Cửa Tùng - Nữ Hoàng của các bãi tắm Người ta dường như bỏ quên Cửa Tùng. Một bãi biển đẹp tuyệt vời ở Quãng Trị. Những tour du lịch thương mại ít khi đưa khách đến với bãi biễn này và Cửa Tùng dường như chỉ còn là nơi thu hút khách địa phương. Trong khi đó nó đã được mệnh danh là "Nữ hoàng của các bãi tắm". Từ cầu Hiền Lương, chiếc cầu nối đôi bờ Vĩnh Linh và Gio Linh, đi khoảng 10km về phía Đông Bắc, người ta có thể nhìn thấy bãi biển xinh đẹp này. Nó là một điểm nhấn đẹp đẽ và nên thơ trong cả một vùng biển. Thiên nhiên ở Cửa TùngCửa Tùng, nơi sông Bến Hải đổ ra biển, là nơi nghỉ mát lý tưởng ở tỉnh Quảng Trị. Bãi tắm Cửa Tùng không rộng và dài nhưng có vẻ đẹp riêng: bằng phẳng, nước trong xanh, cát mịn, lúc nào cũng lộng gió. Nằm ở phía bắc cửa biển, bãi tắm là một bãi cát thon dài nằm phơi mình dưới làn nước xanh. Đây là một bãi tắm êm đềm, bởi nó được bao bọc kỹ lưỡng bởi bà mẹ thiên nhiên. Hai bãi đá ngầm ăn sâu ra biển tư phía sau là Mũi Si và Mũi Lai đã tạo nên một cái vịnh nhỏ kín đáo và không có các dòng hải lưu cuốn xoáy. Nếu như đứng trên mõm đồi đất đỏ ăn ra phía biển mà nhìn xuống cửa Tùng, người ta có thể thấy một quang cảnh thật đẹp trãi ra trước mắt. Một người Pháp đã từng khám phá am tường về xứ Quãng Trị Xưa là ông A.Laborde đã từng mô tả về cửa Tùng như một bãi biển đẹp nhất trong ký ức của mình. Ông viết :" Cửa Tùng có cái sắt thái đặc biệt là nó được cấu tạo bởi một dãi nguyên xanh tươi với độ cao 20m dựng xiên thành bờ dốc trên một bãi biển có bờ dốc thoai thoải và dịu dàng." Biển xanh, cát trắngMột nét đặc biệt của Cửa Tùng là độ dốc thoai thoải của bãi tắm. Bạn đi từ bờ ra phía ngoài khơi, lao mình vào vòng tay của biển, và có thể đi mãi như vậy đến nữa cây số mà nước mới chỉ ngang ngực. Một sự thú vị tuyệt vời, nơi đây có nhiều hải sản quý và ngon. Ban ngày, Cửa Tùng như bức tranh sinh động thay đổi màu sắc từng giờ dưới ánh nắng mặt trời. Đêm đến là thời gian của gió trời và nhạc biển. Tiếng sóng ì ầm hòa cùng tiếng reo triền miên của rặng phi lao. Đến với Cửa Tùng, du khách còn có cơ hội thăm địa đạo Vĩnh Mốc, cầu Hiền Lương... những di tích nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. D.Loan (Tổng hợp)
Làng địa đạo Vịnh Mốc Làng địa đạo Vịnh Mốc Vịnh Mốc là tên của một làng chài ở xã Vĩnh Thạch, Vĩnh Linh. Cái tên Vịnh Mốc xuất xứ từ chuyện ngày xưa giữa hai thôn Vĩnh Ân và Thừa Luật có chôn một cột mốc để phân định ranh giới. Phía Bắc lại có một cái vịnh biển dưới mũi Lài. Nên làng biển nằm giữa hai thôn có tên gọi là Vịnh Mốc. Sơ đồ cấu trúc làng địa đạo Vịnh MốcĐịa đạo ở Vĩnh Linh được khởi đào từ năm 1963, khi giặc chưa đánh phá miền Bắc. Để tồn tại và chống lại giặc, người Vĩnh Linh chỉ còn cách dựa vào đất mà sống và chiến đấu. Cuối năm 1966, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đồn Công an Vịnh Mốc và chi bộ thôn Vịnh Mốc, một tổ xung kích gồm 4 đồng chí đã bổ những nhát cuốc đầu tiên đi vào lòng đất. Sau đó toàn bộ quân và dân Vịnh Mốc thay phiên nhau đào bới. Sau 3 tháng chỉ bằng cuốc thuổng và trí thông minh, vừa đánh giặc vừa đào địa đạo, làng Vịnh Mốc đã huy động 18.000 ngày công, đào đắp 6.000 m3 đất đá, tạo nên trong lòng quả đồi đất đỏ bazan một hệ thống đường hầm địa đạo chằng chịt với rất nhiều cửa ra vào từ tất cả các hướng. 