Chửi mắng và lời dạy của Đức Phật. Một lần, Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, Các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh , họ tức giận, chặn Phật lại hỏi: - Cù-đàm có điếc không? - Ta không điếc. - Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi? - Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ không nhận thì quà đấy về tay ai? - Quà ấy về tôi chứ ai. - Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi. * Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta , những lời nói bóng, nói gió ở đâu đâu cũng lắng tai nghe, để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người, đừng quan tâm. như thế mới được an vui. Trong kinh, Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay mặt người phun. Thế nên có thọ nhận mới dính mắc đau khổ, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau quí vị có nghe ai nói gì về mình, dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui. Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết hóa giải, không thọ nhận, đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lí do bất như ý bên ngoài. Đó là tu chưa tiến. Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai , thứ ba, thì tìm phăng cho ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ, không phải người trí.
Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai , thứ ba, thì tìm phăng cho ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ, không phải người trí.
Học Làm Người - Thưa Thầy ! Con đã học xong bằng tiến sĩ. Đây là bằng cấp cao nhất của người đời. Vậy con xin hỏi Thầy con có cần học thêm gì nữa không ? Người Thầy đăm chiêu hồi lâu rồi tán thán công sức của người học trò: - Bằng cấp con có được thì quá cao rồi nhưng con còn phải học nữa. Bài học này, tấm bằng này cao hơn nhưng e rằng khi con học xong thì không ai cấp bằng cho con. Đó là con phải HỌC LÀM NGƯỜI . 1. HỌC NHẬN LỖI : Con người ai cũng có lỗi. Nếu sống làm người chưa có lỗi thì không phải là người. Người làm nhiều thì có lỗi nhiều, không làm thì không lỗi. Tuy nhiên phương pháp nhận lỗi rất cần thiết đối với chúng ta. Đối tượng nhận lỗi có thể là cha mẹ, anh em, bạn bè, đồng nghiệp thậm chí là con cái của mình nữa. Trong khi nhận lỗi, tâm ngã mạn sẽ giảm thiểu. Người chấp nhận cho mình nhận lỗi thì mình mới tiến hóa, nếu không thì mình sẽ thụt lùi khó mà tiến bộ được. Trong Phật giáo dạy phương pháp nhận lỗi là Sám hối. Đối với người xuất gia thì có ngày sám hối của người xuất gia. Ví dụ như Sa di sám hối bằng cách xin giới với vị Tỳ Kheo. Còn Tỳ Kheo thì vào ngày mười lăm, ba mươi hằng tháng phải tham dự lễ phát lồ để sám hối với nhau. Riêng cư sĩ tại gia có bài ‘’Cúi đầu lạy trước Phật đài‘’. Đây là bài sám hối duy nhất ở Việt Nam mới có, các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Miến điện, Lào v.v… không có bài sám hối này . Nội dung bài ‘’ Cúi đầu lạy trước Phật đài ‘’ dành cho cư sĩ tại gia nhắc lại năm giới cấm được viết theo thể thơ lục bát, có vần có điệu làm người nghe cảm động, gần gũi tình cảm con người , giúp con người ăn năn, sám hối. Vì vậy trong đạo, có lỗi thì chúng ta sám hối với tâm chân thành, tha thiết. Hoặc trong đời sống hằng ngày, làm lỗi thì xin lỗi. Biết nói lời xin lỗi giúp cho tâm thanh