Luật thơ cơ bản

Thảo luận trong 'VƯỜN VĂN HỌC, THƠ CA' bắt đầu bởi Lão Tử, 19/3/12.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Lão Tử Thành viên

    I. Thơ cổ phong (hay cổ thể)

    Cổ phong là lối thơ có từ những triều đại trước. Trong thơ cổ phong, người ta
    chia ra hai loại cho dễ nhớ: thơ cổ phong năm lời (ngũ ngôn) và bảy lời (thất
    ngôn).

    Thơ cổ phong khác với thơ luật ở chỗ thơ chỉ cần vần chứ không cần phải theo
    luật bằng, trắc. Khác với thơ luật, thơ cổ phong có thể dài ngắn khác nhau, có
    loại bài ngắn (đoản thiên), và bài dài (trường thiên).

    Số câu trong cổ phong cũng không quy định cụ thể. Đoản thiên có thể bốn câu,
    sáu câu, tám câu hoặc trên mười câu... Trường thiên là những bài thơ dài,
    nghiêng về trần thuật, hoặc biểu cảm liên tục trước một đề tài không dứt, do đó
    cũng cần phải có từng phần, mạch lạc, có cấu trúc hợp lý...

    Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn. Có thể là bài thơ chỉ dùng một vần (độc
    vận) trong cả bài. Cũng có thể thay nhiều vần (hoán vận) trong lúc viết (Tỳ Bà
    Hành của Bạch Cư Dị). Vần bằng và vần trắc cũng có thể dùng riêng từng loại hay
    cả hai.

    Về lời trong câu thì được phép dài, ngắn khác nhau không phải nhất thiết năm
    hay bảy chữ (Tương Tiến Tửu của Lý Bạch)...

    Trong ngũ ngôn trường thiên có bốn điều cốt yếu được các nhà thơ hay vận dụng,
    gọi là thủ pháp chung cũng được. Đó là:

    Phân mạch: chia đoạn, chia tiết, chia câu trong bài.
    Quá mạch: chuyển tiếp các ý của phần đầu.
    Hồi chiếu: biểu hiện những tứ lạ, ý hay đã róng lên ở các phần trên, phát triển
    cho sâu sắc.
    Tán thán: những ý nghĩ, suy tưởng, cảm nhận xen cài vào các đoạn trên.

    Thất ngôn cổ phong thì các mạch đoạn cho rõ ràng, ý nghĩa càng thâm trầm, cao
    thoát. Nhiều ý vị ngoài bài thơ thì càng hay. So với thơ luật, thơ cổ phong
    phóng túng hơn, ít bị trói buộc trong niêm luật, câu chữ. Chính vì vậy mà tính
    hàm súc, cô đọng, những khe khắt đòi hỏi về đối ngẫu, luật thơ, âm nhạc không
    tập trung như thơ luật. Vả lại, thể cổ phong vốn cũng đã có từ các thời Hán,
    Tùy, trước, nên về sau lối thơ luật thịnh hành hơn cả...

    II. Thơ luật

    Thơ luật có từ thời nhà Đường nên cũng gọi là Đường Luật. Luật dựa trên những
    thanh bằng và thanh trắc trong một câu và niêm giữa các câu với nhau, tạo thành
    cấu trúc bắt buộc của bài thơ.Thơ luật gồm tám câu, cấu trúc quy định như sau:

    Phá: Câu mở đầu (cũng gọi là Phá đề)
    Thừa: Nhân ý câu phá mà chuyển tiếp
    Thực: Gồm hai câu 3, 4 phải đối nhau từng lời và ý, nói rõ chủ đề của bài thơ.
    Luận: Gồm hai câu 5, 6 cũng theo luật đối lời đối ý của các câu thực, nhằm tăng
    ý chính của bài.
    Kết: hai câu cuối cùng, chuyến ý và thâu tóm ý tưởng của bài thơ hoặc có một tứ
    lạ gây thêm cảm xúc cho người đọc.

    Thơ luật có thể năm lời (ngũ ngôn) và thể bảy lời (thất ngôn)

    * Ví dụ thơ thể ngũ ngôn:

    TỐNG HỮU NHÂN

    Thanh sơn hoành Bắc quách,
    Bạch thuỷ nhiễu Đông thành.
    Thử địa nhất vi biệt,
    Cô bồng vạn lý chinh.
    Phù vân du tử ý,
    Lạc nhật cố nhân tình.
    Huy thủ tự tư khứ,
    Tiêu tiêu ban mã minh.
    (Lý Bạch)

    TIỄN BẠN

    Chạy dài cõi Bắc non xanh,
    Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau.
    Nước non này chỗ đưa nhau,
    Một xa, muôn dặm biết đâu cánh bồng!
    Chia phôi khác cả mối long,
    Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.
    Vẫy tay thôi đã rời xa,
    Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo.
    (TẢN ĐÀ dịch)


    * Ví dụ thể thất ngôn:

    THU HỨNG

    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
    Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
    (Đỗ Phủ)

    HỨNG THU

    Lác đác rừng phong hạt móc sa,
    Ngàn non hiu hắt, khí thu loà.
    Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
    Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
    Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
    Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
    Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước,
    Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà.
    (NGUYỄN CÔNG TRỨ dịch)

    III. Thơ tuyệt cú:

    Tuyệt cú theo nghĩa đen là ngắt câu. Là một thể thơ bốn câu, có thể là cổ phong
    hoặc thơ luật, nhưng ý tứ, ý nghĩa phải trọn vẹn, sâu sắc. Cũng phải có mở có
    kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định nói. Chẳng hạn như bài Tự Quân Chi
    Xuất Hỹ của Trương Cửu Linh:

    TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ

    Tự quân chi xuất hĩ
    Bất phục lý tàn ky.
    Tư quân như nguyệt mãn,
    Dạ dạ giảm thanh huy.