4 đội đào 4 nhánh, hợp lại thành một hệ thống thông suốt gọi là Làng hầm. Bao quanh địa đạo có 8.200 mét giao thông hào chiến đấu. Thật ra để hoàn chỉnh địa đạo Vịnh Mốc , phải mất 3 năm đào (196 với khối lượng đất đá lên tới 3,76 triệu mét khối! Một cửa hầm Để đào sâu xuống lòng đất, người Vịnh Mốc đã có sáng kiến đào những cái giếng như giếng nước, đến độ sâu quy định thì đào xuyên vào lòng đất. Mỗi tổ đào đường hầm có 20 người, nhưng mỗi kíp đào chỉ có 2 người. Người đào, người chuyển đất ra miệng giếng để người ở trên quay tời kéo lên. Chuyển đất mới lên mặt đất phải đổ thật xa và ngụy trang kín đáo để địch không phát hiện ra. Thời gian đầu ngành Thương nghiệp cung cấp 5 - 7 đôi pin để soi sáng, sau đó pin cũng không còn, nên phải đào bằng đèn dầu hỏa, đất đèn, mỡ lợn để thắp sáng. Làng hầm Vịnh Mốc nằm ở độ sâu 20- 28 mét dưới lòng đất. Tổng chiều dài hệ thống đường hầm là 2.034 mét. Trục đường chính dài 768, cao 1,5- 1,8 mét cho người đi lại thoải mái, rộng từ 1- 1,2 mét. Từ trục chính tỏa ra 13 nhanh thông với 13 cửa gồm 7 cửa ra biển và 6 cửa trên đồi đi xuống. Cả làm có 3 trạm cảnh giới. Các ống thông hơi đều bí mật. Tại các cửa đều có khung gỗ chống đổ. Làng hầm không bao giờ ngập nước vì các cửa đều dốc ra ngoài! Hai bên trục đường cứ cách khoảng 3- 5 mét khoét sâu vào thành từng căn nhỏ, đủ cho một hộ sinh sống. Một gian nhà trong làng hầmLàng hầm có 3 tầng: Tầng 1 có độ sâu 10 mét là nơi sinh sống của nhân dân; tầng 2 có độ sâu 20 mét là trụ sở Đảng ủy, Ủy ban và chỉ huy quân sự. Tầng 3 có độ sâu 20- 28 mét là kho hậu cần với hàng ngàn tấn hàng hóa, súng đạn để tiếp tế cho Cồn Cỏ, cho miền Nam và phục vụ chiến đấu tại địa đạo. Trong làng hầm có 3 giếng nước, một bệnh xá, một nhà hộ sinh, nhiều lỗ thông hơi và một hội trường có sức chứa 50 người... Đàng hoàng nhất là gian hầm bệnh xá và nhà hộ sinh. Đó là 2 vách hầm lớn, tường và trần được lót vải dù trắng, có giường, có bàn bàn tủ thuốc cấp cứu. Trong nhà hộ sinh này đã có 60 đứa trẻ sinh ra! Cảnh sinh hoạt của một hộ gia đìnhĐịa đạo Vịnh Mốc là hình ảnh thu nhỏ của một làng quê Việt Nam được xây dựng và kiến tạo dưới lòng đất. Dân làng Vịnh Mốc đã sống 2000 ngày đêm dưới Làng Hầm. Ban ngày họ chuẩn bị mọi thứ, để ban đêm lên mặt đất trồng khoai, vận tải hàng, ra biển đánh cá, ra biển vận tải hàng cho đảo Cồn Cỏ, ra bến đò A chi viện cho miền Nam. Và người Vịnh Mốc đã tồn tại và chiến thắng! D.Loan (Tổng hợp)
