờ chị đã là tiến sĩ khoa học sinh vật. Kết thúc hội thảo tôi đưa chị về thăm lại nơi chị đã ở hồi kháng chiến chống thực dân Pháp. Mảnh đất còn đó, nhưng nay là nhà họp của đội 7, HTX nông nghiệp Bích La Đông. Chị nhìn hồi lâu, không nói gì và bảo tôi quay trở lại Đông Hà. Có lẽ chị chỉ ở vài năm, lúc còn quá nhỏ nên chưa có kỷ niệm gì sâu sắc chăng?


    Theo www.dostquangtri.gov.vn
    ThaiLoppro_106 thích bài này.

Chia sẻ trang này