    TỪ THUỞ CHÀNG ÐI

    Từ ngày chàng bước chân đi,
    Cái khung dệt cửi chưa hề dúng (nhúng) tay.
    Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,
    Ðêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm.
    (NGÔ TẤT TỐ dịch)

    Bài thơ nói được cái tình của người vợ mà lối ví von, hình ảnh vừa đẹp, vừa sâu
    sắc. Lời, kết cấu, ý tứ thật trọn vẹn, súc tích.

    Thơ tuyệt cú làm hay, thật khó. Nhưng trong thơ Đường, nhiều bài thơ tuyệt cú
    đã vượt được thử thách, lưu truyền hang ngìn năm, tính tư tưởng cao, hình ảnh
    đẹp và mãi mãi là những viên ngọc sáng giá.

    Lối làm thơ tuyệt cú có thể tuân theo luật bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối của
    ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Ở thể cổ phong, thơ tuyệt cú càng rộng rãi hơn, các
    câu thơ không cần đối, không phụ thuộc luật bằng trắc, miễn là ý tứ sâu sắc,
    lời đẹp, giầu âm điệu...

    Thơ tuyệt cú có bốn câu, do đó cũng gọi là tứ tuyệt. Thơ tuyệt cú đẹp như hoa
    một bông trên cành thắm, có thể nói trực diện, hoặc nói xa xôi mà ý tứ lại thâm
    trầm, đều được cả.

    Phong Kiều Dạ Bạc

    Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
    Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
    Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
    Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
    BaoChau thích bài này.
  2. Lão Tử Thành viên

    THƠ ĐƯỜNG

    HAI CÁCH LÀM THƠ TNBC ĐƯỜNG LUẬT


    Hai bài viết :
    THƠ ĐƯỜNG : THẤY SAO NÓI VẬY
    và HỌC LÀM THƠ ĐƯỜNG như THI NHÂN ĐỜI ĐƯỜNG

    cho thấy phớt qua là có 2 cách làm một bài thơ TNBC Đường Luật, khó dễ khác nhau. Bài này xin nói rõ hơn về hai cách đó :

    * làm thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, nếu theo kiểu mẫu qui định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, thì tương đối gặp khá nhiều sự ràng buộc.
    * làm thơ TNBC Đường Luật theo kiểu mẫu thi nhân đời Đường áp dụng, thì cách thực hành đơn giản hơn nhiều, mà lại bao gồm luôn những cách chơi quy định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.

    Để tránh lập lại những chi tiết dông dài, xin gọi tắt cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 là cách “theo Dải Số”, và cách chơi kia là cách “theo Đường Thi”.

    Hai cách làm 1 bài thơ TNBC Đường Luật nói trên, có sự khó dễ khác nhau theo từng bước như sau :

    Khi viết câu 1 và câu 2 :
    1. Hai câu 1 và 2 không cần phải đối nhau.
    2. Hai câu đều phải mang vần (chỉ nói về vần Bằng). Câu 1 có thể không có vần.
    3. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng, một câu theo luật Trắc, Luật nào trên Luật nào dưới cũng đều được cả.
    3 qui định trên đều áp dụng cho cả hai cách (“theo Dải Số” và “theo Đường Thi”).

    Ví dụ như câu 1 và câu 2 là :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ = (câu trên theo luật Trắc)
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    hoặc là :

    Một trời hương sắc một trời thơ = (câu trên theo luật Bằng)
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung

    Khi viết câu 3 và câu 4 :
    1. Hai câu 3 và 4 phải đối nhau.
    2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
    3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách.
    4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,

    Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên (1 và 2) ra sao.

    Ví dụ dùng hai câu 1 và 2 của Đồng Lão :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng

    Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu lấy hai câu 1 và 2 của Đồng Lão, thì câu 3 phải theo luật Bằng, câu 4 phải theo luật Trắc.

    Ví dụ :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh

    Lưu ý là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” .

    Khi viết câu 5 và câu 6 :
    1. Hai câu 5 và 6 phải đối nhau.
    2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
    3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách.
    4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,

    Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao.

    Ví dụ, nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong

    Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” , thì câu 5 phải theo luật Trắc, câu 6 phải theo luật Bằng.

    Ví dụ :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali

    Nhắc lại là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” .

    Khi viết câu 7 và câu 8 :
    1. Hai câu 7 và 8 không cần phải đối nhau.
    2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc
    3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách.
    4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc,

    Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao.

    Ví dụ, nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số” :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số”, thì câu 7 phải theo luật Bằng, câu 8 phải theo luật Trắc.

    Ví dụ :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    8 câu trên được Dải Số chấp nhận, vì thỏa mãn được mọi sự ràng buộc từ câu 3 trở xuống đến câu 8.

    Còn với cách chơi thoải mái “theo Đường Thi” , thì từ câu 3 trở xuống đến câu 8 có rất ít sự ràng buộc, và toàn bài thơ có thể như thế này :

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    8 câu này trúng vào phép Niêm và Luật của bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy và bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch.