Sông Thạch Hãn Sông Thạch Hãn "Chẳng thơm cũng thể hương dàn Chẳng trong cũng nước nguồn Hàn chảy ra" Sông Thạch HãnNgười Việt Nam ta vốn nặng tình non nước nên hình như tỉnh nào cũng muốn chọn một ngọn núi và một dòng sông tiêu biểu cho tỉnh mình để tạo thêm ấn tượng sâu sắc về quê hương. Xứ Đoài thì có núi Tản - sông Đà, xứ Nghệ thì có núi Hồng - sông Lam, đất thần kinh thì có núi Ngự - sông Hương... Còn Quảng Trị có non Mai - sông Thạch Hãn. Non Mai tức núi Mai Lĩnh, một ngọn núi đẹp ở gần chiến khu Ba Lòng. Sông Hãn là sông Thạch Hãn, con hào thiên tạo phía bắc của Thành cổ Quảng Trị! Quảng Trị tuy nhỏ nhưng lại là tỉnh phên dậu phía Bắc của kinh thành Huế và là nơi phát tích của họ Nguyễn khi Nguyễn Hoàng mới vào dựng nghiệp ở Đàng Trong, vì thế năm 1836, sau khi ổn định đất nước, vua Minh Mạng đã chọn sông Thạch Hãn là một trong 9 thắng cảnh của đất nước để đúc vào Cửu Đinh bày ở sân rồng coi như quốc bảo. Bình minh trên Thạch HãnVề tên gọi Thạch Hãn, lâu nay không ít người tự hiểu theo nghĩa chủ quan là... "mồ hôi của đá". Thực ra không phải như vậy, Thạch thì đúng là đá, còn Hãn hay hàn có nghĩa là ngăn cản. Vì ở giữa nguồn có một mạch đá ngầm chắn ngang sông, tên sông đặt theo đặc điểm này, thành sông Thạch Hãn. Theo sách "Đại Nam nhất thống chí" thì sông Thạch Hãn chỉ dài khoảng 170 dặm bao gồm cả đầu nguồn, nghĩa là chỉ độ 100km. Với độ dài như vậy nên lượng phù sa do sông tải đến không nhiều, trừ những ngày lũ lụt, nước thường trong xanh nhìn thấy đáy. Một góc Thạch HãnSông Thạch Hãn là con sông dài và đẹp nhất tỉnh Quảng Trị. Sông bắt nguồn từ phía Đông dãy Trường Sơn ở phía Tây Nam của tỉnh. Dòng sông uốn lượn từ hướng Đông và Đông Bắc, gặp sông Rào Quán lại chảy về hướng Đông rồi ngược lên phía Bắc, nhập với sông Cam Lộ (tức sông Hiếu, chảy qua thị xã Đông Hà) tại ngã ba Dã Độ (sau này quen gọi thành Gia Độ) rồi lại quay về hướng Đông, đỗ ra cửa Việt Yên, gọi tắt là Cửa Việt. Không chỉ từ xưa mà cho đến cả bây giờ, sông Thạch Hãn vẫn là mạch máu giao thông đường thủy rất quan trọng của tỉnh Quảng Trị. Với hình thể uốn lượn uyển chuyển như thế lại có thêm nhiều phụ lưu thuộc các huyện Triệu Phong - Hải lăng là hai vựa lúa của tỉnh Quảng Trị như Vĩnh Định, Vĩnh Phước, Điếu Ngao nên mật độ giao thông trên sông ngày càng lớn. Đặc biệt, là con hào thiên tạo phía Bắc thành cổ Quảng Trị (nay là thị xã Quảng Trị) con sông Thạch Hãn lại có vị trí chiến lược về quân sự. "Đò qua Thạch Hãn Xin chèo nhẹ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm"...Trong mùa hè rực lửa năm 1972, Thạch Hãn đã trở thành dòng sông oanh liệt, ôm vào lòng hàng ngàn người con ưu tú của tổ quốc, khi họ dũng cảm vượt sông dưới làn đạn địch, theo tiếng gọi của chiến trường. Máu đỏ hoà vào nước. Thịt xương tan vào đất. Họ mãi mãi nằm xuống cho khát vọng tự do. Thả hoa trên sông Thạch HãnĐể tưởng nhớ đến hàng nghìn liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn, hàng năm, cứ vào dịp kỷ niệm ngày đất nước thống nhất, chính quyền và nhân dân Quảng Trị đều long trọng tổ chức lể thả đèn hoa, bè hoa trên sông Thạch Hãn. Lễ hội đã thực sự cuốn hút rất nhiều người, đặc biệt là các lực lượng vũ trang và cựu chiến binh trong và ngoài tỉnh tham dự. D.Loan (Tổng hợp)