thản, nhẹ nhàng . Các nước Phương Tây giáo dục con người rất kỹ. Ví dụ lần đầu học anh ngữ, ai cũng biết câu chào: Hello là câu đầu tiên học trong giao tiếp. Sau đó câu thứ hai học chào : Good morning! How are you ? Đến câu thứ ba là câu học cách xin lỗi: I am sorry ! Như vậy chúng ta thấy mỗi đất nước có văn hóa, phong tục tập quán khác nhau nhưng lầm lỗi phải xin lỗi …thì ở đâu cũng thấy đó là điều cần phải làm. Một ví dụ rất nhỏ như vào nhà người lạ, nhà họ có lệ là không mang dép trong nhà, nhưng do không biết nên mình đi dép vào nhà họ. Vậy mình phải xin lỗi họ là tất nhiên rồi . Nhận lỗi là bài học đầu tiên cần phải học. Thời đức Phật, Có một vị sa di tuổi còn nhỏ không biết hết những việc làm của người lớn. Một hôm Ngài Xá Lợi Phất trong lúc mặc y áo đã quơ tay trước mặt vị sa di. Vị sa di bèn méc với đức Phật rằng: - Thưa Phật ! Ngài Xá Lợi Phất đánh vô mặt con . Phật kêu Ngài Xá Lợi Phất vào hỏi. Ngài Xá Lợi Phất liền xin lỗi vị sa di kia, mong con thông cảm vì ngài không hề cố ý làm người khác phiền não như vậy . Sau đó Phật mới giải thích cho vị sa di kia biết hạnh của bậc thánh không có tâm ích kỷ, tâm đố kỵ nên đừng nghĩ xấu trưởng lão Xá lợi Phất như vậy, nhất là đối với các bậc trưởng lão. Đồng thời Phật khen ngợi Ngài Xá Lợi Phất – là một vị trưởng lão mà không ngại xin lỗi một vị sa di mới tập tu được hai, ba ngày . 2. HỌC NHU HÒA: Phật giáo dạy con người phải biết dùng ái ngữ tức là lời nói nhu hòa. Đây là bài học rất cần thiết cho chúng ta . Ai cũng biết răng cứng, lưỡi mềm. Nhưng con người trước khi chết thì răng rụng nhưng lưỡi vẫn còn. Điều đó cho thấy không phải cái gì cứng rắn cũng tồn tại mãi . Trong cuộc sống, lời nói nhu hòa, thái độ nhu hòa giúp con người dễ thành công và tồn tại, sống ở đâu cũng được an vui, hạnh phúc. Người xưa có câu: ‘’Chim khôn hót tiếng rảnh rang Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe ‘’ Nhu hòa là chất liệu êm ái, trong lành trong cuộc sống, giúp cho con người dễ cảm thông, dễ gần và đi đến thân thương nhau. Nếu phải sống chung với một người ăn nói hằn học, cáu gắt , thái độ hung dữ thì ta sẽ đau khổ, mệt mỏi. Do vậy hãy học hạnh nhu hòa để bớt đi sự tức giận. Người thường hay tức giận, hay trách móc sẽ ít có khả năng khiêm tốn, từ ái, nhu hòa. Muốn học được hạnh nhu hòa phải sống gần người hiền lành và tập buông xả. Nếu ai có tánh hung hăng, nóng nảy mà sống chung với người cũng hung hăng, nóng nảy thì sẽ thành Hỏa diệm Sơn lúc nào lửa cũng phun trào, đốt cháy kẻ khác. Muốn thực tập hạnh nhu hòa hãy nghĩ rằng: ta sắp chết rồi, động đất, sóng thần, phóng xạ xảy ra kia rồi …. Không còn thời gian nữa cho những trách móc, giận hờn, hung hăng, độc ác với nhau ….bởi ngay cả mạng sống ta còn không giữ nổi kia mà. Ngày xưa có một vị sa di nọ giận Thầy của mình nên muốn bỏ chùa đi về quê không tu nữa. Tôi nói: ‘’Thôi đừng giận Thầy của chú làm chi . Ông ta bệnh nặng và sắp chết rồi, chấp làm chi người sắp đi xa như vậy’’. Nếu ai cũng biết nghĩ được như thế có lẽ tâm lúc nào cũng an vui, đối đãi với mọi người nhu hòa, khiêm tốn. Chỉ khi ta thấy mình quan trọng nhất lúc đó ta tự ái cao nhất, ta khó chấp nhận việc người khác làm lỗi, ta khó tha thứ lúc đó ta có thái độ cứng rắn, cơn giận bùng phát như lửa nóng đốt