    Nhắc lại là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” .

    Đi vào chi tiết để thấy rõ như sau :

    Về Niêm :
    Trên hai phần tứ cú của bài bát cú, thi nhân đời Đường dùng cả hai phép Niêm 1-4 2-3 và 1-3 2-4, đồng thời cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do dùng phép Niêm khác nhau.

    Do đó nên trên nguyên tắc, có cả thảy 4 dạng Niêm :
    1/ trên Niêm 1-4 2-3, dưới Niêm 1-4 2-3
    2/ trên Niêm 1-4 2-3, dưới Niêm 1-3 2-4
    3/ trên Niêm 1-3 2-4, dưới Niêm 1-4 2-3
    4/ trên Niêm 1-3 2-4, dưới Niêm 1-3 2-4

    Về Luật :
    Thi nhân đời Đường cũng cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do theo Luật khác nhau.
    Nên trên nguyên tắc, cũng có cả thảy 4 dạng Luật :
    a/ trên theo Luật Bằng, dưới theo Luật Bằng
    b/ trên theo Luật Bằng, dưới theo Luật Trắc
    c/ trên theo Luật Trắc, dưới theo Luật Bằng
    d/ trên theo Luật Trắc, dưới theo Luật Trắc

    Bất cứ thể Niêm nào cũng đều mang theo một thể Luật nên sự pha trộn đầy đủ trên nguyên tắc sẽ cho 16 dạng Niêm + Luật là :

    1.a, 1.b, 1.c, 1.d
    2.a, 2.b, 2.c, 2.d
    3.a, 3.b, 3.c, 3.d
    4.a, 4.b, 4.c, 4.d

    Tổng cộng 16 dạng Niêm+Luật trên lý thuyết đó có thể mô tả với những cặp 2 câu thơ viết sẵn đã nêu ở phần trên như sau :

    1.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + Thi Nang

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : (các con số chỉ phép Niêm, Bằng hay Trắc chỉ Luật)
    1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng (đây là một bài TNBC đúng “theo Dải Số” )
    - giống như bài KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ -

    1.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + lá chờ rơi

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài HÀ TIỆN của Nguyễn Minh Triết -

    1.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh -

    1.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Lá chờ rơi

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Dải Số )
    - giống như bài KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ -

    2.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + lá chờ rơi

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài ÐỘC TIỂU THANH KÝ của Nguyễn Du -

    2.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + Thi Nang

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - tương tự như bài TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thich, bài của Cao Thích có Niêm + Luật tréo lại là (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng) -

    2.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Lá chờ rơi

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh -

    2.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài SỐNG ĐỜI TIÊN của lá chờ rơi -

    3.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch -

    3.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + lá chờ rơi

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - tương tự như bài ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch, bài của Lý Bạch có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng) -

    3.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Thi Nang

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ -

    3.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Lá chờ rơi

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài DĨ HÒA VI QUÝ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm -

    4.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + lá chờ rơi
    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - Niêm giống như bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy nhưng khác Luật, bài của Vương Duy có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) –

    4.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang

    Một trời hương sắc một trời thơ
    Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung
    Khung trời xướng họa đâu eo hẹp
    Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài VUI XUÂN CON TRÂU của Sương Anh -

    4.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Lá chờ rơi

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Tam phân thiên hạ điều lo thực
    Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong
    Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp
    Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài BÁC LÁ YÊU DẤU ! của Vancali -

    4.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Thi Nang

    Lá úa lao xao vẩy phất phơ
    Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão
    Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi.
    Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng
    Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước
    Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali
    Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi
    Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang

    Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là :
    1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” )
    - giống như bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch -

    *******

    Tất cả 16 bài TNBC trên đây đều có âm điệu hài hòa.
    Phép Niêm 1-3 2-4 là một trong 2 phép Niêm chính thống của thơ Tứ Tuyệt. Dải Số không dùng nhưng thi nhân đời Đường vẫn dùng.
    Ngoài ra những nơi có sự đổi Niêm, đổi Luật đều không hề gây ra sự chói tai, khổ độc nào, mà có khi lại cho người đọc cái cảm giác nghe hay hơn, nhờ sự “đổi mới” thay vì sự “nhàm chán” khi gặp hoài một “điệu thơ cũ” dù là hay đến mấy.

    Như mọi người có thể nhận ra là phép chơi “theo Đường Thi” không cần biết các câu phía trên theo luật nào, những câu thơ từ 1 đến 8 sẽ như sao và sẽ đan kết với nhau ra sao. Cứ tự nhiên để cho hứng thơ, tứ thơ đun đẩy mà viết mỗi cặp với 1 câu Trắc 1 câu Bằng, thì có thể hoàn toàn yên trí rằng, khi xong hết 8 câu, chúng sẽ tạo ra hai phần tứ cú đúng Niêm 1-4 2-3 hoặc 1-3 2-4.