Thành cổ Quảng Trị Thành cổ Quảng Trị Soi mình bên dòng Thạch Hãn hiền hòa, thành cổ Quảng Trị uy nghi, trầm mặc. Đây được xem là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng với khát vọng tự do, độc lập. Nơi đây, dưới lớp cỏ non, lòng đất thành cổ đã thấm đẫm máu của hàng ngàn chiến sĩ và đồng bào Quảng Trị. Toàn cảnh thành cổNgày nay, giữa không gian thanh bình, thành cổ Quảng Trị đã trở thành điểm đến, không chỉ là nơi ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc mà còn là điểm du lịch hấp dẫn. Với vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quân sự, thành cổ Quảng Trị vừa là công trình thành lũy quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809-1945. Thành lúc đầu được đắp bằng đất. Đến năm 1837, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên thành cổ có dạng hình vuông với chu vi tường dài 2.160m, thành cao 3m, dưới chân dày 13,5m, đỉnh dày 0,72m. Bên ngoài có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là bốn pháo đài cao, nhô hẳn ra ngoài. Thành cổThành có bốn cửa Tiền, Hậu, Tả, Hữu nằm chính giữa bốn mặt thành, xây vòm cuốn, vòm làm bằng gỗ lim. Mỗi cửa rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói âm dương. Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, Cột cờ, Dinh Tuần Vũ, Dinh án sát, Dinh Lãnh binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính. Trong đó Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: Bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Toàn cảnh đài tưởng niệm liệt sĩ ờ thành cổHành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu ba gian, hai chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các họa tiết rồng, mây, hoa, lá... Đây là nơi thường để vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì thành cổ lại có thêm nhà lao, tòa mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoan... Từ năm 1929-1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam giữ các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước. Hơn 160 năm tồn tại dưới thời quân chủ và thực dân, thành cổ là trung tâm chính trị của Quảng Trị. Dưới thời tạm chiếm, Mỹ - ngụy biến thành cổ Quảng Trị thành khu quân sự, làm kho tàng quân đội và trung tâm chỉ huy chiến dịch toàn tỉnh, đồng thời mở thêm nhà giam để đàn áp phong trào cách mạng. Vì vậy, nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh và các trận chiến đấu oai hùng của quân và dân ta. Trong nhà truyền thống, những hình ảnh, những di vật được tìm thấy trong lòng đất sẽ đưa du khách trở về với cuộc chiến vô cùng ác liệt vào mùa hè 1972. Thị xã chưa đầy 2 cây số vuông này đã bị trút xuống 330.000 tấn bom đạn, mỗi ngày có đến 150 - 170 lượt máy bay quần thảo. Riêng trong ngày 27/7/1972, Thành cổ bị hơn 5.000 quả đại bác nã vào. Tháp chuôngĐài tưởng niệm liệt sĩ được xây dựng với ý tưởng mô tả một nấm mồ chung cho tất cả những người con của đất mẹ đã nằm lại nơi đây. Phía trên là lư hương và một ngọn nến mà những người lính sinh viên cảm nhận như một cây bút viết lên trời xanh những bài thơ bi tráng. Ngày 12-12-1986, tại quyết định số 235/VH-QĐT của Bộ Văn hóa - thông tin, thành cổ Quảng Trị được xếp hạng di tích quốc gia. Năm 1994, thành cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục những di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. D.Loan (Tổng hợp)
