Lịch sử Kiệu La Vang

Thảo luận trong 'Hình ảnh về Quảng Trị' bắt đầu bởi HưngBằng, 1/3/09.

  1. HưngBằng Thành Viên Danh Dự

    Vài nét Lịch Sử về Linh Ðịa LAVANG nhân dịp lễ Mừng 200 Năm Ðức Mẹ Hiện Ra tại LA VANG.
    Nhật Báo Quan Sát Viên Roma, số ra ngày Chúa nhật 9.08.98 đã đăng ba bài đặc biệt về Lễ Mừng Kỷ niệm 200 năm Ðức Mẹ hiện ra tại La Vang.
    Bài thứ nhất đăng lại hoàn toàn sứ điệp của ÐTC Gioan Phaolô II gửi cho cộng đồng Công Giáo Việt Nam trong dịp mừng kỷ niệm 200 năm biến cố lịch sử quan trọng này. Sứ điệp được ÐTC ký ngày 16.12.1997 và được gửi cho Ðức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng, Tổng Giám Mục Hà Nội, chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam.
    Bài thứ hai đăng bức thư ÐTC bổ nhiệm Ðức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng làm Ðặc Sứ của Ngài chủ tọa các lễ nghi mừng kỷ niệm, được tổ chức tại Lavang trong những ngày từ 13 đến 15 tháng 8/1998 này, dịp Lễ Ðức Mẹ Linh Hồn và Xác Lên Trời.
    Bài thứ ba nói về Lịch Sử Lòng Sùng Kính của các người Công Giáo Việt Nam đối với Ðức Mẹ La Vang.
    Trong mục thời sự hôm nay, chúng tôi xin tóm tắt lại lại bài báo thứ ba nầy.
    Vào cuối thế kỷ 18, Việt Nam bị chia làm hai miền: Miền Bắc do Chúa Trịnh cai trị. Miền Nam do Nhà Nguyễn cầm quyền. Vì muốn thống nhất hai miền, Nhà Nguyễn yêu cầu Nước Pháp giúp đỡ. Nhưng nhóm trí thức, được gọi là nhóm "Văn Thân" phản đối việc can thiệp của Nước Pháp. Nhóm này tuyên bố Quang Trung làm Vua. Vua Quang Trung chiếm miền Bắc, nhưng chẳng may chết sớm, để lại quyền kế vị cho con là Cảnh Thịnh mới có 10 tuổi. Tháng 8 năm 1798, các người cộng tác của Vua Cảnh Thịnh ra lệnh bách hại các người Công Giáo, vì Nhóm Văn thân quả quyết rằng: sự hiện diện của Nước Pháp là trách nhiệm của người Công Giáo.
    Bị bách hại, các tín hữu Công Giáo cùng với gia đình trốn vào rừng La Vang, cách xa làng mạc của họ khoảng 60 cây số. Ðể được can đảm đối phó với mọi khó khăn, mỗi ngày họ tụ họp nhau đọc kinh Mân Côi kính Ðức Mẹ Maria. Một ngày kia, Ðức Mẹ hiện ra, bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, có hai Thiên Thần hầu cận. Ðây là lần hiện ra thứ nhất và sau đó còn tiếp tục nhiều lần khác nữa. Ðức Mẹ an ủi nhóm tín hữu trốn tránh đó và hứa che chở họ khỏi các sự dữ. Tiếc thay tài liệu về những lầnï hiện ra này đã bị hủy hoại hay thất lạc trong thời kỳ chiến tranh, hoặc trong các thời bách hại sau này dưới thời các Vua Minh Mạng (1833), và Tự Ðức (1861).
    Năm 1886, các vụ bách hại chấm dứt. Một nhà nguyện đơn sơ được thiết lập. Nhà nguyện này không bao lâu trở nên quá nhỏ hẹp. Từ năm 1885, có nhiều nhà nguyện được xây cất tiếp theo nhau; nhà nguyện sau cùng, có ba chuông nhỏ, được Ðức Cha Eugenio Maria Giuse Allys (tức Ðức Cha Lý), lúc đó là Giám Mục đại diện Tông Tòa giáo phận Huế, làm phép.
