I. Thơ cổ phong (hay cổ thể) Cổ phong là lối thơ có từ những triều đại trước. Trong thơ cổ phong, người ta chia ra hai loại cho dễ nhớ: thơ cổ phong năm lời (ngũ ngôn) và bảy lời (thất ngôn). Thơ cổ phong khác với thơ luật ở chỗ thơ chỉ cần vần chứ không cần phải theo luật bằng, trắc. Khác với thơ luật, thơ cổ phong có thể dài ngắn khác nhau, có loại bài ngắn (đoản thiên), và bài dài (trường thiên). Số câu trong cổ phong cũng không quy định cụ thể. Đoản thiên có thể bốn câu, sáu câu, tám câu hoặc trên mười câu... Trường thiên là những bài thơ dài, nghiêng về trần thuật, hoặc biểu cảm liên tục trước một đề tài không dứt, do đó cũng cần phải có từng phần, mạch lạc, có cấu trúc hợp lý... Vần trong thơ cổ phong cũng tự do hơn. Có thể là bài thơ chỉ dùng một vần (độc vận) trong cả bài. Cũng có thể thay nhiều vần (hoán vận) trong lúc viết (Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị). Vần bằng và vần trắc cũng có thể dùng riêng từng loại hay cả hai. Về lời trong câu thì được phép dài, ngắn khác nhau không phải nhất thiết năm hay bảy chữ (Tương Tiến Tửu của Lý Bạch)... Trong ngũ ngôn trường thiên có bốn điều cốt yếu được các nhà thơ hay vận dụng, gọi là thủ pháp chung cũng được. Đó là: Phân mạch: chia đoạn, chia tiết, chia câu trong bài. Quá mạch: chuyển tiếp các ý của phần đầu. Hồi chiếu: biểu hiện những tứ lạ, ý hay đã róng lên ở các phần trên, phát triển cho sâu sắc. Tán thán: những ý nghĩ, suy tưởng, cảm nhận xen cài vào các đoạn trên. Thất ngôn cổ phong thì các mạch đoạn cho rõ ràng, ý nghĩa càng thâm trầm, cao thoát. Nhiều ý vị ngoài bài thơ thì càng hay. So với thơ luật, thơ cổ phong phóng túng hơn, ít bị trói buộc trong niêm luật, câu chữ. Chính vì vậy mà tính hàm súc, cô đọng, những khe khắt đòi hỏi về đối ngẫu, luật thơ, âm nhạc không tập trung như thơ luật. Vả lại, thể cổ phong vốn cũng đã có từ các thời Hán, Tùy, trước, nên về sau lối thơ luật thịnh hành hơn cả... II. Thơ luật Thơ luật có từ thời nhà Đường nên cũng gọi là Đường Luật. Luật dựa trên những thanh bằng và thanh trắc trong một câu và niêm giữa các câu với nhau, tạo thành cấu trúc bắt buộc của bài thơ.Thơ luật gồm tám câu, cấu trúc quy định như sau: Phá: Câu mở đầu (cũng gọi là Phá đề) Thừa: Nhân ý câu phá mà chuyển tiếp Thực: Gồm hai câu 3, 4 phải đối nhau từng lời và ý, nói rõ chủ đề của bài thơ. Luận: Gồm hai câu 5, 6 cũng theo luật đối lời đối ý của các câu thực, nhằm tăng ý chính của bài. Kết: hai câu cuối cùng, chuyến ý và thâu tóm ý tưởng của bài thơ hoặc có một tứ lạ gây thêm cảm xúc cho người đọc. Thơ luật có thể năm lời (ngũ ngôn) và thể bảy lời (thất ngôn) * Ví dụ thơ thể ngũ ngôn: TỐNG HỮU NHÂN Thanh sơn hoành Bắc quách, Bạch thuỷ nhiễu Đông thành. Thử địa nhất vi biệt, Cô bồng vạn lý chinh. Phù vân du tử ý, Lạc nhật cố nhân tình. Huy thủ tự tư khứ, Tiêu tiêu ban mã minh. (Lý Bạch) TIỄN BẠN Chạy dài cõi Bắc non xanh, Thành Đông nước chảy quanh thành trắng phau. Nước non này chỗ đưa nhau, Một xa, muôn dặm biết đâu cánh bồng! Chia phôi khác cả mối long, Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà. Vẫy tay thôi đã rời xa, Nhớ nhau tiếng ngựa nghe mà buồn teo. (TẢN ĐÀ dịch) * Ví dụ thể thất ngôn: THU HỨNG Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu Sơn, Vu Giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm. (Đỗ Phủ) HỨNG THU Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu loà. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. Lạnh lùng giục kẻ tay đao thước, Thành Bạch, chầy vang bóng ác tà. (NGUYỄN CÔNG TRỨ dịch) III. Thơ tuyệt cú: Tuyệt cú theo nghĩa đen là ngắt câu. Là một thể thơ bốn câu, có thể là cổ phong hoặc thơ luật, nhưng ý tứ, ý nghĩa phải trọn vẹn, sâu sắc. Cũng phải có mở có kết, có thể hiện nội dung chủ đề mình định nói. Chẳng hạn như bài Tự Quân Chi Xuất Hỹ của Trương Cửu Linh: TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ Tự quân chi xuất hĩ Bất phục lý tàn ky. Tư quân như nguyệt mãn, Dạ dạ giảm thanh huy. TỪ THUỞ CHÀNG ÐI Từ ngày chàng bước chân đi, Cái khung dệt cửi chưa hề dúng (nhúng) tay. Nhớ chàng như mảnh trăng đầy, Ðêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm. (NGÔ TẤT TỐ dịch) Bài thơ nói được cái tình của người vợ mà lối ví von, hình ảnh vừa đẹp, vừa sâu sắc. Lời, kết cấu, ý tứ thật trọn vẹn, súc tích. Thơ tuyệt cú làm hay, thật khó. Nhưng trong thơ Đường, nhiều bài thơ tuyệt cú đã vượt được thử thách, lưu truyền hang ngìn năm, tính tư tưởng cao, hình ảnh đẹp và mãi mãi là những viên ngọc sáng giá. Lối làm thơ tuyệt cú có thể tuân theo luật bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối của ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Ở thể cổ phong, thơ tuyệt cú càng rộng rãi hơn, các câu thơ không cần đối, không phụ thuộc luật bằng trắc, miễn là ý tứ sâu sắc, lời đẹp, giầu âm điệu... Thơ tuyệt cú có bốn câu, do đó cũng gọi là tứ tuyệt. Thơ tuyệt cú đẹp như hoa một bông trên cành thắm, có thể nói trực diện, hoặc nói xa xôi mà ý tứ lại thâm trầm, đều được cả. Phong Kiều Dạ Bạc Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
