Phụ nữ làng Mai Xá lam lũ vì sự học của con cái Chẳng phải làng không có tên, thậm chí tên còn rất nổi tiếng : Làng Mai Xá (Gio Mai, Gio Linh, Quảng Trị) vốn lừng danh với sự học và lắm người tài. Nhưng gần chục năm nay, làng quen được gọi là làng vẫy. Cứ mỗi kỳ thi đại học xong là lại có thêm vài phụ nữ trong làng gia nhập đội quân vẫy! Sáng vẫy, chiều vẫy Về làng vào một buổi sáng rét mướt, còn lờ mờ hơi sương. Trời chưa tỏ rạng, hàng chục phụ nữ kẻ đứng người ngồi hai bên vệ đường Xuyên Á đoạn trước cổng làng thành một hàng dài. Thì ra họ đang đợi xe máy đi qua đây để xin đi nhờ lên thị xã Đông Hà buôn đồng nát. Tôi đi qua, hàng chục cánh tay đưa lên vẫy vẫy: “Cho tui đi lên Đông Hà với…”. Tiếng gọi kéo dài nhưng đứt đoạn như sợ bị từ chối. Rồi một chiếc, hai chiếc xe vì lòng thương hoặc miễn cưỡng dừng lại. Đến khoảng chín giờ sáng, khi những phụ nữ cuối cùng mừng rơn leo lên chiếc xe ngược lên thị xã, ở phía trên kia, cuộc mưu sinh mới bắt đầu. Hơn một trăm chị em của làng chia nhau ra lang thang các ngả đường kiếm sống. Ai làm nghề riêng của người ấy. Người bán hàng rong, người buôn đồng nát, người bán hến. Tất cả đều miệt mài đếm bước chân mình với niềm hy vọng kiếm được ba bữa cơm cho gia đình và chắt bóp ít tiền gửi cho con đi học. Ban ngày về làng. Rất hiếm khi thấy bóng phụ nữ. Thời khóa biểu trong ngày của phụ nữ đồng nát trong làng được sắp sẵn. Sáu giờ sáng ra đứng vẫy xe trước cổng làng. Loanh quanh cuốc bộ quanh thị xã đến trưa lại tụ tập ăn tạm bữa trưa ở quán cơm bụi lụp xụp trong con hẻm đường Lê Quý Đôn lấy sức chiều đi bộ tiếp. Khoảng 5-6 giờ chiều lại cùng tập trung ở phía bắc cầu Đông Hà để vẫy xe xin quá giang về nhà, sau khi gửi lại quang gánh và ghé vào chợ mua thức ăn về cho gia đình. Mỗi ngày hai lượt vẫy xe sáng chiều, khổ trăm bề. Không có điều kiện mua xe cộ thì biết làm sao được. Chị Nguyễn Thị Gái (39 tuổi), thâm niên nhiều năm vẫy xe kể, không phải ai cũng rộng lòng hiểu và cho đi nhờ. Nhiều hôm chờ vẫy xe từ sáng đến trưa mà không có chiếc nào dừng lại, phải lủi thủi quay về. Cũng có khi mải mua hàng, đến khi về trời đã tối om, phải thuê xe thồ về, coi như một ngày làm không công. Cũng không phải lúc nào vẫy được xe là may mắn. Ba tháng trước, chị Gái về muộn, vẫy được xe mừng rơn. Ngồi lên xe mới biết người chở đã có hơi men. Chiếc xe lao vào một chiếc xe khác, chị bị chấn thương cột sống phải nằm viện mấy tháng trời. Bút mực cho con Chiều, họ lại đứng ở ngã ba phía bắc cầu Đông Hà để vẫy xe về làng Mai Xá từ lâu nổi tiếng là đất học của Quảng Trị với trên dưới 50 em đậu đại học, cao đẳng mỗi năm. Trong số gần một trăm người làng ngày ngày lang thang đồng nát, hàng rong ở thị xã Đông Hà này, có đến hơn hai phần nuôi con đang ăn học tại các giảng đường trong cả nước. Nói như trưởng thôn Lê Văn Bòn, cứ mỗi kỳ thi đại học xong, lại có thêm vài phụ nữ trong làng gia nhập đội ngũ đồng nát hoặc hàng rong. Ông trầm ngâm: “Nghèo mà ! Ruộng vườn cũng ít. Chỉ biết ráng làm để chắt bóp nuôi con cái nên người”. Cũng có người thương, biết hoàn cảnh ngặt nghèo của người làng đi buôn đồng nát, hàng ngày cứ đến đúng vị trí cổng làng là dừng lại để chở giúp. Chiều đi làm về lại dừng đúng chỗ đàn bà làng Mai Xá để chở về. Thị xã Đông Hà một ngày cuối năm, những cơn