    Trong những năm từ 1886-1928, La Vang thuộc giáo xứ Cổ Vưu, trong tỉnh Quảng Trị. Ðể đáp lại nhu cầu mỗi ngày mỗi nhiều của các đoàn hành hương, năm 1928 Ðức Cha Lý quyết định lập La vang thành một giáo xứ.
    Năm 1958-1959, Ðại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc được tổ chức tại LaVang, với sự hiện diện của Ðức Hồng Y Agagianian, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo và là Ðặc Sứ của ÐTC Gioan 23.
    Ngày 13.4.1961, Các Giám Mục miền Nam Việt Nam họp nhau tại Huế, Và khấn hứa với Trái Tim Cực Sách Mẹï Maria là sẽ xây cất một Ðền Thánh, khi hoàn cảnh cho phép và khẩn xin Ðức Mẹ ban tự do cho Giáo Hội và ban hòa bình cho hai miền Bắc-Nam. Và trong thư luân lưu ngày 8.08 cùng năm 1961, các giám mục công nhận La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc. Ngày 22.08. 1961, ÐTC Gioan XXIII cất nhắc nhà thờ La Vang lên bậc "Tiểu Vương Cung Thánh Ðường".
    Từø năm 1961, Ðền Thánh La Vang được mở rộng nhiều với các công việc tông đồ và các cơ sở khác nhau như: Quảng Trường Thánh Mân Côi, với các tượng diễn lại 15 Mầu nhiệm Kinh Mân Côi; hai hồ nhỏ trên khu đất khoảng 6 mẩu tây; một bàn thờ bằng đá quí giá của miền núi Non Nước; một tượng Ðức Mẹ; một trung tâm tĩnh tâm được hoàn tất năm 1963; nhà trọ cho các đoàn hành hương, một giếng nước v.v...
    Sau khi thống nhất đất nước, ngày 01.5.1980, các Giám Mục họp nhau tại Hà Nội, long trọng tái xác nhận La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc.
    Về những cuộc hành hương đến LaVang, thì ngay từø năm 1901, các cuộc hành hương lớn có tính cách toàn quốc được tổ chức và tiếp tục cứ ba năm một lần, không kể các cuộc hành hương riêng tư, hoặc của miền nọ, miền kia, hay của các giáo xứ, giáo phận. Cuộc hành hương quốc gia sau cùng được tổ chức vào dịp Lễ Ðức Mẹ lên trời năm 1996, với sự tham dự rất đông đảo các tín hữu. Trong dịp này cũng có nhiều đoàn hành hương đến từ các nước ngoài. Và cuộc hành hương trong Tam Nhật 13-15 tháng 8 năm nay 1998, là một cuộc hành hương đặc biệt, để mừng kỷ niệm 200 năm Ðức Mẹ hiện ra, một biến cố lịch sử rất quan trọng đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Vì là một biến cố rất quan trọng, ÐTC Gioan Phaolô II đã cử Ðức Hồng Y Tổng Giám Mục Hà Nội làm Ðặc Sứ thay mặt ngài và nhân danh ngài để chủ tọa các lễ nghi kỷ niệm.
    - Bộ Ân Xá Tòa Thánh đã ban phép cho các tín hữu hành hương La Vang được lãnh ơn Ðại Xá kể từ mồng một tháng Giêng năm 1998 cho tới ngày 15 tháng 8 năm 1999, nghĩa là trong suốt năm Toàn Xá Ðức Mẹ La Vang, do Hàng Giám Mục địa phương ấn định và tuyên bố.
    - Với thư riêng gửi cho Ðức Tổng Giám Mục Huế Stephano Nguyễn Như Thể, Ðức Hồng Y Quốc Vụ Khanh đã gửi Phép Lành Tòa Thánh cho Tổng Giáo Phận, có trách nhiệm tổ chức TAM NHẬT Mừng Lễ Mẹ La Vang, từ ngày 13 đến 15 tháng 8/1998 nầy, dịp Lễ Trọng Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    ĐỀN THÁNH LA VANG VÀ LINH ĐÀI ĐỨC MẸ

    Ngày nay ở linh địa La Vang có hai nơi đặc biệt: Vương Cung Thánh Đường dâng kính Đức Mẹ, và Linh Đài Đức Mẹ.
    Đền Thánh Đức Mẹ La Vang.