THƠ ĐƯỜNG HAI CÁCH LÀM THƠ TNBC ĐƯỜNG LUẬT Hai bài viết : THƠ ĐƯỜNG : THẤY SAO NÓI VẬY và HỌC LÀM THƠ ĐƯỜNG như THI NHÂN ĐỜI ĐƯỜNG cho thấy phớt qua là có 2 cách làm một bài thơ TNBC Đường Luật, khó dễ khác nhau. Bài này xin nói rõ hơn về hai cách đó : * làm thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, nếu theo kiểu mẫu qui định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, thì tương đối gặp khá nhiều sự ràng buộc. * làm thơ TNBC Đường Luật theo kiểu mẫu thi nhân đời Đường áp dụng, thì cách thực hành đơn giản hơn nhiều, mà lại bao gồm luôn những cách chơi quy định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7. Để tránh lập lại những chi tiết dông dài, xin gọi tắt cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 là cách “theo Dải Số”, và cách chơi kia là cách “theo Đường Thi”. Hai cách làm 1 bài thơ TNBC Đường Luật nói trên, có sự khó dễ khác nhau theo từng bước như sau : Khi viết câu 1 và câu 2 : 1. Hai câu 1 và 2 không cần phải đối nhau. 2. Hai câu đều phải mang vần (chỉ nói về vần Bằng). Câu 1 có thể không có vần. 3. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng, một câu theo luật Trắc, Luật nào trên Luật nào dưới cũng đều được cả. 3 qui định trên đều áp dụng cho cả hai cách (“theo Dải Số” và “theo Đường Thi”). Ví dụ như câu 1 và câu 2 là : Lá úa lao xao vẩy phất phơ = (câu trên theo luật Trắc) Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão hoặc là : Một trời hương sắc một trời thơ = (câu trên theo luật Bằng) Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Khi viết câu 3 và câu 4 : 1. Hai câu 3 và 4 phải đối nhau. 2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc 3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách. 4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc, Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên (1 và 2) ra sao. Ví dụ dùng hai câu 1 và 2 của Đồng Lão : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu lấy hai câu 1 và 2 của Đồng Lão, thì câu 3 phải theo luật Bằng, câu 4 phải theo luật Trắc. Ví dụ : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Lưu ý là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” . Khi viết câu 5 và câu 6 : 1. Hai câu 5 và 6 phải đối nhau. 2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc 3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách. 4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc, Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao. Ví dụ, nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 4 câu trên của cách “theo Dải Số” , thì câu 5 phải theo luật Trắc, câu 6 phải theo luật Bằng. Ví dụ : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Nhắc lại là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” . Khi viết câu 7 và câu 8 : 1. Hai câu 7 và 8 không cần phải đối nhau. 2. Chữ thứ 7 của câu trên là một chữ Trắc 3. Chữ thứ 7 của câu dưới phải mang vần. 3 qui định này áp dụng cho cả hai cách. 4. hai câu phải khác Luật nhau, một câu theo luật Bằng một câu theo luật Trắc, Cách “theo Đường Thi” thì : Luật nào trên luật nào dưới cũng đều được cả, bất cứ là những câu trên ra sao. Ví dụ, nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số” : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Còn cách “theo Dải Số” thì đòi hỏi : nếu nối tiếp 6 câu trên của cách “theo Dải Số”, thì câu 7 phải theo luật Bằng, câu 8 phải theo luật Trắc. Ví dụ : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi 8 câu trên được Dải Số chấp nhận, vì thỏa mãn được mọi sự ràng buộc từ câu 3 trở xuống đến câu 8. Còn với cách chơi thoải mái “theo Đường Thi” , thì từ câu 3 trở xuống đến câu 8 có rất ít sự ràng buộc, và toàn bài thơ có thể như thế này : Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang 8 câu này trúng vào phép Niêm và Luật của bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy và bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch. Nhắc lại là cách chơi “theo Đường Thi” bao gồm luôn cách chơi “theo Dải Số” . Đi vào chi tiết để thấy rõ như sau : Về Niêm : Trên hai phần tứ cú của bài bát cú, thi nhân đời Đường dùng cả hai phép Niêm 1-4 2-3 và 1-3 2-4, đồng thời cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do dùng phép Niêm khác nhau. Do đó nên trên nguyên tắc, có cả thảy 4 dạng Niêm : 1/ trên Niêm 1-4 2-3, dưới Niêm 1-4 2-3 2/ trên Niêm 1-4 2-3, dưới Niêm 1-3 2-4 3/ trên Niêm 1-3 2-4, dưới Niêm 1-4 2-3 4/ trên Niêm 1-3 2-4, dưới Niêm 1-3 2-4 Về Luật : Thi nhân đời Đường cũng cho phép hai phần tứ cú (một trên một dưới) tự do theo Luật khác nhau. Nên trên nguyên tắc, cũng có cả thảy 4 dạng Luật : a/ trên theo Luật Bằng, dưới theo Luật Bằng b/ trên theo Luật Bằng, dưới theo Luật Trắc c/ trên theo Luật Trắc, dưới theo Luật Bằng d/ trên theo Luật Trắc, dưới theo Luật Trắc Bất cứ thể Niêm nào cũng đều mang theo một thể Luật nên sự pha trộn đầy đủ trên nguyên tắc sẽ cho 16 dạng Niêm + Luật là : 1.a, 1.b, 1.c, 1.d 2.a, 2.b, 2.c, 2.d 3.a, 3.b, 3.c, 3.d 4.a, 4.b, 4.c, 4.d Tổng cộng 16 dạng Niêm+Luật trên lý thuyết đó có thể mô tả với những cặp 2 câu thơ viết sẵn đã nêu ở phần trên như sau : 1.