Đảo Cồn Cỏ Đảo Cồn Cỏ Huyện đảo Cồn Cỏ là một đảo ven bờ, nằm ngoài khơi biển Đông, cách Cửa Tùng (Vĩnh Quang) khoảng 28km. Đảo có diện tích tự nhiên khoảng 2,5km2. Toàn bộ Đảo có độ cao trung bình từ 7 - 10 m so với mực nước biển. Điểm có độ cao lớn nhất là 63m. Đảo có ngư trường rộng lớn khoảng 9.000km2 với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế. Đảo Cồn Cỏ còn có tên khác là Hòn Cỏ, Thảo Phù, đảo Con Hổ hay Hòn Mệ, Mặc dù với diện tích không lớn nhưng lại có vị trí chiến lược án ngữ toàn bộ phần bờ biển Trung bộ, gần nhiều tuyến đường hàng hải trong nước và quốc tế, do đó nó có vai trò rất lớn trong công tác phòng thủ, bảo vệ an ninh quốc phòng vùng lãnh thổ, lãnh hải và là một địa bàn quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội của hệ thống đảo, hải đảo và vùng biển Việt Nam. Đảo Cồn CỏTừ tam giác Cửa Việt - Cửa Tùng - đảo Cồn Cỏ nhìn sang Ấn Độ Dương, hành lang kinh tế Đông - Tây, là điểm hội tụ của nhiều nền văn hóa. Theo các nhà khảo cổ học với những phát hiện mới nhất, ở khu vực Bến Nghè của đảo đã tìm thấy nhiều công cụ đá của con người thời đá cũ cách đây hàng vạn năm. Trong thời gian của những thế kỷ đầu Công nguyên, Cồn Cỏ đã từng là địa bàn cư dân Chămpa đặt chân đến. Trong khoảng thế kỷ 17 - thế kỷ 18, trên con đường giao lưu buôn bán, cư dân Đại Việt cũng đã coi Cồn Cỏ là một điểm dừng. Những phát hiện khảo cổ học ở khu vực Bến Tranh trong tháng 7 năm 1994 đã ghi nhận điều đó. Âu thuyền trên Cồn CỏTương truyền rằng, dưới thời nhà Nguyễn, Cồn Cỏ là nơi đầy ải của những người có tội. Ở đây, bộ đội đảo khi khơi một giếng cũ (không rõ được đào từ thời nào) đã tình cờ phát hiện một bộ hài cốt cùng với xích cùm bằng sắt. Du lịch sinh thái biển đảo gắn với nghỉ dưỡng, thám hiểm vẻ đẹp biển khơi là một lựa chọn cho Cồn Cỏ. Đã có nhiều dự án xin đăng ký đầu tư phát triển tam giác du lịch sinh thái biển đảo Cửa Việt - Cửa Tùng - đảo Cồn Cỏ. Tuy nhiên, vì mục tiêu phát triển du lịch phải gắn với việc bảo tồn, tôn vinh những giá trị lịch sử, văn hóa và đa dạng sinh học nên du lịch Cồn Cỏ còn chờ quy hoạch tổng thể. Mặt khác, Cồn Cỏ gắn với lịch sử đấu tranh quật khởi của người dân Quảng Trị nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, do đó, quá trình phát triển du lịch phải gắn liền với việc bảo tồn và tôn vinh những giá trị lịch sử của hòn đảo. Một góc Cồn cỏHiện đảo Cồn Cỏ đã hoàn thành quy hoạch tổng thể, theo đó, những công trình xây dựng trên đảo cao không quá 2 tầng và phải dựa vào vị trí, địa hình để xây dựng nhằm khai thác