    Cái dễ của cách chơi “theo Đường Thi” là như vậy. Nhưng dùng cách chơi này là chấp nhận cách chơi của thi nhân đời Đường. Phần lớn các tác phẩm sẽ khác với cách chơi “theo Dải Số” . Trung bình cứ 16 bài thì mới có 2 bài “theo Dải Số” . Những tác phẩm “không theo Dải Số” có thể sẽ bị coi là “thất niêm” bởi những người trung thành với dải số. Tiếng “phá cách” thì họ để dành gọi những tác phẩm của các đại thi nhân tiền bối đời Đường với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật”. Thơ của bọn mình thì chưa có cái vinh hạnh được gọi là thơ phá cách !

    Nhưng việc gọi những bài thơ nằm ngoài dải số là thơ “thất niêm, phá cách hay thơ Cổ Phong” là một sự sai lầm hoàn toàn.

    Phần trình bày về 16 cách chơi “theo Đường Thi” trên đây đã chứng tõ rằng đó là những bài thơ Đường Luật. Dải số không bao gồm được hết 16 cách Niêm Luật ấy, thì đó là việc của dải số.

    Vậy : CHÍNH DANH “ĐƯỜNG LUẬT” LÀ ĐÂU ?

    Chắc mọi người đều đồng ý với Quách-Tấn trong định nghĩa trích dẫn sau đây :

    “Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.”
    (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38)

    * những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công thì hẳn là phải lấy từ các bài Đường Thi còn lưu truyền đến nay.

    Và cách chơi “theo Đường Thi” mô tả trên đây chỉ là “thấy sao nói vậy” về những kinh nghiệm kỹ thuật đã thành công của thi nhân đời Đường.

    Đường Luật lấy ra từ phần kỹ thuật của Đường Thi là như thế.

    Còn việc sau đó Đường Luật bị thay đổi do nhu cầu nọ kia (ví dụ như do nhu cầu chấm thi của giới quan trường) để trở thành Đường Luật mà dải số đang theo thì đó là việc khác.
    Nếu cần chính danh cho dải số thì đó là việc của những người theo dải số.
    Rất có thể là có một đạo luật nào đó của triều đình đã quy định những điều phải học về thơ Đường là như vậy.

    Nhưng dù sao thì cũng xin nêu lại những điểm vô lý đã ăn sâu vào quan điểm của khá nhiều người, khi gọi những bài thơ Đường chính thống ấy là Thất Niêm, Phá Cách, hay thơ Cổ Phong như sau :

    * sao gọi được là “thất Niêm” khi bài thơ sử dụng 2 phép Niêm chính thống của thơ tứ cú là 1-4 2-3 và 1-3 2-4 ? Dải số cũng dùng 1 trong hai phép Niêm đó (1-4 2-3) thì sao ? Chỉ có thể gọi là thất Niêm khi trong phần tứ cú, câu 1 niêm với câu 2 (1-2), hoặc câu 3 niêm với câu 4 (3-4), hoặc cả 4 câu 1-2-3-4 đều cùng theo một luật (1-2-3-4).
    * sao gọi được là ‘phá cách’ khi những cách chơi đa dạng đều đi theo một nguyên tắc rõ ràng là : cho phép hai phần tứ cú được tự do theo Niêm, theo Luật khác nhau, với sự pha trộn mọi cách Niêm + Luật. Không biết dải số căn cứ vào đâu mà chỉ dùng 2 trong số 16 cách Niêm + Luật trên lý thuyết của Đường Thi. Đường Thi là gốc, đáng lẽ dải số phải theo. Nhưng vì một lý do gì đó mà dải số không theo. Vậy sự “phá cách” chính là do dải số.
    * Những đặc điểm của thơ Cổ Phong là : được dùng nhiều vần, được dùng số câu khác nhau 6, 8, 10, 12, không cần có đối, không cần theo Niêm Luật. Vậy tại sao trong số bị gọi là thơ Cổ Phong lại chẳng có bài nào có 2 vần ? chẳng có bài nào có số câu là 6, 10, 12 ? chẳng có bài nào không có đối ở các cặp 3-4 và 5-6 của bài bát cú ? chẳng có bài nào có được vài câu với nhì-tứ-lục chẳng phân minh một cách hiển nhiên? (không kể những câu tác giả cố ý bỏ luật 1 chữ để bảo toàn ý nghĩa).

    Ngày nay thơ Đường chỉ dùng cho sự tiêu khiển của những người yêu thơ. Mọi người tự do chọn hướng đi của mình.
    Chẳng ai đả kích người chơi theo dải số. Họ có thể được hoan hô với chủ trương thích tìm cái khó để chơi, để trao dồi…..
    Còn sự gieo tiếng xấu cho Đường Thi là “thất Niêm, phá cách, thơ Cổ Phong” cũng chẳng biết do đâu, nhưng cũng chẳng có gì quan trọng.
    Vì những sự phân tách mỗ xẻ phần kỹ thuật Đường Thi, như vừa lập lại trên đây, đã cho thấy rõ ràng đâu là sự thật đâu là ác ý.

    Sự làm thơ cốt là để giúp chúng ta vui chơi trong sự thoải mái. Mà thơ thì có nhiều khuynh hướng khác nhau.

    Ai muốn làm thơ theo dải số thì cứ theo. Ai muốn làm thơ theo Đường Thi thì cũng không ai cấm cản.

    Và có một điểm chung quan trọng : là mọi người đều có bổn phận cống hiến cho Làng thơ những bài thơ hay để thưởng thức.

    Rất cám ơn quý bạn Đồng Lão, Vũ Kim Thanh, Trần Mạnh Hùng, Hàn Phong, Vancali, Thi Nang và Chí Trung đã soạn giúp cho những cặp 2 câu thơ dùng trong phần giải thích trên.