cháy tất cả, không chừa một ai, thậm chí không tha một ai dù đó là cha mẹ, thầy tổ, anh em, con cái …. Có câu ca rằng : “Chưa đánh được người thì mặt xanh, mày tía Đánh được người rồi thì hồn vía lên mây” Trong cơn giận lời nói không thể nhu hòa được. Do vậy muốn luôn có lời nhu hòa ta hãy luôn nhớ nghĩ đến người mà ta kính trọng nhất để lúc nào ta cũng có thể nói lời dịu ngọt, đem lợi ích, vui vẻ cho người khác. 3. HỌC NHẪN NHỤC Trong tiếng Hán, chữ nhẫn được kết hợp là bộ đao ở trên và bộ tâm ở dưới. Hình ảnh đao đè lên tim có thể làm tim chảy máu nhưng con người học đức tính nhẫn vẫn có thể chịu đựng để vượt qua. Tiếng pali, nhẫn có nghĩa là nhịn nhục. Nhịn một chút gió yên sóng lặng. Lùi một bước cho biển rộng trời cao . Người biết nhẫn nhịn sống ở đâu cũng được yên vui, có nhiều bạn bè, có giấc ngũ ngon, có khuôn mặt tươi, có làn da đẹp. Con người có khuynh hướng tìm bóng mát trú thân. Cũng vậy, người ta bao giờ cũng muốn làm bạn với người lịch sự, hiền lành, khôn ngoan , từ ái . Tiếp xúc với những người như vậy ta luôn được mát mẻ, an lạc. Còn nói chuyện với những kẻ mở miệng ra là than thở, giận dữ thì ai cũng ngại không muốn gần . “Vợ tôi nó dữ như chằng Hèn chi hồi trước chẳng thằng nào thương Mới quen thấy cũng bình thường Bây giờ lỡ cưới hết đàng rút lui’’ Bài thơ trào phúng này cho thấy nhân vật chồng đang học bài nhẫn nại, học ‘’gồng mình‘’ chịu đựng một cuộc sống có bà vợ hung dữ như …. “Chằng’’. Trong thực tế có nhiều câu chuyện cho thấy bài học nhẫn nhục vô cùng quan trọng . Tôi có dịp đi Hoa Kỳ thăm một vị sư. Trong chùa vị Sư có nhiều việc này việc kia xảy ra bất như ý mà nếu không có ‘’công phu thâm hậu ‘’ thì vị sư kia khó lòng trụ nổi. Một ngày nọ sư đi thăm một ngôi chùa Miến Điện trên đất Mỹ. Tại đây câu chuyện sư trụ trì mới xây chùa xong bị một người đệ tử mắc bệnh tâm thần lấy súng bắn chết làm cho Sư thấy những gì xảy ra trong chùa của sư thật chẳng thấm vào đâu so với tai họa chết người ở ngôi chùa Miến. Sư đã nói với tôi: những chuyện thị phi, những xì căng đan mà tôi chịu đựng có là gì đâu so với những điều khủng khiếp ở nhiều nơi khác. Do vậy, nhẫn nhịn hay nhẫn nhục là bài học bao giờ cũng có giá trị ngàn vàng trong cuộc sống. Cũng như Phật Thích Ca, cuộc đời Ngài là bài học nhẫn nại không ngừng. Thời đó, nhiều người tôn vinh Phật tột đỉnh nhưng cũng có nhiều người muốn hạ bệ Ngài xuống tận cùng, thêu dệt vô vàn chuyện thị phi . Tâm lý con người ta luôn ở hai mặt : hơn người thì bị đố kỵ, ganh ghét, gièm pha; thua người thì bị khinh khi, rẻ rung. Cho nên trong cuộc sống nếu ta ăn cực ở khổ thì có thể chịu được nhưng không ai muốn chấp nhận thái độ khinh khi của người khác đối với mình, ai nói một câu nghe xóc óc là nổi khùng liền. Người biết tu phải tập hạnh nhịn nhục mới vượt qua những thử thách, sóng gió . Người ta thường nói sức mạnh của trẻ con là tiếng khóc; sức mạnh của phụ nữ là sắc đẹp; sức mạnh của người nam là tài năng; sức mạnh của người tu là nhịn nhục. Người tu không biết nhịn nhục sẽ bị thất bại đường tu. Học nhẫn nhục là một pháp tu vậy. 4. HỌC THẤU HIỂU Con người thường có tri giác sai lầm. Tâm sợ ma sẽ tưởng thấy ma. Đi đêm thấy sợi dây tưởng là con rắn. Khi mất tiền tâm nghi nổi lên thấy ai cũng giống kẻ chôm tiền