hết lợi thế và vẻ đẹp của đảo. Là đảo được kiến tạo bở núi lửa giữa biển khơi, Cồn Cỏ có giá trị về địa chất, sinh thái cảnh quan như một bảo tàng tự nhiên với các thềm đá bazan kỳ vĩ, bãi tắm nhỏ được tạo bởi các vụn san hô, sò điệp, nước biển trong và nhiệt độ ổn định cộng với hệ sinh thái rừng nhiệt đới 3 tầng của đảo núi lửa, rừng trên thềm san hô cổ khá hiếm... Đây sẽ là một hòn đảo rất xinh đẹp ở biển miền Trung và với các nước trong khu vực hiện nay. D.Loan (Tổng hợp)
Cầu Hiền Lương - Sông Bến Hải - Vỹ tuyến phi quân sự Cầu Hiền Lương - Sông Bến Hải - Vỹ tuyến phi quân sự Sông Bến Hải bắt nguồn từ dải núi Trương Sơn, từ ngọn nguồn cho tới cửa Tùng dài 100 km. Sông Bến Hải là dòng sông nhỏ, nơi rộng nhất khoảng 200 m, đoạn sông có cầu Hiền Lương rộng 170 m. Hai đầu nguồn dòng sông rất hẹp, ở thượng nguồn, nơi có nhà thờ Phước Sơn, sông chỉ rộng 20m, đoạn lưới Cát, Cửa Tùng lòng sông rộng 30m. Cầu Hiền Lương - Sông Bến Hải Cầu Hiền Lương do công trình Pháp xây dựng năm 1950 (trước đây dân hai bờ đi lại bằng thuyền). Cầu có 7 nhịp, dài 178m. Theo Hiệp định Genève mỗi bên có chủ quyền 89m cầu. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1951 chỉ rõ: "cầu Hiền Lương và sông Bến Hải là giới tuyến quân sự tạm thời giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, hoàn toàn không thể coi là mốc ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ ". Vì sau hai năm, việc thống nhất Việt Nam sẽ được tiến hành bằng một cuộc tổng tuyển cử trong cả nước. Cầu Hiền Lương cũ Sau Hiệp định Genève năm 1954, nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, ranh giới là sông Bến Hải. Tính từ bờ sông, 5km hai bên được quy định là khu phi quân sự. Trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, phía bờ nam sông Bến Hải thuộc Quảng Trị là vùng chiến sự cực kỳ ác liệt. Số lượng bom đạn Mỹ giội xuống tỉnh này trong chiến tranh tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hiroshima năm 1945. Hiền Lương - Nhìn từ bờ bắc Hiền Lương - Nhìn từ bờ namNhững địa danh như Khe Sanh, Ái Tử, Tà Cơn, Cam Lộ, Lao Bảo, Hướng Hoá, Đông Hà... trong những năm 1968 - 1972 luôn được nhắc đến trong các bản tin chiến sự với những thiệt hại nặng nề của người Mỹ. Tượng đài khát vọng thống nhất - bờ nam Hiền Lương Nhờ sự tiếp tay của đế quốc bên ngoài các chính quyền ngụy ở Nam Việt Nam từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu đều mưu toan biến vĩ tuyến 17 - sông Bến Hải trở thành ranh giới vĩnh viễn chia đất nước làm hai miền. Những tham vọng của tất cả đế quốc bên ngoài và kẻ thù dân tộc đã thất bại thảm hại. Từ năm 1975, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất. DMZ - viết tắt từ tiếng Anh Demilitarised Zone (khu phi quân sự) - ngày nay là vùng du lịch được ưu tiên hàng đầu với khách ngoại quốc khi đến miền Trung. DMZ là một điểm du lịch văn hoá - lịch sử hết sức thú vị, mang ý nghĩa về nguồn rất rõ ràng, đầy tính giáo dục truyền thống. D.Loan (Tổng hợp)