    Thân ái chào tất cả quý bạn đã bỏ công ra đọc bài này.

    Lá chờ rơi 23/08/09

    &&&&&&&&

    Phụ lục :

    Nguyên văn những bài thơ chỉ mới kê tên nơi phía trên :
    (trong ngoặc : các con số là phép Niêm của từng phần tứ cú, Bằng hay Trắc là Luật của phần tứ cú đó.)

    1.a KHÚC GIANG NHỊ THỦ - kỳ nhị (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng)

    Triều hồi nhật nhật điển xuân y
    Mỗi nhật giang đầu tận túy quy
    Tửu trái tầm thường hành xứ hữu
    Nhân sinh thất thập cổ lai hi
    Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện
    Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi
    Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển = bỏ luật chữ thứ 6
    Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
    Ðỗ Phủ

    BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai)

    Mỗi buổi chầu lui thường cố áo (cố = cầm cố)
    Bên sông say khướt mới ra về
    Vài ba nợ rượu đâu không có
    Bẩy chục đời người dễ mấy khi
    Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng
    Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê
    Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi
    Ðược lúc vui chơi há ngại gì.
    Bùi Khánh Ðản

    1.b HÀ TIỆN (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc)

    Giàu thì ba bữa khó thì hai
    Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
    Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
    Dép thay da mặt túi thay quai
    Dặn vợ có cà đừng gắp mắm
    Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai
    Thế gian mặc kẻ cười hà tiện
    Ta chẳng phiền ai chẳng lụy ai.
    Nguyễn-Minh-Triết

    1.c VĂN LÂN GIA LÝ TRANH (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng)

    Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan
    Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan
    Hốt văn họa các Tần tranh dật
    Tri thị lân gia Triệu nữ đàn
    Khúc thành hư ức song nga liễm
    Điệu cấp giao liên ngọc chỉ hàn
    Ngân thược trùng quan thính vị tịch
    Bất như miên khứ mộng trung khan.
    Từ An Trinh

    NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM

    Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
    Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
    Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
    Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
    Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
    Điệu mau e buốt ngón tay vàng
    Lắng nghe then khóa còn chưa mở
    Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
    Đinh Vũ Ngọc

    1.d KHÚC GIANG ĐỐI TỬU (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc)

    Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy
    Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
    Ðào hoa tế trục dương hoa lạc
    Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi
    Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí
    Lãn triều chân dữ thế tương vi
    Lại tình cánh giác Thương Châu viễn
    Lão đại đồ thương vị phất y.
    Ðỗ Phủ

    UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG

    Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
    Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
    Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
    Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
    Chén rượu thường say người đã chán
    Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang
    Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
    Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương.
    Bùi Khánh Ðản

    2.a ÐỘC TIỂU THANH KÝ (1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng)

    Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư
    Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
    Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư
    Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư
    Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
    Nguyễn-Du

    2.b TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng)

    Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy
    Xuân phong tống khách sử nhân bi
    Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại
    Luân giao khước ức thập niên thì
    Vân khai Mấn Thủy cô phàm viễn
    Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì
    Thử địa tòng lai khả thừa hứng = bỏ luật chữ thứ 6
    Lưu quân bất trú ích thê kỳ.
    Cao Thích

    TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ

    Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
    Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
    Chia ly ngàn dặm bao đau xót
    Gắn bó mười năm mấy vấn vương
    Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
    Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
    Nơi đây ngày trước cùng vui thú
    Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
    Đinh Vũ Ngọc

    2.c ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng)

    Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy
    Điền viên dĩ hãm bách trùng vi
    Bình vô vạn lý hà nhân khứ
    Lạc nhật thiên sơn không điểu phi
    Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu
    Cực phố thương thương viễn thụ vi
    Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi
    Vị tảo Sam Thương lãn tức ky.
    Lưu Trường Khanh

    LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC

    Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
    Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
    Vạn dặm đồng không người chẳng đến
    Nghìn non chiều xuống chim còn bay
    Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
    Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
    Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
    Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
    Đinh Vũ Ngọc

    2.d SỐNG ĐỜI TIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)
    (thân tặng Thảo My)

    Có một nàng thơ đang ngủ yên
    Say nồng quên tỉnh giấc cô miên
    Đầu xuân nên tránh tìm thương ghét
    Sắp Tết đừng quên chúc bạc tiền
    Ông muốn ăn nem nhiều kẻ trách
    Bà không nếm chả chẳng ai phiền
    Chín bỏ làm mười hung hóa kiết
    Gìn lòng “vô hận” kiếp thần tiên*.
    Lá chờ rơi 23/01/08
    * nhẫn nhẫn nhẫn, vô hận thần tiên tùng thử đắc ! (Minh Tâm Bửu Giám)

    3.a KÝ THÔI THỊ NGỰ (1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng)

    Uyển khê sương dạ thính viên sầu
    Khứ quốc trường như bất hệ châu
    Độc liên nhất nhạn phi Nam độ
    Khước tiện song khê giải Bắc lưu
    Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp
    Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu
    Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp
    Triêu triêu phân tán Kính Đình thu.
    Lý Bạch

    GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI

    Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
    Như thuyền không buộc mãi xa quê
    Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
    Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
    Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
    Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
    Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
    Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
    Đinh Vũ Ngọc

    3.b ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng)

    Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du
    Phượng khứ đài không giang tự lưu
    Ngô cung hoa thảo mai u kính
    Tấn đại y quan thành cổ khâu
    Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
    Nhị thủy trung phân bạch lộ châu
    Tổng vị phù vân năng tế nhật
    Trường An bất kiến sử nhân sầu.
    Lý Bạch

    LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG

    Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
    Phượng bay lầu trống với trường giang
    Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
    Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
    Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
    Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
    Ô hay mây nổi che trời sáng
    Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
    Đinh Vũ Ngọc

    3.c HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng)

    Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi
    Phong lưu nho nhả diệc ngô sư
    Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ
    Tiêu điều dị đại bất đồng thì
    Giang san cố trạch không văn tảo
    Vân vũ hoang đài khởi mộng tư
    Tối thị Sở cung câu dẫn diệt
    Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi.
    Đỗ Phủ

    NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI

    Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
    Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
    Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
    Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
    Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
    Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
    Thương thay cung Sở tiêu tan hết
    Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
    Đinh Vũ Ngọc

    3.d DĨ HÒA VI QUÝ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Trắc)

    Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu
    Làm chi cho có sự đôi co
    Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn
    Ðấy rằng đấy phải đấy không thua
    Duật nọ hãy còn đua đến bạng
    Lươn kia hầu dễ kém chi cò
    Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý
    Vô sự thì hơn khỏi phải lo.
    Nguyễn-Bỉnh-Khiêm

    4.a CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)

    Chước tửu dữ quân quân tự khoan
    Nhân tình phiên phúc tự ba lan
    Bạch thủ tương tri do án kiếm
    Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan
    Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp
    Hoa chi dục động xuân phong hàn
    Thế sự phù vân hà túc vấn
    Bất như cao ngọa thả gia xan.
    Vương Duy

    RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH

    Mời anh cạn chén để nguôi sầu
    Tráo trở tình đời khác sóng đâu
    Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
    Cửa son hiển đạt lại cười nhau
    Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
    Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
    Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
    Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
    Đinh Vũ Ngọc

    4.b VUI XUÂN CON TRÂU (1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc)

    Không chờ chẳng đợi cũng nhanh qua
    Tiễn chuột mừng trâu đến viếng nhà
    Vui Xuân hý hoạ vài câu đối
    Đón Tết nhâm nhi mấy chén trà
    Xúc cảnh lời vàng bay bỗng mãi
    Tri tình bút ngọc toả lan xa
    Nắn nót bài thơ xin chúc Bác
    Thi ca đám trẻ chạy theo già.
    Sương Anh

    4.c BÁC LÁ YÊU DẤU ! (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng)

    Bác Lá vui đùa bạn hữu đông
    Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ?
    Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm
    Lời ngay nẻo phải khó tương đồng
    Tình ơi kính Lão đời thanh thản
    Bạn hởi thương người nước đục trong
    Chờ Rơi ở lại đừng xa nhé
    Bé tịt hồn thơ muối xát lòng.
    Vancali 9.23.08

    4.d ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc)

    Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (bỏ Luật ở chữ Lăng
    Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm
    Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu
    Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm
    Hảo điểu nghinh xuân ca hậu viện
    Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm
    Khách đáo đãn tri lưu nhất túy
    Bàn trung chi hữu thủy tinh diêm.
    Lý Bạch

    ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG

    Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
    Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
    Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
    Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
    Đón xuân chim quý ca sau viện
    Mời rượu hoa bay múa trước hiên
    Khách đến nài nhau say một bữa
    Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền


    THƠ ĐƯỜNG LUẬT

    CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ



    Thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Tổng cộng có 56 chữ.

    Về cách phối âm, hay luật bằng trắc giữa các câu, ta chỉ nói các thanh Bằng-Trắc của các chữ đứng thứ 2-4-6 trong 1 câu (theo quy tắc Nhất-tam-ngũ bất luận, nhị-tứ-lục phân minh). Các tiếng 2-4-6 trong cùng 1 câu theo thứ tự luật bằng trắc có thể là B - T - B hay có thể là T - B - T.
    Ví dụ:
    Quanh năm buôn bán ở mom sông B - T - B
    Nuôi đủ năm con với một chồng T - B - T

    Đôi khi trong câu đầu tiên của bài thơ cũng có thể làm theo thứ tự B - B - T, cũng có thể xem đó là luật phối thanh của câu T - B - T. Ví dụ:
    Một đèo, một đèo, lại một đèo B - B - T

    Về cách gieo vần trong thơ: Vần trong thơ là những tiếng đọc giống nhau hay những tiếng đọc gần giống nhau như cùng một vần, hay là vần gần giống nhau mhư sông-chồng, tà-hoa.... Các vần giống nhau trong thơ Đường luật mang thanh bằng, và được đặt ở cuối mỗi câu thơ. Có thể gieo vần vào các tiếng cuối của các câu 1-2-4-6-8, hay có thể là 2-4-6-8, và các vần phải vần với nhau rõ ràng,các tiếng cuối câu 3-5-7 còn lại phải mang thanh trắc, các cao nhân thời xưa thường hay gieo vần vào các tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8. Ví dụ:
    Sóc phong suy hải khí lăng lăng
    Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
    Ngạc đoạn, kình khoa sơn khúc khúc
    Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
    Quan hà Bách nhị do thiên thiết
    Hào kiệt công danh thử địa tằng
    Vãn sự hồi đầu ta dĩ hĩ
    Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng
    (Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trãi)

    Trong khi gieo vần thường các cao nhan cũng chú ý đối thanh trong thơ, thường có 2 cách đối thanh, đó là đối thanh huyền (H) và thanh ngang (N) trong các vần được gieo. Ở bài thơ ví dụ trên ta thấy lăng-Đằng-tằng-tằng-thăng theo thứ tự N-H-H-H-N. Còn cách đối kách là xen kẽ thanh huyền và thanh ngang với nhau. Ví dụ như bài Qua đèo ngang của bà huyện Thanh Quan.