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + Thi Nang Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : (các con số chỉ phép Niêm, Bằng hay Trắc chỉ Luật) 1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng (đây là một bài TNBC đúng “theo Dải Số” ) - giống như bài KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ - 1.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + lá chờ rơi Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài HÀ TIỆN của Nguyễn Minh Triết - 1.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh - 1.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Lá chờ rơi Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Dải Số ) - giống như bài KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ - 2.a - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Hàn Phong + lá chờ rơi Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài ÐỘC TIỂU THANH KÝ của Nguyễn Du - 2.b - ráp các câu của : Chí Trung + TMH + Vancali + Thi Nang Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - tương tự như bài TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thich, bài của Cao Thích có Niêm + Luật tréo lại là (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng) - 2.c - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Lá chờ rơi Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh - 2.d - ráp các câu của : Đồng Lão + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài SỐNG ĐỜI TIÊN của lá chờ rơi - 3.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + Thi Nang Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch - 3.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + lá chờ rơi Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - tương tự như bài ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch, bài của Lý Bạch có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng) - 3.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Thi Nang Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ - 3.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Lá chờ rơi Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Trắc, 1-4 2-3 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài DĨ HÒA VI QUÝ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm - 4.a - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Hàn Phong + lá chờ rơi Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - Niêm giống như bài CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy nhưng khác Luật, bài của Vương Duy có Niêm + Luật là (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) – 4.b - ráp các câu của : Chí Trung + Vũ Kim Thanh + Vancali + Thi Nang Một trời hương sắc một trời thơ Dâu bể từng phen lúc tỏ mờ - Chí Trung Khung trời xướng họa đâu eo hẹp Nghĩa cũ tình xưa đẹp tới giờ - Vũ Kim Thanh Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài VUI XUÂN CON TRÂU của Sương Anh - 4.c - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Hàn Phong + Lá chờ rơi Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Tam phân thiên hạ điều lo thực Tứ hải giai huynh sự tưởng mơ – Hàn Phong Như hồn thơ dậy trong tiền kiếp Còn chút dư âm mãi đến giờ ! – lá chờ rơi Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài BÁC LÁ YÊU DẤU ! của Vancali - 4.d - ráp các câu của : Đồng Lão + TMH + Vancali + Thi Nang Lá úa lao xao vẩy phất phơ Nơi vườn hoang lặng sắc tiêu sơ - Đồng Lão Chẳng nhớ sao ngày luôn ngóng đợi. Chưa yêu sao tối mãi trông chờ. - Trần Mạnh Hùng Đáy giếng nhìn trăng mây trộn nước Đầu song đón gió mộng tìm mơ - Vancali Dẫu đã xa rồi nhưng nhớ mãi Từ khi cách biệt đến bây giờ - Thi Nang Niêm + Luật của hai bài tứ cú trên và dưới là : 1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc. (đây là một bài TNBC đúng “theo Đường Thi” ) - giống như bài ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch - ******* Tất cả 16 bài TNBC trên đây đều có âm điệu hài hòa. Phép Niêm 1-3 2-4 là một trong 2 phép Niêm chính thống của thơ Tứ Tuyệt. Dải Số không dùng nhưng thi nhân đời Đường vẫn dùng. Ngoài ra những nơi có sự đổi Niêm, đổi