    1. Nhà Thờ bằng tranh đầu tiên:khoảng 1820.
    Người xưa kể rằng: những người dân địa phương đi rừng thường hay lui tới van vái tại gốc cây đa cổ thụ ở phường La Vang. Về sau họ nghe nói có Bà linh thiêng hiện ra ở đây, nên họ liền đắp một cái nền thờ vọng( ) dưới gốc cây đa và rào quanh tứ phía.
    Vào khoảng đầu đời Minh Mạng, dân ba làng Thạch Hãn, Cổ Thành và Ba Trù chung nhau làm một ngôi miếu trên nền thờ vọng ở gốc cây đa La Vang, nhưng về sau bị động, các chức sắc của ba làng đồng chấp thuận nhượng cúng đám đất và ngôi miếu tranh cho bên Công Giáo.
    Sau khi những người đaị diện bên Công Giáo đã nhận đất và ngôi miếu do ba làng nhượng lại, họ liền đến trình bày sự việc trên cho vị linh mục quản xứ và theo sự xếp đặt của ngài, ngôi miếu đã được sửa chữa thành nhà Thờ Công Giáo. Đây là ngôi nhà thờ đầu tiên tại La Vang, chính nơi Đức Mẹ hiện ra.
    Sau khi Thánh Địa La Vang có Nhà Thờ đầu tiên, thì sự tích Đức Mẹ hiện ra được loan truyền đi khắp nơi bằng giấy tờ.
    Ngày 09.09.1885 ngôi nhà Thờ bằng tranh nhỏ bé của Đức Mẹ bị phóng hỏa thiêu rụi hoàn toàn, dưới thời Văn Thân, trong lúc mấy gia đình Công Giáo ở La Vang đã bỏ nhà cửa chạy trốn thoát vào rú xanh cùng với khoảng 200 giáo hữu họ Cổ Vưu.
    2. Nhà Thờ bằng tranh thứ hai: 1885.
    Phong trào Văn Thân tạm chấm dứt, tình hình xứ Dinh Cát trở lại bình an, giáo đoàn phường La Vang bỏ Dinh Cát trở về nhà, ổn định cuộc sống. Làm sao quên được ngôi nhà Thờ bằng tranh nhỏ bé, nơi sớm hôm có bóng Mẹ từ bi. Họ tập trung đi rừng kiếm gỗ, tranh để làm lại ngôi Nhà Thờ khác trên nền cũ. Đây là Nhà Thờ bằng tranh thứ hai tại Thánh Địa La Vang.
    3. Đền Thánh bằng ngói thứ nhất: 1901-1923.
    Trải qua gần một thế kỷ, từ ngày Đức Mẹ hiện ra, Thánh địa La Vang vẫn âm thầm lặng lẽ giữa những biến cố tôn giáo cũng như thời cuộc. Mãi đến năm 1886, cuộc bách hại chấm dứt, số người hành hương về La Vang càng ngày càng gia tăng. Ngôi nhà Thờ bằng tranh đã trở nên quá chật chội, không đáp ứng đủ nhu cầu hành hương của người tín hữu Giáo Phận Huế lúc bấy giờ.
    Vì thế vào năm1886, Đức Cha Marie Antoine Caspar (Lộc) quyết định xây một ngôi Đền Thánh lợp ngói tại Thánh Địa La Vang ở chính chổ Đức Mẹ đã hiện ra. Đền Thánh được làm theo kiểu Việt Nam có cọt kèo xuyên trến, với hai tháp chuông đơn sơ và có sức chứa khoảng 400 người.
    Ngôi Đền Thánh lợp ngói thứ nhất tại La Vang đã được thi công trong vòng 15 năm (1886-1901) mới hoàn thành, dưới đời ba cha sở: C. Bonnard (Bổn), C. Patinin(Kinh), và cha Bonin (Ninh), phí tổn xây cất do lòng hảo tâm đóng góp của toàn thể giáo hữu Giáo Phận Huế, lễ khánh thành được tổ chức từ ngày 06-08/08/1901 vào dịp Đại Hội Hành Hương lần đầu tiên. Đền Thánh được làm phép với tước hiệu: Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu.
    Đức Mẹ ngự trong ngôi đền thánh lợp ngói gần 23 năm (1901-1923). Sau đó nhiều bộ phận bị mối mọt làm hư hỏng, vì thế cần phải xây dựng một Đền Thánh mới. Trong khi chuẩn bị làm Đền Thánh mới, một số linh mục cũng như giáo dân trong Giáo Phận ước ao giữ lại Đền Thánh cũ nguyên vẹn như vậy làm kỷ niệm.