của mình. Do vậy tri giác có khi sai lầm nên đừng tin vào tri giác. Muốn đừng bị sai lầm hãy học thấu hiểu, nhìn sâu vào mọi sự vật hiện tượng ở nhiều góc cạnh của nó. Khi học thấu hiểu con người trở nên bao dung, khiêm tốn nhiều hơn. Chúng tôi có dịp đi Cần Thơ và ghé chùa Tứ Phương Tăng. Muốn tới chùa này chúng tôi phải đi qua chiếc phà nhỏ rồi bắt xe ôm đi thêm một quảng đường nữa. Ngồi xe ôm rất cực vì xe ôm chở ba người cộng thêm mùi mồ hôi dưới trời nắng gắt thì nói thiệt không cách chi chịu nổi. Nhưng vẫn phải ‘’ôm‘’ và vẫn phải trả tiền đàng hoàng, tử tế. Khi trở về chúng tôi ngồi chờ ở bến đò có người đàn bà bán chuối nướng . Ngôi chùa ở gần bến đò này đang chuẩn bị xây dựng lại. Khi chúng tôi đến bến đò thì thấy có một sư cô đang ngồi chờ ở đây . Nhìn người đàn bà bán chuối cặm cụi nướng những trái chuối xiêm chín bọc nếp thơm lừng chúng tôi rất ái ngại. Bà ta ốm yếu như một tàu lá héo và đen nhẻm dưới cái nắng như có lữa. Chuối nướng bán chỉ 500 đồng một trái . Qúa rẻ !!!! Chúng tôi mua hết tất cả chỗ chuối nướng kia gói thành 3 bọc . Một bọc tặng cho anh Nguyễn Tường Bách. Một bọc tặng cho ông thân sư Pháp Tính, Còn một bọc bỏ vô đảy của tôi. Khi mua chuối thì sư cô dành trả tiền nhưng tôi không cho trả. Tôi nói vui : ‘’Sư trẻ hơn chắc là sư có tiền nhiều hơn sư cô, hãy để sư trả tiền’’. Nhiều người thấy sư mua chuối nướng chắc có lẽ cũng có kẻ nghĩ rằng sư thọ giới không ăn sái giờ sao buổi chiều rồi còn mua chuối mần chi vậy cà? Hãy biết rằng: Đường tu bố thí đứng đầu. Phải gieo năng lượng từ bi cho người đàn bà nghèo khó bán chuối trước. Do vậy, mua chuối không phải vì thích ăn chuối mà vì thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh người dân quê vất vả, muốn cho bà ta có một buổi chiều về sớm với gia đình chồng con, cúng dường cho bà ta niềm vui bán hàng may mắn. Và hơn thế nữa, khi dự án xây chùa tại nơi có bến đò này thành tựu thì khách thập phương tìm đến chùa có thể sẽ gặp người đàn bà bán chuối trước nhất. Bà ta sẽ chỉ đường đi nước bước hoặc sẽ giới thiệu chùa với khách thập phương. Trao cho người kia một chút năng lượng từ bi như vậy cũng là để sau này năng lượng từ bi ấy sẽ tỏa rộng ra với nhiều người khác. Phật Pháp vô ngôn là vậy. 5. HỌC BUÔNG BỎ Con người thường cố chấp, dính mắc, nhất là khi có một chút quyền hành thì cố chấp, dính mắc càng nhiều hơn. Đời người như một cái va ly. Khi cần thì bỏ đồ vào va ly xách đi. Nhưng khi không có sức khỏe thì cũng bỏ va ly lại. Phải biết buông bỏ nếu không chẳng có gì đủ sức chứa. Máy móc như cái USB sức chứa cũng có giới hạn, tự động báo đầy không thể thêm thông tin vào nữa. Con người cũng vậy, phải buông xả bớt vì không thể chứa hết . Ví như khi qua sông rồi thì hãy bỏ con thuyền xuống, mang theo làm chi vô ích. Người tu khôn ngoan phải biết nắm cái gì, bỏ cái gì. Cái gì cũng muốn nắm, muốn giữ hết thì nguy hiểm lắm. Biết đời vô thường thì hãy làm những gì phúc đức để mang theo kiếp sau, còn những cái khác chỉ là hư huyễn. Ai cũng thấy động đất, sóng thần, phóng xạ hạt nhân… trong chốc lát tài sản, người thân trở thành tro bụi, bị sóng cuốn trôi không còn dấu vết. Người tu cần chiêm nghiệm không phải để chán đời mà để biết cái gì là giã huyễn. Phúc đức chính là tư trang trên con đường luân