    Phép đối trong thơ thất ngôn bát cú, là đối giữa các câu 3-4, 5-6. Các câu này đối lại nhau như các câu đối thời xưa. Rõ nhất là về các câu trong bài Qua đèo Ngang. Về bố cục thì bài thơ được chia làm 4 mỗi phần có 2 câu:
    Câu 1-2 là hai câu đề: Mở ra vấn đề về bài thơ
    Câu 3-4 là hai câu thực: Giải thích về vẫn đề
    Câu 5-6 là hai câu luận: Bàn luận về vấn đề
    Câu 7-8 là hai câu kết: Kết luận lại vấn đề

    I CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT

    Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần thì có 3 cách:
    Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc)
    Ví dụ:

    Thân em vừa trắng lại vừa tròn
    Bảy nổi ba chìm với nước non
    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
    Mà em vẫn giữ tấm lòng son

    Cách này thường được các cao nhân thời xưa xử dụng nhiều nhất.

    Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ:

    Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
    Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
    Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

    Cách này thường được Hồ Chí Minh sử dụng.

    Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ:

    Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
    Qua những sân cung rộng hải hồ
    Có phải A Phòng hay Cô Tô ?
    Lá liễu dài như một nét mi

    Cách này ít người sử dụng.

    Nói chung thơ này giống với thơ thất ngôn bát cú.

    I CÁCH LÀM THƠ NGŨ NGÔN

    Thơ ngũ ngôn Đường luật cũng giống thơ thất ngôn Đường luật, hoàn toàn giống về niêm, về cách gieo vần, nhưng về bắng trắc thì chỉ có 2 tiếng 2-4 nên theo thứ tự B-T hay là T-B, cứ như thế.
    Ví dụ:

    Đoạt sóc Chương Dương độ
    Cầm hồ Hàm Tử quan
    Thái bình nghi nổ lực
    Vạn cổ thử giang san.

    CÁCH NGẮT NHỊP THƠ
    Đọc thơ phải đúng cách, đó là đọc đúng cách ngắt nhịp trong thơ để có thể cảm nhận hết được những ý tứ của tá gỉ trong thơ.
    Cách ngắt nhịp thường gặp trong thơ thất ngôn Đường luật là nhịp chắn: nhịp 2/2/3 hay còn gọi là nhịp 4-3.Ví dụ:

    Một đèo / một đèo / lại một đèo

    Nhưng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ý tác giả.
    Cách ngắt nhịp thơ ngũ ngôn theo nhịp 2/3.
    Cách ngắt nhịp giúp ta hiểu rõ thơ hơn, cảm nhận hết ý tứ thơ.

    SONG THẤT LỤC BÁT
    Song Thất Lục Bát . Có 4 câu : hai câu đầu 7 chữ, câu thứ ba 6 chữ, câu cuối 8 chữ
    Luật Bằng trắc :


    Luật :

    x = Không qui luật ( Bằng hoặc Trắc cũng được )

    B = Bằng ( là những chữ không dấu hoặc có dấu huyền )

    T = Trắc ( là những chữ có dấu Sắc, Hỏi , Ngã , Nặng )T1= Vần Trắc ......T1 ( chữ thứ 7 ) của câu 1 phải vần với T1 ( chữ thứ 5 ) của câu 2 B2= Vần Bằng .....Chữ thứ 7 của câu 2 ..vần với chữ thứ 6 cuả câu 3 ......Chữ thứ 6 của câu 4 vần với chữ thứ 6 của câu 3




    Vần

    Chữ thứ 5 của câu 2 ( tháng ) vần với chữ thứ 7 của câu 1( ngán )

    Chữ cuối cùng của câu 3 ( ca ) vần với chữ cuối của câu 2 ( qua )

    Chữ thứ 6 của câu 4 ( xa ) vần với chữ cuối của câu 3 ( ca )

    Note : Câu 3 và câu 4 làm theo thể thơ Lục Bát



    Âm Khúc :

    Chia từng câu thành những khúc nhỏ ..... trong Song Thất Lục Bát chia câu số 1 thành hai khúc và dùng lời thơ để nhấn mạnh từng khúc :

    Câu 1 :

    Đông đã đến / bao mùa ngao ngán

    Câu 2 :

    Nhớ thương người, / bao tháng năm qua

    Câu 3 :

    Phổ cầm / khúc tuyệt / tình ca

    Câu 4 :

    Nhỏ giòng / máu thắm / xót xa / đoạn trường
    BaoChau thích bài này.
  3. Lão Tử Thành viên

    Thơ lục bát và thơ Song thất lục bát

    là hai thể thơ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng ta chẳng còn xa lạ gì với thể lục bát, vì nó là những bài ca dao hàng ngày ta vẫn nghe ông bà ngâm nga, thơ song thất lục bát thì ta đã được học trong chương trình lớp 10 ở trường phổ thông. Sau đây ta cùng tìm hiểu về cách làm hai thể thơ này để phát huy thêm một nét văn hoá của người Việt chúng ta.