Luật đều không hề gây ra sự chói tai, khổ độc nào, mà có khi lại cho người đọc cái cảm giác nghe hay hơn, nhờ sự “đổi mới” thay vì sự “nhàm chán” khi gặp hoài một “điệu thơ cũ” dù là hay đến mấy. Như mọi người có thể nhận ra là phép chơi “theo Đường Thi” không cần biết các câu phía trên theo luật nào, những câu thơ từ 1 đến 8 sẽ như sao và sẽ đan kết với nhau ra sao. Cứ tự nhiên để cho hứng thơ, tứ thơ đun đẩy mà viết mỗi cặp với 1 câu Trắc 1 câu Bằng, thì có thể hoàn toàn yên trí rằng, khi xong hết 8 câu, chúng sẽ tạo ra hai phần tứ cú đúng Niêm 1-4 2-3 hoặc 1-3 2-4. Cái dễ của cách chơi “theo Đường Thi” là như vậy. Nhưng dùng cách chơi này là chấp nhận cách chơi của thi nhân đời Đường. Phần lớn các tác phẩm sẽ khác với cách chơi “theo Dải Số” . Trung bình cứ 16 bài thì mới có 2 bài “theo Dải Số” . Những tác phẩm “không theo Dải Số” có thể sẽ bị coi là “thất niêm” bởi những người trung thành với dải số. Tiếng “phá cách” thì họ để dành gọi những tác phẩm của các đại thi nhân tiền bối đời Đường với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật”. Thơ của bọn mình thì chưa có cái vinh hạnh được gọi là thơ phá cách ! Nhưng việc gọi những bài thơ nằm ngoài dải số là thơ “thất niêm, phá cách hay thơ Cổ Phong” là một sự sai lầm hoàn toàn. Phần trình bày về 16 cách chơi “theo Đường Thi” trên đây đã chứng tõ rằng đó là những bài thơ Đường Luật. Dải số không bao gồm được hết 16 cách Niêm Luật ấy, thì đó là việc của dải số. Vậy : CHÍNH DANH “ĐƯỜNG LUẬT” LÀ ĐÂU ? Chắc mọi người đều đồng ý với Quách-Tấn trong định nghĩa trích dẫn sau đây : “Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.” (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 3 * những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công thì hẳn là phải lấy từ các bài Đường Thi còn lưu truyền đến nay. Và cách chơi “theo Đường Thi” mô tả trên đây chỉ là “thấy sao nói vậy” về những kinh nghiệm kỹ thuật đã thành công của thi nhân đời Đường. Đường Luật lấy ra từ phần kỹ thuật của Đường Thi là như thế. Còn việc sau đó Đường Luật bị thay đổi do nhu cầu nọ kia (ví dụ như do nhu cầu chấm thi của giới quan trường) để trở thành Đường Luật mà dải số đang theo thì đó là việc khác. Nếu cần chính danh cho dải số thì đó là việc của những người theo dải số. Rất có thể là có một đạo luật nào đó của triều đình đã quy định những điều phải học về thơ Đường là như vậy. Nhưng dù sao thì cũng xin nêu lại những điểm vô lý đã ăn sâu vào quan điểm của khá nhiều người, khi gọi những bài thơ Đường chính thống ấy là Thất Niêm, Phá Cách, hay thơ Cổ Phong như sau : * sao gọi được là “thất Niêm” khi bài thơ sử dụng 2 phép Niêm chính thống của thơ tứ cú là 1-4 2-3 và 1-3 2-4 ? Dải số cũng dùng 1 trong hai phép Niêm đó (1-4 2-3) thì sao ? Chỉ có thể gọi là thất Niêm khi trong phần tứ cú, câu 1 niêm với câu 2 (1-2), hoặc câu 3 niêm với câu 4 (3-4), hoặc cả 4 câu 1-2-3-4 đều cùng theo một luật (1-2-3-4). * sao gọi được là ‘phá cách’ khi những cách chơi đa dạng đều đi theo một nguyên tắc rõ ràng là : cho phép hai phần tứ cú được tự do theo Niêm, theo Luật khác nhau, với sự pha trộn mọi cách Niêm + Luật. Không biết dải số căn cứ vào đâu mà chỉ dùng 2 trong số 16 cách Niêm + Luật trên lý thuyết của Đường Thi. Đường Thi là gốc, đáng lẽ dải số phải theo. Nhưng vì một lý do gì đó mà dải số không theo. Vậy sự “phá cách” chính là do dải số. * Những đặc điểm của thơ Cổ Phong là : được dùng nhiều vần, được dùng số câu khác nhau 6, 8, 10, 12, không cần có đối, không cần theo Niêm Luật. Vậy tại sao trong số bị gọi là thơ Cổ Phong lại chẳng có bài nào có 2 vần ? chẳng có bài nào có số câu là 6, 10, 12 ? chẳng có bài nào không có đối ở các cặp 3-4 và 5-6 của bài bát cú ? chẳng có bài nào có được vài câu với nhì-tứ-lục chẳng phân minh một cách hiển nhiên? (không kể những câu tác giả cố ý bỏ luật 1 chữ để bảo toàn ý nghĩa). Ngày nay thơ Đường chỉ dùng cho sự tiêu khiển của những người yêu thơ. Mọi người tự do chọn hướng đi của mình. Chẳng ai đả kích người chơi theo dải số. Họ có thể được hoan hô với chủ trương thích tìm cái khó để chơi, để trao dồi….. Còn sự gieo tiếng xấu cho Đường Thi là “thất Niêm, phá cách, thơ Cổ Phong” cũng chẳng biết do đâu, nhưng cũng chẳng có gì quan trọng. Vì những sự phân tách mỗ xẻ phần kỹ thuật Đường Thi, như vừa lập lại trên đây, đã cho thấy rõ ràng đâu là sự thật đâu là ác ý. Sự làm thơ cốt là để giúp chúng ta vui chơi trong sự thoải mái. Mà thơ thì có nhiều khuynh hướng khác nhau. Ai muốn làm thơ theo dải số thì cứ theo. Ai muốn làm thơ theo Đường Thi thì cũng không ai cấm cản. Và có một điểm chung quan trọng : là mọi người đều có bổn phận cống hiến cho Làng thơ những bài thơ hay để thưởng thức. Rất cám ơn quý bạn Đồng Lão, Vũ Kim Thanh, Trần Mạnh Hùng, Hàn