hồi vạn dặm. 6. HỌC CẢM ĐỘNG Thấy người khác thành đạt ta phải hoan hỷ, thấy họ có chuyện thương tâm ta phải biết rung cảm, chia sẻ. Nếu không thì sẽ là người độc ác, thờ ơ, dửng dưng trước những hoàn cảnh của người. Người tu phải có tâm bi. Học cảm động là tập phát triển tâm từ bi. Trước những chuyện thương tâm của người dân Nhật Bản bị thiên tai, ai cũng xúc động và quyên góp giúp đỡ họ. Đó là bài học cảm động trong thực tế gần đây nhất. Tập rung cảm là tập nhìn sâu vào vấn đề, nhìn nhiều góc cạnh, hiểu thấu đáo luân hồi nghiệp báo. Có như vậy khi nhìn một người trẻ tuổi, một người khùng điên, một người nghèo khổ ….. ta mới không dám khinh suất mà vẫn đem lòng kính trọng. Khi thể hiện bài học cảm thương đối với mọi người, mọi vật ….. đó chính là hình thái của tâm từ bi . 7. HỌC SINH TỒN Muốn bảo vệ dòng tộc của mình, sức khỏe của mình … con người cần phải có sức khỏe để sinh tồn. Có người tu rồi không thèm soi gương. Người tu cần chăm sóc cho sắc pháp, ăn uống, nghĩ ngợi hợp lý để giữ gìn sức khỏe. Cỏ cây cũng cần có nghệ thuật chăm sóc như tưới nước, bón phân, bắt sâu, tỉa lá thì huống gì là con người. Người tu cần bảo vệ sắc pháp để có năng lực, sức khỏe mà tu tốt. Cũng như cha mẹ phải quan tâm đến con cháu. Đôi khi chỉ một lời nói chia sẻ đúng lúc giúp cho con cháu có chất liệu để sống an vui, thanh thản. Người tu phải có ý chí cao. Tu phải kiên trì vượt qua sự chán nản, vọng động, phải tự mình chiến thắng bản thân mình. Có câu: ATHITTHANA PARAMITA nghĩa là QUYẾT ĐỊNH ĐỘ, là QUYẾT ĐỊNH CAO, có chí hướng lớn. Người tu phải có năng lực chịu đựng vượt bậc. Muốn vậy phải HỌC LÀM NGƯỜI với những bài học như biết nhận lỗi, nhu hòa, thấu hiểu, buông bỏ, cảm thương và sinh tồn để làm đạo cho tốt, làm đời cho tốt .’’ Tác giả: Hoa Cúc Nguồn tin: Quang Duyên (ghi chép)
Quyền lợi của thú vật theo quan điểm Đạo Phật Con người phải có nhân quyền thì đã đành rồi, vậy thú vật có “thú quyền” không? Câu hỏi này được đặt ra trên trang nhà On Faith của tờ Washington Post và đã được hưởng ứng tranh cãi bàn luận rất nhiều bởi hầu hết mọi giới nhưng tuyệt nhiên không có câu trả lời của một Phật tử nào cả. Tôi bắt đầu suy nghĩ xem mình nên trả lời câu hỏi này ra sao. Theo quan điểm Phật giáo, và cái nhận xét của tôi thì hình như cái phần phức tạp ở câu hỏi này không là chữ “thú vật” mà chính là chữ “quyền.” Danh từ “rights” (luôn mang số nhiều để chỉ cho quyền trong quyền lợi, và thường được hiểu ngầm là nhân quyền - quyền lợi của con người) được hình thành nơi các quốc gia tiến bộ phương tây từ nhiều thế kỷ qua, và được đề xướng từ khoảng thế kỷ thứ 17 bởi những nhà luân lý học như ông John Locke. Nhưng 2500 trước thời mà đức Thế Tôn còn tại thế thì quan niệm quyền lợi này đâu đã có mặt trên thế gian. Khi nói về nhân quyền, người ta nghĩ ngay đến những điều kiện và giá trị mà bất cứ ai đã sinh ra làm một con người đều phải có. Nhà luân lý học Locke viết về quyền sinh sống, quyền tự do, quyền thâu nhập chất giữ của cải riêng tư, v.v… Những người chủ bút có trách nhiệm của trang web On Faith nhận thấy nhiều cố gắng được thực hiện để cứu vãn các loài sinh vật hải sản sống dưới nước và ven biển sau khi lượng dầu hỏa khổng lồ lan tràn khắp vùng vịnh Mễ-tây-cơ. Họ đã đưa ra những câu hỏi để bàn luận: “Thú vật có quyền lợi không? Chúng có linh hồn không? Và theo tín ngưỡng của bạn, bạn nghĩ sao về ý thức và tâm trí của thú vật? Chúng có biết đau khổ khi bị cưỡng bức, sát hại, ngược đãi, hành hạ không?” Hầu hết tất cả những câu trả lời trên On Faith đều do những người theo tôn giáo truyền thừa từ ông Abraham, như Cơ-đốc giáo, Hồi giáo, hay Do-thái giáo. Mọi người đều cho rằng phải có lòng nhân đạo đối với thú hoang hay gia súc, nhưng phần đông họ đều đồng ý loài người phải có mức độ tâm linh thiêng liêng vượt trên loài vật – hay chắc tôi phải nói là những loài không phải là người. Vì họ cho rằng con người có linh hồn. Con người được tạo dựng để làm chúa tể của tất cả mọi loài động vật khác trên thế gian, v.v, và v.v… Nhưng tư tưởng Phật giáo không có một lằn ranh giới quiết liệt như thế giữa loài người và tất cả những chúng sanh khác. Các tôn giáo khác đề cập đến nhân loại hay loài người, nhưng Phật giáo lại chỉ nói đến giải thoát cho mọi loài chúng sanh trong đó có cả con người. Trong không gian bao la của cuộc sống, mọi loài động thực vật đều tương trợ hiện hữu chung với nhau trên toàn cõi địa cầu này. Phước duyên ta được sinh ra làm người có thể nhờ vào nhiều đời nhiều kiếp ta biết tu tập chánh quả, nên loài người được những ưu đãi tốt hơn. Trong đạo Phật giới thứ nhất mọi Phật tử đều đã có tụng đọc “nguyện không làm tổn hại sự sống của bất cứ một loài nào” không chỉ áp dụng cho loài người mà thôi. Tông phái Tiểu thừa (Theravada) trích diễn giới luật này bằng tiếng Pali nói đến mọi loài chúng sanh nào biết hít thở và có ý thức hệ. Trong đó có loài người và tất cả mọi loài động vật lớn nhỏ cho dù là con kiến, con sâu, con bọ, nhưng không bao gồm thực vật. Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa (Mahayana) thì cho rằng tất cả mọi loài cả thực vật cũng có cuộc sống của chúng; nhưng đôi lúc cũng hơi khó sử vì cũng cần phải nhổ cỏ dại, và cũng cần ăn rau ăn cỏ để sống. Tôi không nghĩ người ta nói Phật giáo chống lại tư tưởng quyền lợi. Nhưng khi đọc những lời bàn luận của mọi người trên trang nhà On Faith, tôi có cảm tưởng họ nghĩ nếu thú vật quan trọng đến nổi phải ra công cứu vớt chúng tức là đã công nhận các loài thú vật cũng có linh hồn, cũng phải có quyền lợi, và cũng mang một giá trị nội tại đáng kể. Lối suy nghĩ này thật tình rất xa lạ khác biệt với mọi người theo Đạo Phật. Đau khổ vẫn là đau khổ. Một loài chúng sanh nào đó đang đau khổ cần được cứu vớt, sao lại phải chờ xem chúng sanh đó có giá trị gì không mới cứu mạng. Hai cái chẳng liên quan gì đến nhau. Hay là ta phải gọi “quyền lợi chúng sanh”, nhưng càng nghĩ, tôi càng thấy cái quyền lợi này rất rườm rà thừa thải. (Trăng Linh Thứu dịch từ Anh sang Việt )
Tôi hỏi Đức Phật: “Điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất về nhân loại?” Phật nghĩ một chút rồi trả lời: “Đó là họ chán phải là trẻ con, vội vã trưởng thành và rồi lại khát khao trở thành con trẻ. Đó là họ đánh đổi sức khỏe để lấy tiền bạc và sau đó lại hao tiền tốn của để lấy lại sức khỏe. Đó là vì lo lắng suy nghĩ đến tương lai, họ quên đi hiện tại, cứ như thế họ sống không vì hiện tại cũng chẳng phải cho tương lai. Đó là họ sống như thể họ sẽ không bao giờ chết, và họ chết như thể họ chưa bao giờ sống”.