    4. Đền Thánh La Vang năm 1924-1928.
    Trong những dịp Đại Hội Hành Hương, giáo hữu ngày càng đông, Đền Thánh quá nhỏ hẹp. năm 19223, Đức cha Eugène Allys(Lý) quết địng xây dựng một Đền Thánh rộng lớnhơn tại Thánh Địa La Vang. Đức Cha đã giao công tác kíên thiết cho Cha Morineau (Trung), quản xứ Trí Bưu kiêm La Vang. Sau gần bốn năm thi công (1924-1928), ngôi Đền Thánh mới được hoàn thành, với hai tầng mái và hai cánh Thánh Giá cổ điển, cùng với tháp chuông vuông hai tầng cao ngất. ngôi Đền Thánh mới nỗi bật lên giữa cảnh đồi cát xung quanh và rừng núi xa xa. Đây là ngôi Đền Thánh lợp ngói thứ hai, minh chứng lòng thành kính Đức Mẹ La Vang của giáo hữu toàn quốc, và cả Đông Dương.
    Ngày 20-22 tháng 08 năm 1928, Giáo Phận tổ chức Tam Nhật Đại Hội Hành Hương Đức Mẹ La Vang lần thứ 9 và cử hành lễ khánh thành ngôi Đền Thánh mới này.
    Mặc dù lễ khánh thành đền Thánh đã được tổ chức, nhưng lúc bấy giờ tháp chuông chưa được hoàn tất. đến ngày 30-9-1928 là ngày Chúa Nhật, Đức Cha Eugène Allys (Lý) đã cử hành tại Đền Thánh mới lễ nghi làm phép ba quả chuông La Vang một cách long trọng.
    Trong thời gian đèn thánh mới đang được thi công, thì ngoài đền thánh cũ ngày càng bị hư hỏng nặng, hai tháp chuông gần xiêu đổ. bất ngờ một đêm kia, sau khi giáo dân đọc kinh tối xong ra về, căn gần tháp chuông sập xuống. Bấy giờ có người muốn sửa chữa Đền Thánh cũ và cứ giữ lại để làm kỷ niệm. Nhưng cuối cùng theo lệnh của giáo quyền. Đền Thánh cũ được triệt hạ toàn bộ. Về sau Linh Đài Đức Mẹ La Vang được dựng tại chổ mà trước kia đã làm Đền Thánh cũ.
    5. Vương Cung Thánh Đường.
    1. Đền Thánh Đức Mẹ La Vang đã được Đức thánh Cha Gioan XXIII nâng lên bật Vương Cung Thánh Đường ngày 22 tháng 8 năm 1961. Hôm đó cũng là ngày Đền Thánh được cung hiến và giáo quyền chính thức tuyên bố Thánh Địa La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc.
    Nhưng cuộc chiến năm 1972 đã phá hủy hoàn toàn Vương cung Thánh Đường La Vang. Hiện giờ chỉ còn lại một mảng tháp chuông và một bức vách cuối Đền Thánh.

    Tại sao gọi là La Vang

    1. Vị trí, địa danh.
    Thánh Địa La Vang nằm trong khu vực xưa gọi là Dinh Cát (đời Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam, thế kỷ XVI. Vùng này gọi là Dinh Cát, tức là Dinh xây trên một vùng đất cát, có khi còn gọi là Cát Dinh), nay thuộc xã HảI Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo phận Huế cách thành phố Huế độ 60 km về phía Bắc, và cách thị xã Quảng Trị chừng 6 km về phía Nam.
    Dinh Cát là vùng đất cống hiến nhiều vị anh hùng tử đạo và cũng là nơi có số người Công Giáo sinh động.
    La Vang là một phường nhỏ bé, mất hút giữa chốn rừng thiêng nước độc, chẳng mấy ai lui tới, ngoại trừ một số tiều phu từ phía Quảng Trị lên. Sau nầy, trong thời kỳ cấm cách, nhiễu loạn, giáo hữu từ các xứ đạo như Hạnh Hoa, Cổ Vưu, Thạch Hãn...trốn lên rừng núi để tránh cơn bách hại. Khi bình yên, họ lại trở về quê quán. Như vậy, La Vang xưa được xem là nơi “lánh nạn” của nguời công giáo trong các thời kỳ khó khăn nhất trước đây.