Phong, Vancali, Thi Nang và Chí Trung đã soạn giúp cho những cặp 2 câu thơ dùng trong phần giải thích trên. Thân ái chào tất cả quý bạn đã bỏ công ra đọc bài này. Lá chờ rơi 23/08/09 &&&&&&&& Phụ lục : Nguyên văn những bài thơ chỉ mới kê tên nơi phía trên : (trong ngoặc : các con số là phép Niêm của từng phần tứ cú, Bằng hay Trắc là Luật của phần tứ cú đó.) 1.a KHÚC GIANG NHỊ THỦ - kỳ nhị (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Bằng) Triều hồi nhật nhật điển xuân y Mỗi nhật giang đầu tận túy quy Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hi Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển = bỏ luật chữ thứ 6 Tạm thời tương thưởng mạc tương vi. Ðỗ Phủ BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai) Mỗi buổi chầu lui thường cố áo (cố = cầm cố) Bên sông say khướt mới ra về Vài ba nợ rượu đâu không có Bẩy chục đời người dễ mấy khi Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi Ðược lúc vui chơi há ngại gì. Bùi Khánh Ðản 1.b HÀ TIỆN (1-4 2-3 Bằng, 1-4 2-3 Trắc) Giàu thì ba bữa khó thì hai Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy Nón đổi lá ngoài quần đổi ống Dép thay da mặt túi thay quai Dặn vợ có cà đừng gắp mắm Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai Thế gian mặc kẻ cười hà tiện Ta chẳng phiền ai chẳng lụy ai. Nguyễn-Minh-Triết 1.c VĂN LÂN GIA LÝ TRANH (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Bằng) Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan Hốt văn họa các Tần tranh dật Tri thị lân gia Triệu nữ đàn Khúc thành hư ức song nga liễm Điệu cấp giao liên ngọc chỉ hàn Ngân thược trùng quan thính vị tịch Bất như miên khứ mộng trung khan. Từ An Trinh NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan Buồn trong trăng sáng ý mơ màng Chợt nghe gác họa âm Tần vọng Mới biết nhà bên gái Triệu đàn Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc Điệu mau e buốt ngón tay vàng Lắng nghe then khóa còn chưa mở Ngủ quách may ra mộng gặp nàng. Đinh Vũ Ngọc 1.d KHÚC GIANG ĐỐI TỬU (1-4 2-3 Trắc, 1-4 2-3 Trắc) Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy Thủy tinh cung điện chuyển phi vi Ðào hoa tế trục dương hoa lạc Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí Lãn triều chân dữ thế tương vi Lại tình cánh giác Thương Châu viễn Lão đại đồ thương vị phất y. Ðỗ Phủ UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang Thủy tinh cung điện bóng mờ gương Hoa tơi tả rụng đào chen liễu Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng Chén rượu thường say người đã chán Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương. Bùi Khánh Ðản 2.a ÐỘC TIỂU THANH KÝ (1-4 2-3 Bằng, 1-3 2-4 Bằng) Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kỳ oan ngã tự cư Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Nguyễn-Du 2.b TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng) Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy Xuân phong tống khách sử nhân bi Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại Luân giao khước ức thập niên thì Vân khai Mấn Thủy cô phàm viễn Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì Thử địa tòng lai khả thừa hứng = bỏ luật chữ thứ 6 Lưu quân bất trú ích thê kỳ. Cao Thích TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương Chia ly ngàn dặm bao đau xót Gắn bó mười năm mấy vấn vương Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường Nơi đây ngày trước cùng vui thú Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn ! Đinh Vũ Ngọc 2.c ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Bằng) Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy Điền viên dĩ hãm bách trùng vi Bình vô vạn lý hà nhân khứ Lạc nhật thiên sơn không điểu phi Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu Cực phố thương thương viễn thụ vi Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi Vị tảo Sam Thương lãn tức ky. Lưu Trường Khanh LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC Lầu sông lệ cạn trông về Bắc Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây Vạn dặm đồng không người chẳng đến Nghìn non chiều xuống chim còn bay Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh Bến cũ xanh xanh cây mọc dày Âu trắng ngư ông xin hãy đợi Chưa qua hoạn nạn khó về ngay. Đinh Vũ Ngọc 2.d SỐNG ĐỜI TIÊN (1-4 2-3 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) (thân tặng Thảo My) Có một nàng thơ đang ngủ yên Say nồng quên tỉnh giấc cô miên Đầu xuân nên tránh tìm thương ghét Sắp Tết đừng quên chúc bạc tiền Ông muốn ăn nem nhiều kẻ trách Bà không nếm chả chẳng ai phiền Chín bỏ làm mười hung hóa kiết Gìn lòng “vô hận” kiếp thần tiên*. Lá chờ rơi 23/01/08 * nhẫn nhẫn nhẫn, vô hận thần tiên tùng thử đắc ! (Minh Tâm Bửu Giám) 3.a KÝ THÔI THỊ NGỰ (1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng) Uyển khê sương dạ thính viên sầu Khứ quốc trường như bất hệ châu Độc liên nhất nhạn phi Nam độ Khước tiện song khê giải Bắc lưu Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp Triêu triêu phân tán Kính Đình thu. Lý Bạch GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê Như thuyền không buộc mãi xa quê Nhạn đành lẻ một phương Nam đến Suối chẳng chung đôi đất Bắc về Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề Nơi đây lá rụng cùng chia biệt Núi Kính Đình thu vẫn cách ly. Đinh Vũ Ngọc 3.b ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI (1-3 2-4 Bằng, 1-4 2-3 Bằng) Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du Phượng khứ đài không giang tự lưu Ngô cung hoa thảo mai u kính Tấn đại y quan thành cổ khâu Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại Nhị thủy trung phân bạch lộ châu Tổng vị phù vân năng tế nhật Trường An bất kiến sử nhân sầu. Lý Bạch LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng Phượng bay lầu trống với trường giang Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang Ô hay mây nổi che trời sáng Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan. Đinh Vũ Ngọc 3.c HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng) Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi Phong lưu nho nhả diệc ngô sư Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ Tiêu điều dị đại bất đồng thì Giang san cố trạch không văn tảo Vân vũ hoang đài khởi mộng tư Tối thị Sở cung câu dẫn diệt Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi. Đỗ Phủ NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời Sông núi nhà xưa văn vẻ đó Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi Thương thay cung Sở tiêu tan hết Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ. Đinh Vũ Ngọc 3.d DĨ HÒA VI QUÝ (1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Trắc) Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu Làm chi cho có sự đôi co Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn Ðấy rằng đấy phải đấy không thua Duật nọ hãy còn đua đến bạng Lươn kia hầu dễ kém chi cò Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý Vô sự thì hơn khỏi phải lo. Nguyễn-Bỉnh-Khiêm 4.a CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) Chước tửu dữ quân quân tự khoan Nhân tình phiên phúc tự ba lan Bạch thủ tương tri do án kiếm Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp Hoa chi dục động xuân phong hàn Thế sự phù vân hà túc vấn Bất như cao ngọa thả gia xan. Vương Duy RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH Mời anh cạn chén để nguôi sầu Tráo trở tình đời khác sóng đâu Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm Cửa son hiển đạt lại cười nhau Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu. Đinh Vũ Ngọc 4.b VUI XUÂN CON TRÂU (1-3 2-4 Bằng, 1-3 2-4 Trắc) Không chờ chẳng đợi cũng nhanh qua Tiễn chuột mừng trâu đến viếng nhà Vui Xuân hý hoạ vài câu đối Đón Tết nhâm nhi mấy chén trà Xúc cảnh lời vàng bay bỗng mãi Tri tình bút ngọc toả lan xa Nắn nót bài thơ xin chúc Bác Thi ca đám trẻ chạy theo già. Sương Anh 4.c BÁC LÁ YÊU DẤU ! (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Bằng) Bác Lá vui đùa bạn hữu đông Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ? Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm Lời ngay nẻo phải khó tương đồng Tình ơi kính Lão đời thanh thản Bạn hởi thương người nước đục trong Chờ Rơi ở lại đừng xa nhé Bé tịt hồn thơ muối xát lòng. Vancali 9.23.08 4.d ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ (1-3 2-4 Trắc, 1-3 2-4 Trắc) Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (bỏ Luật ở chữ Lăng Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm Hảo điểu nghinh xuân ca hậu viện Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm Khách đáo đãn tri lưu nhất túy Bàn trung chi hữu thủy tinh diêm. Lý Bạch ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền Về ẩn Đông Khê trải mấy niên Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm Đón xuân chim quý ca sau viện Mời rượu hoa bay múa trước hiên Khách đến nài nhau say một bữa Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền THƠ ĐƯỜNG LUẬT CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ Thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Tổng cộng có 56 chữ. Về cách phối âm, hay luật bằng trắc giữa các câu, ta chỉ nói các thanh Bằng-Trắc của các chữ đứng thứ 2-4-6 trong 1 câu (theo quy tắc Nhất-tam-ngũ bất luận, nhị-tứ-lục phân minh). Các tiếng 2-4-6 trong cùng 1 câu theo thứ tự luật bằng trắc có thể là B - T - B hay có thể là T - B - T. Ví dụ: Quanh năm buôn bán ở mom sông B - T - B Nuôi đủ năm con với một chồng T - B - T Đôi khi trong câu đầu tiên của bài