Có một lão hòa thượng hỏi một tiểu hòa thượng: "Nếu con bước về trước sẽ chết, lùi về sau cũng chết, vậy con sẽ đi thế nào?" Tiểu hòa thượng không chút do dự: "Con sẽ đi sang bên cạnh" Trời không tuyệt đường con người, có lúc gặp phải hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, hãy dừng lại, đổi khía cạnh khác mà suy nghĩ: "bên cạnh cũng là đường"
Luật cư xử với chiếc xe đổ rác Một hôm tôi nhảy lên được một xe tắc-xi để vội-vả đến sân bay. Xe chúng tôi đang chạy bên băng (lane) phải, thì có một chiếc xe đen thui bỗng từ bãi đậu chồm ra ngay trước mũi xe. Bác tài-xế tắc-xi của tôi bèn đạp thắng, xe lết đi, và chỉ thoát đụng phải chiếc xe kia trong gang tấc! Người lái xe kia gân cổ lên nhìn chúng tôi lơ-láo, rồi cất tiếng chửi bới. Bác tài-xế của tôi chỉ mỉm cười và còn vẫy tay chào gã kia. Tôi muốn nói bác ta quả thật là người hiền khô và dễ thương quá đi! Thấy thế, tôi bèn hỏi tại sao bác ta lại xử sự như vậy. Tên kia suýt chút nữa đã làm tan nát chiếc xe của bác và đưa cả hai chúng ta vào nhà thương! Và đây là lúc bác tài-xế đã dạy cho tôi một bài học mà tôi gọi là “Luật Cư Xử Với Chiếc Xe Ðổ Rác” Bác tài giải-thích rằng: Trên đời nầy không thiếu gì những người chẳng khác gì… những xe đổ rác! Họ chạy lông-nhông ngoài đường, thân mình đầy rác-rưởi, tâm hồn tràn ngập thất-vọng, tức-giận, và bất-mãn với đời. Rác-rưởi càng chồng chất thì họ lại càng muốn tìm được nơi nào trút bỏ, và đôi khi họ nhằm ngay chính bạn để trút đống rác đó. Vậy thì tại sao bạn lại phải chuốc lấy đống rác nầy nhỉ! Tại sao không chỉ mỉm cười, vẫy tay chào họ, chúc họ khỏi bệnh, rồi tiếp tục con đường mình đi! Nhớ đừng lấy cọng rác nào của họ để rãy lên những người khác nơi mình làm việc, trong gia đình mình, hay cho những người mình gặp trên đường phố. Ðiểm then chốt cần nhớ là những con người thành-công đều là những kẻ không để cho rác-rưởi xen vào chiếm đoạt một ngày của đời mình. Cuộc sống vốn ngắn ngủi, thì cớ sao sau một giấc ngủ dậy, lại phải vấn vương vì một hối-tiếc nào đó nhỉ? Do đó, .. * Hãy yêu-thương những kẻ đã đối xử đẹp với ta, và * Hãy cầu Trời tha-thứ cho những kẻ đã xử tệ với ta, Cuộc sống này chẳng qua chỉ có 10% là do bạn gây ra; và còn lại 90% là tùy xem bạn đối-phó với nó như thế nào.
Hãy Suy Nghiệm và Chớ Vội Tin Điều Gì Cả - Lời Phật Dạy *************************** - Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết. - Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống. - Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền. - Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay sách vở. - Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình. - Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình. - Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt. - Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến của mình. - Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ. - Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết. (Tóm tắt 10 điều Phật dạy trong kinh Kamala)