    2.Tại sao gọi là La Vang
    a/. Cách giải thích thứ nhất:
    • Cụ Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài (Phước Môn Quận Công), trong bút tích về Đền Thờ Thánh Mẫu La Vang đề ngày 28 tháng 2 năm 1925, tại Huế, có viết: “La Vang là tiếng kêu om sòm. Thường ngườI ta đặt tên chỗ nọ chỗ kia, thì lấy tên cái khe, cây cổ thụ, hay tên người nào trước ở đó mà đặt tên chổ, song đây thì lấy tiếng La Vang mà đặt tên cũng là lạ. La Vang là tiếng khi người ta lâm nguy mà kêu cứu, tiếng đuổi thú dữ, la vang là tiếng rao truyền, la vang la tiếng khi ngườI ta được sự vui mừng quá bội, hoảng hốt mà la vang hay là tiếng quở trách. Tưởng rằng ý định đã xui cho người ta dùng tiếng La Vang mà đặt tên cho chổ này cho ứng nghiệm về việc đã xảy ra bấy lâu nay về sau này nữa”.
    • Đức Cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn (1878 - 1948), trong bài diễn văn về Đức Mẹ La Vang (18.08.1932), có nói: “Tên La Vang là vì xưa ở nơi đó có nhiều cọp, xóm Trí Bưu vào làm chòi ở lại, làm gỗ vỡ đất, nên đêm nào củng đánh mõ la lối để đuổi cọp, vì thế xóm xung quanh nhà thờ gọi là La Vang”.
    • “Ban đêm phường La Vang không có sự thinh lặng. Đêm nào người ta cũng la lối om sòm. Họ đánh mõ, đánh thùng rộn ràng, để đuổi các thú dữ như heo rừng, voi, cọp... từ rú xanh ra phá phách khoai, sắn, lúa. Nên người ta gọi là phường La Vang”.
    b. Cách giải thích thứ hai:
    Tiếng La Vang do chữ Lá Vằng mà ra.
    Linh mục Philiphê Lê Thiện Bá (1891 – 1981), Nguyên Giáo Sư Tiểu Chủng Viện và Đại Chủng Viện Huế, chánh quán làng Cổ Vưu (Trí Bưu), có để lại bút tích giải thích tên gọi La Vang như sau: “Trong địa bộ làng Cổ Vưu có ghi: “Phường Lá Vằng”, vì ngày xưa trên linh địa La Vang có vô số cây lá vằng. Loại cây này có hột đen, ăn được, vị đắng và lá là một vị thuốc. Người phụ nữ xứ Dinh Cát (Quảng Trị) thường dùng lá vằng sắc uống khi sinh con. Do đó khi lập phường thì nhà nước đặt tên là “Phường Lá Vằng”. về sau người ta đọc Lá Vằng thành La Vang”.
    “Phường Lá Vằng”, Thánh địa La Vang là một vùng đất rừng rú xen kẻ nhiều thứ cây, trong đó có cây lá vằng nhiều hơn cả.
    Từ chốn Lá Vằng, hay La Vang được loan truyền từ đời nọ sang đời kia, là Đức Mẹ Maria hiện ra an ủi nâng đỡ con cái của Mẹ trong thời kỳ bách hại này.
    Từ đó tiếng lành đồn xa, khắp Giáo phận Huế, trong các giáo phận khác ở Việt Nam và cả Đông Dương, về việc Đức Mẹ hiện ra tại La Vang cùng nhiều ơn lạ của Mẹ Thiên Chúa.
    Thật vậy, Đức Mẹ đã biến nơi âm u, rừng thiêng nước độc trở thành nơi qui tụ con cái muôn phương. Tiếng kêu của con cái Mẹ trong cảnh lầm than cũng là tiếng vang động tới cõi thiên đình. Từ đó nhiều người tứ xứ, từ khắp nơi tuôn về Mẹ.
    “Phường lá vằng” đã trở thành “Thánh Địa La Vang”. Đồng bào lương giáo khắp nơi tuôn về hành hương, cầu nguyện, xin ơn độ trì. Mẹ đã nhậm lời và ban nhiều ơn lành phần hồn phần xác.

Chia sẻ trang này