thơ cũng có thể làm theo thứ tự B - B - T, cũng có thể xem đó là luật phối thanh của câu T - B - T. Ví dụ: Một đèo, một đèo, lại một đèo B - B - T Về cách gieo vần trong thơ: Vần trong thơ là những tiếng đọc giống nhau hay những tiếng đọc gần giống nhau như cùng một vần, hay là vần gần giống nhau mhư sông-chồng, tà-hoa.... Các vần giống nhau trong thơ Đường luật mang thanh bằng, và được đặt ở cuối mỗi câu thơ. Có thể gieo vần vào các tiếng cuối của các câu 1-2-4-6-8, hay có thể là 2-4-6-8, và các vần phải vần với nhau rõ ràng,các tiếng cuối câu 3-5-7 còn lại phải mang thanh trắc, các cao nhân thời xưa thường hay gieo vần vào các tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8. Ví dụ: Sóc phong suy hải khí lăng lăng Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng Ngạc đoạn, kình khoa sơn khúc khúc Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng Quan hà Bách nhị do thiên thiết Hào kiệt công danh thử địa tằng Vãn sự hồi đầu ta dĩ hĩ Lâm lưu phủ cảnh ý nan thăng (Bạch Đằng hải khẩu - Nguyễn Trãi) Trong khi gieo vần thường các cao nhan cũng chú ý đối thanh trong thơ, thường có 2 cách đối thanh, đó là đối thanh huyền (H) và thanh ngang (N) trong các vần được gieo. Ở bài thơ ví dụ trên ta thấy lăng-Đằng-tằng-tằng-thăng theo thứ tự N-H-H-H-N. Còn cách đối kách là xen kẽ thanh huyền và thanh ngang với nhau. Ví dụ như bài Qua đèo ngang của bà huyện Thanh Quan. Phép đối trong thơ thất ngôn bát cú, là đối giữa các câu 3-4, 5-6. Các câu này đối lại nhau như các câu đối thời xưa. Rõ nhất là về các câu trong bài Qua đèo Ngang. Về bố cục thì bài thơ được chia làm 4 mỗi phần có 2 câu: Câu 1-2 là hai câu đề: Mở ra vấn đề về bài thơ Câu 3-4 là hai câu thực: Giải thích về vẫn đề Câu 5-6 là hai câu luận: Bàn luận về vấn đề Câu 7-8 là hai câu kết: Kết luận lại vấn đề I CÁCH LÀM THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật gồm có 4 câu, mỗi câu 7 chữ, về phối thanh hay luật bằng trắc hoàn toàn giống thơ thất ngôn bát cú. Về gieo vần thì có 3 cách: Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1-2-4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc) Ví dụ: Thân em vừa trắng lại vừa tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son Cách này thường được các cao nhân thời xưa xử dụng nhiều nhất. Gieo vần chéo: vào tiếng cuối các câu 1-3 (tiếng cuối các câu 2-4 phải là thanh trắc) hay các câu 2-4 (tiếng cuối các câu 1-3 phải là thanh trắc). Ví dụ: Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân Cách này thường được Hồ Chí Minh sử dụng. Gieo vần ôm: Tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3. Ví dụ: Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi Qua những sân cung rộng hải hồ Có phải A Phòng hay Cô Tô ? Lá liễu dài như một nét mi Cách này ít người sử dụng. Nói chung thơ này giống với thơ thất ngôn bát cú. I CÁCH LÀM THƠ NGŨ NGÔN Thơ ngũ ngôn Đường luật cũng giống thơ thất ngôn Đường luật, hoàn toàn giống về niêm, về cách gieo vần, nhưng về bắng trắc thì chỉ có 2 tiếng 2-4 nên theo thứ tự B-T hay là T-B, cứ như thế. Ví dụ: Đoạt sóc Chương Dương độ Cầm hồ Hàm Tử quan Thái bình nghi nổ lực Vạn cổ thử giang san. CÁCH NGẮT NHỊP THƠ Đọc thơ phải đúng cách, đó là đọc đúng cách ngắt nhịp trong thơ để có thể cảm nhận hết được những ý tứ của tá gỉ trong thơ. Cách ngắt nhịp thường gặp trong thơ thất ngôn Đường luật là nhịp chắn: nhịp 2/2/3 hay còn gọi là nhịp 4-3.Ví dụ: Một đèo / một đèo / lại một đèo Nhưng đôi khi cũng có thể làm nhịp 3-4 theo dụng ý tác giả. Cách ngắt nhịp thơ ngũ ngôn theo nhịp 2/3. Cách ngắt nhịp giúp ta hiểu rõ thơ hơn, cảm nhận hết ý tứ thơ. SONG THẤT LỤC BÁT Song Thất Lục Bát . Có 4 câu : hai câu đầu 7 chữ, câu thứ ba 6 chữ, câu cuối 8 chữ Luật Bằng trắc : Luật : x = Không qui luật ( Bằng hoặc Trắc cũng được ) B = Bằng ( là những chữ không dấu hoặc có dấu huyền ) T = Trắc ( là những chữ có dấu Sắc, Hỏi , Ngã , Nặng )T1= Vần Trắc ......T1 ( chữ thứ 7 ) của câu 1 phải vần với T1 ( chữ thứ 5 ) của câu 2 B2= Vần Bằng .....Chữ thứ 7 của câu 2 ..vần với chữ thứ 6 cuả câu 3 ......Chữ thứ 6 của câu 4 vần với chữ thứ 6 của câu 3 Vần Chữ thứ 5 của câu 2 ( tháng ) vần với chữ thứ 7 của câu 1( ngán ) Chữ cuối cùng của câu 3 ( ca ) vần với chữ cuối của câu 2 ( qua ) Chữ thứ 6 của câu 4 ( xa ) vần với chữ cuối của câu 3 ( ca ) Note : Câu 3 và câu 4 làm theo thể thơ Lục Bát Âm Khúc : Chia từng câu thành những khúc nhỏ ..... trong Song Thất Lục Bát chia câu số 1 thành hai khúc và dùng lời thơ để nhấn mạnh từng khúc : Câu 1 : Đông đã đến / bao mùa ngao ngán Câu 2 : Nhớ thương người, / bao tháng năm qua Câu 3 : Phổ cầm / khúc tuyệt / tình ca Câu 4 : Nhỏ giòng / máu thắm / xót xa / đoạn trường