    I. CÁCH LÀM THƠ LỤC BÁT


    Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác. Thơ lục bát tuân thủ luật về thanh và vần rất nghiêm ngặt, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.


    A - Luật thanh trong thơ lục bát


    Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận, nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:
    Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) - Trắc (T) - Bằng
    Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B

    Ví dụ:


    Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân B - T - B
    Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều B-T-B-B



    Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.
    Ví dụ:


    Có sáo thì sáo nước trong T-T-B

    Đừng sáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B



    hay:


    Con cò lặn lội bờ sông
    Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B


    B - Cách gieo vần trong thơ lục bát


    Thơ lục bát cí cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thiw lụch bát tính linh hoạt về vần.
    Cách gieo vần: Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế nó. Và tiếng thứ tám câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp. Ví dụ (những từ in nghiêng hay đậm là vần với nhau):


    Trăm năm trong cõi người ta
    Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
    Trải qua một cuộc bể dâu
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng


    Trong thể thơ lục bát biến thể vẫn gieo vần như vậy, nhưng trường hợp câu bát của cặp câu có thanh là t-b-t-b thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó.
    Ví dụ:


    Con cò mà đi ăn đêm
    Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.



    Tiểu đối trong thơ lục bát:
    Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) cảu câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.

    Ví dụ:


    Đau đớn thay phận đàn bà
    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.



    Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát:
    Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn.

    II. CÁCH LÀM THƠ SONG THẤT LỤC BÁT



    Thơ song thất lục bát là thơ gồm có 4 câu đi liền với nhau, trong đó là hai câu 7 tiếng (câu thất 1 và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát.
    Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Tôi chỉ đề cập đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 như các thể thơ khác mà lại chú ý vào các tiếng 3-5-7.
    Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là T-B-T

    Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là B-T-B

    Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.
    Ví dụ:


    Lòng này gửi gió đông có tiện T-B-T

    Nghìn vàng xin gửi đến non yên B-T-B


    Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhưng thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng.
    Tiếng thứ 7 của câu thất 1 thanh trắc vần với tiếng thứ 5 thanh trắc của câu thất 2. Tiếng thứ 7 của câu thất 2 thanh bằng vần với tiếng thứ 6 câu lục kế.
    Ví dụ:


    Lòng này gửi gió đông có tiện
    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
    Non Yên dù chẳng tới miền
    Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời.


    Trong bài thơ có nhiều câu thơ song thất lục bát thì để nối hai nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp.
    Ví dụ:


    Lòng này gửi gió đông có tiện
    Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
    Non Yên dù chẳng tới miền
    Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời
    Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu...


    Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.
    BaoChau thích bài này.
  4. Lão Tử Thành viên

    THƠ TỰ DO

    Thơ vần "ôm"(dành cho các thể thơ 7 chữ-8 chữ-4 chữ-5 chữ...(tự do)

    Tuy nói là thơ tự do,nhưng nó cũng phải theo 1 quy luật của nó .Vần ôm là khi câu thứ nhất cùng vần với câu thứ 2.
    Ví dụ:

    Muộn màng làm sao bài thơ tôi viết
    Để giờ này hối tiếc những ngày qua
    Người đã xa tất cả cũng sẽ xa
    Chỉ còn tôi với bài thơ viết dở

    Biết làm sao khi tôi lầm lỡ
    Tự chôn vùi hồn xuống huyệt sâu
    Biết làm sao,ta khóc vì đâu
    Không hiểu nỗi,trọn đời không giải thích

    Chuyện của tôi không như trong cổ tích
    Kết thúc buồn còn không hiểu vì sao
    Bài thơ tặng người tôi ấp ủ biết bao
    Sao không thể trao đến người được.

    Có khi nào nhìn bầu trời phía trước
    Người chạnh lòng nhớ người ở phương xa?
    Có khi nào trên đường phố xa hoa
    Người bước đi mong có tôi bên cạnh?

    Và giờ đây giữa trời đông giá lạnh
    Tôi muốn mình cũng lạnh giá như băng
    Lòng nhủ thầm:trời sắp sửa sang xuân
    Tôi cũng sẽ trở về tôi ngày trước

    Nhưng ngày mai tôi làm sao biết được
    Tôi là tôi của ngày tháng năm nao?

    Tôi thấy mình sao quá trời tự cao
    Mà cũng phải hạ mình...xin lỗi
    Người không thương mà còn nỡ lối
    Khép tôi vào tội lỗi đáng trách nguyền
    Biết làm sao yêu mến sai duyên
    Nên chỉ có mình tôi hối tiếc.
    (Nanh)

    Vần chéo

    Vần chéo là khi câu thứ 1 cùng vần với câu thứ 3,hoặc câu thứ 2 cùng vần với câu thứ tư.Ví dụ:

    Sương giăng đầy góc phố
    Biết là đã mùa thu
    Gió lùa vào tóc rối
    Lạnh buốt hồn tương tư
    Đêm,trăng sao đi vắng
    Không gian bỗng não nề
    Một vùng đầy khoảng lặng
    Tình ta chết đê mê

    Ở nơi đây sương gió
    Lạnh giá con đường quen
    Còn phương trời lạ đó
    Anh có nhớ đến em?
    BaoChau thích bài này.
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này