mưa nhoè nhoẹt kéo theo cái lạnh run người. Từ trong con hẻm phía sau bến xe, gần chục phụ nữ quang gánh nặng trĩu vừa đi vừa rôm rả trò chuyện. Đó là những cư dân đồng nát của làng Mai Xá vừa mới nhập hàng cho đại lý về. Một người chừng ngoài 40 tự giới thiệu tên là Hồng nói khẽ. “Làng Mai Xá cả đó. Khỏi cần hỏi, đi quanh Đông Hà này thấy ai gánh quang gánh đi mua đồng nát thì có thể biết ngay người Mai Xá”. Bên trong hẻm, hàng chục phụ nữ khác cặm cụi lượm lặt phân loại từng mẫu ve chai chuẩn bị nhập kho. Quệt bàn tay nhăn nheo xua những lọn tóc thô ráp, chị Nguyễn Thị Gái nắm lấy nhúm tiền lẻ từ tay chủ đại lý. Chị cẩn thận gói hai phần. Hai chục này sẽ mua thức ăn ngày mai. Hai chục còn lại chị nhét riêng vào chiếc túi vải đeo bên hông: “Để bỏ heo tiết kiệm cuối tháng gửi cho thằng con đang học Bách khoa Đà Nẵng”. Trong làng không ai nhớ mình bén duyên với cái nghiệp lang thang này từ bao giờ. Chỉ biết người đi buôn đồng nát lâu nhất cách đây hơn hai mươi năm. Đó là chị Nguyễn Thị Hoè, năm nay gần 50 tuổi. Dần dà, số người theo nghiệp này vượt lên tới con số hàng trăm. Bên cạnh chị Gái là chị Nguyễn Thị Lân. Chị đang nhặt nhạnh những mảnh nhựa vụn ghép chung vào đoạn ống nước vỡ, chị vừa mua được chiều nay đặt lên bàn cân hoen gỉ. “Bốn cân tám ! Nhựa cứng nên được mười một nghìn, cộng thêm mớ lon bia nữa vị chi là 17 nghìn”. Chị nhét mười mấy nghìn tiền lẻ vào túi rồi chắt miệng với mấy đồng nghiệp: “Thôi chiều ni không đi chợ nữa. Về hái mớ rau khoai sau vườn nấu canh ăn qua bữa cũng xong. Mình ở nhà hết tiền còn xoay xở được rau ráng quanh nhà, chứ con đi học mà không có tiền thì biết xoay đâu !”. Chị kể, trước kia, chỉ ở nhà làm ruộng cùng chồng con cũng tạm qua ngày. Nhưng từ khi đứa con đầu của chị là Trương Quy Bảo đỗ vào khoa tiểu học trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị, cách đây ba năm, chị cũng bắt đầu theo chị em đồng nát. Không kể nắng mưa, gió rét, chị đều có mặt trên thị xã cùng mấy chị em của làng rảo qua các ngả đường mua mớ chai bao hay xấp giấy, bòn từng đồng tiền lẻ gửi cho con. Có ngày, cả gia đình chị chỉ mua đúng một bó rau muống, về vừa nấu canh vừa luộc cho xong bữa. Những ngày tháng bươn chải của chị càng chật vật hơn khi đứa con trai kế Trương Quy Vệ năm rồi cũng mới đậu vô khoa Lý, cùng trường với anh. Còn đứa con gái út: “Nó thi đậu Trường Cao đẳng Văn hóa trong TP HCM, nhưng tui không có tiền nên phải nói hắn ôn năm tới thi lại một trường gần nhà cho đỡ tốn kém”. Thấy chị Lân khóc, chị Gái đồng cảm: “Có ai trong số ni có con học đại học mà không phải may hai … túi đựng tiền mô mà. Không thì cuối tháng làm sao có tiền gửi cho con đi học”. Làng được mệnh danh là làng đồng nát từ cách đây hơn hai chục năm, nhưng lịch sử vẫy xe của làng chỉ bắt đầu từ khi có con đường Xuyên Á chạy băng qua làng kéo dài lên thị xã Đông Hà khoảng chục năm trước. Những người có thâm niên nghề đồng nát trong làng kể lại rằng, trước đó, đàn bà trong làng thường cuốc bộ ngày hai buổi sáng, chiều vượt hai chục cây số lên Đông Hà làm nghề. Đến khi có con đường, người đi lại nhiều, một người ra đứng vẫy đi nhờ. Rồi hai người và bây giờ là cả trăm người... Dần dần, việc vẫy xe không còn là đi nhờ nữa, mà trở thành cái có vẻ giống như một thứ nghề của họ. (lượm lặt)