Thơ lục bát và thơ Song thất lục bát là hai thể thơ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng ta chẳng còn xa lạ gì với thể lục bát, vì nó là những bài ca dao hàng ngày ta vẫn nghe ông bà ngâm nga, thơ song thất lục bát thì ta đã được học trong chương trình lớp 10 ở trường phổ thông. Sau đây ta cùng tìm hiểu về cách làm hai thể thơ này để phát huy thêm một nét văn hoá của người Việt chúng ta. I. CÁCH LÀM THƠ LỤC BÁT Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác. Thơ lục bát tuân thủ luật về thanh và vần rất nghiêm ngặt, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau. A - Luật thanh trong thơ lục bát Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận, nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau: Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) - Trắc (T) - Bằng Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B Ví dụ: Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân B - T - B Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều B-T-B-B Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể. Ví dụ: Có sáo thì sáo nước trong T-T-B Đừng sáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B hay: Con cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B B - Cách gieo vần trong thơ lục bát Thơ lục bát cí cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thiw lụch bát tính linh hoạt về vần. Cách gieo vần: Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế nó. Và tiếng thứ tám câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp. Ví dụ (những từ in nghiêng hay đậm là vần với nhau): Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng Trong thể thơ lục bát biến thể vẫn gieo vần như vậy, nhưng trường hợp câu bát của cặp câu có thanh là t-b-t-b thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó. Ví dụ: Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) cảu câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại. Ví dụ: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn. II. CÁCH LÀM THƠ SONG THẤT LỤC BÁT Thơ song thất lục bát là thơ gồm có 4 câu đi liền với nhau, trong đó là hai câu 7 tiếng (câu thất 1 và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát. Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Tôi chỉ đề cập đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 như các thể thơ khác mà lại chú ý vào các tiếng 3-5-7. Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là T-B-T Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là B-T-B Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh. Ví dụ: Lòng này gửi gió đông có tiện T-B-T Nghìn vàng xin gửi đến non yên B-T-B Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhưng thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng. Tiếng thứ 7 của câu thất 1 thanh trắc vần với tiếng thứ 5 thanh trắc của câu thất 2. Tiếng thứ 7 của câu thất 2 thanh bằng vần với tiếng thứ 6 câu lục kế. Ví dụ: Lòng này gửi gió đông có tiện Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời. Trong bài thơ có nhiều câu thơ song thất lục bát thì để nối hai nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp. Ví dụ: Lòng này gửi gió đông có tiện Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu... Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.
THƠ TỰ DO Thơ vần "ôm"(dành cho các thể thơ 7 chữ-8 chữ-4 chữ-5 chữ...(tự do) Tuy nói là thơ tự do,nhưng nó cũng phải theo 1 quy luật của nó .Vần ôm là khi câu thứ nhất cùng vần với câu thứ 2. Ví dụ: Muộn màng làm sao bài thơ tôi viết Để giờ này hối tiếc những ngày qua Người đã xa tất cả cũng sẽ xa Chỉ còn tôi với bài thơ viết dở Biết làm sao khi tôi lầm lỡ Tự chôn vùi hồn xuống huyệt sâu Biết làm sao,ta khóc vì đâu Không hiểu nỗi,trọn đời không giải thích Chuyện của tôi không như trong cổ tích Kết thúc buồn còn không hiểu vì sao Bài thơ tặng người tôi ấp ủ biết bao Sao không thể trao đến người được. Có khi nào nhìn bầu trời phía trước Người chạnh lòng nhớ người ở phương xa? Có khi nào trên đường phố xa hoa Người bước đi mong có tôi bên cạnh? Và giờ đây giữa trời đông giá lạnh Tôi muốn mình cũng lạnh giá như băng Lòng nhủ thầm:trời sắp sửa sang xuân Tôi cũng sẽ trở về tôi ngày trước Nhưng ngày mai tôi làm sao biết được Tôi là tôi của ngày tháng năm nao? Tôi thấy mình sao quá trời tự cao Mà cũng phải hạ mình...xin lỗi Người không thương mà còn nỡ lối Khép tôi vào tội lỗi đáng trách nguyền Biết làm sao yêu mến sai duyên Nên chỉ có mình tôi hối tiếc. (Nanh) Vần chéo Vần chéo là khi câu thứ 1 cùng vần với câu thứ 3,hoặc câu thứ 2 cùng vần với câu thứ tư.Ví dụ: Sương giăng đầy góc phố Biết là đã mùa thu Gió lùa vào tóc rối Lạnh buốt hồn tương tư Đêm,trăng sao đi vắng Không gian bỗng não nề Một vùng đầy khoảng lặng Tình ta chết đê mê Ở nơi đây sương gió Lạnh giá con đường quen Còn phương trời lạ đó Anh có nhớ đến em?