Sự tích Đức Mẹ hiện ra ở thánh địa La Vang Sự tích Đức Mẹ hiện ra ở thánh địa La Vang La Vang là một nhà thờ tôn nghiêm của những người Việt Nam theo đạo Công giáo, nằm ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Họ tin rằng Đức Mẹ Maria đã hiện ra ở nhà thờ này vào năm 1798. Thánh đường La Vang được biết với tuổi thọ đã hơn 200 năm tuổi. Nơi đây Đức mẹ đã hiện giúp các con của mình Dưới triều đại vua Cảnh Thịnh ( lên ngôi năm 1792 ), ngày 17 tháng 8 năm 1798 vua cản Thịnh ra sa91c chỉ cấm đạo, hạ lệnh cấm đạo gắt gao. Cơn bách hại đột ngột và dữ dội, lệnh vua vừa ban ra quân lính thi nhau bắt người có đạo, hành hạ và chém giết. Một số các tín hữu ở gần đồi Dinh Cát ( nay là thị xã Quảng Trị ) phải tìm nơi trốn ẩn. Họ đã đến lánh nạn tại núi rừng La Vang. Nơi rừng thiêng nước độc, hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu ăn, bệnh tật, sợ hãi quan quân, sợ thú dữ. các tín hữu chỉ biết một lòng tin cậy phó thác vào Chúa và Đức Mẹ. Họ thường tụ tập nhau dưới gốc cây đa cổ thụ, cùng nhau cầu nguyện, an ủi và giúp đỡ nhau. Một hôm đang khi cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng họ nhìn thấy một người nữ xinh đẹp, mặt áo choàng rộng, tay bồng Chúa Hài Đồng, có hai thiên thần cầm đèn chầu hai bên. Họ nhận ra ngay Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ tỏ vẻ nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân vui lòng chịu khó. Mẹ dạy hái lá chung quanh đó, đem nấu nước uống, sẽ lành các chứng bệnh. Mẹ lại ban lời hứa: " Mẹ đã nhận lời các con kêu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện". Sự kiện xảy ra trên thảm cỏ gần gốc cây đa cổ thụ nơi giáo dân đang cầu nguyện. Sau đó, Mẹ còn hiện ra nhiều lần như vậy để nâng đỡ và an ủi con cái Mẹ trong cơn hoạn nạn. Từ đó đến nay sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại núi rừng La Vang, qua các thế hệ được loan truyền khắp nơi. Và nhiều người chân thành tin tưởng, đến cầu khấn Mẹ đều được ơn theo ý nguyện. D.Loan (Tổng hợp)
Thánh Địa La Vang Thánh Địa La Vang Quảng Trị, vùng đất từng chịu nhiều đau thương trong những năm chiến tranh, đổi lại nơi này cũng có nhiều di tích thắng cảnh đẹp. Cầu Hiền Lương, thành cổ Quãng Trị, hay thánh địa La Vang... Năm 1798, Ðức Mẹ hiện ra tại La Vang an ủi các con khốn khó trong cơn bách hại dưới triều vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn. Một ngôi nhà thờ nhỏ lợp lá được dựng lên ở đó, nhưng sau bị đốt cháy. Năm 1886, Ðức cha Gaspar Lộc cho xây cất một nhà thờ bằng gạch và khánh thành ngày 6-8-1901 và ấn định cứ ba năm một lần tổ chức Ðại hội Tam nhật kính Ðức Mẹ. Năm 1923, Ðức cha Allys Lý quyết định xây một ngôi nhà thờ rộng lớn hơn và khánh thành vào tháng 8-1928. Tháp chuông ngày nayNgôi nhà thờ này đã bị tàn phá, chỉ còn lại phần cuối đổ nát với tháp chuông như ta thấy ngày nay. Trong hai năm 1961-1962, Ðức Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục đã cho xây dựng công trường Mân Côi bằng đá cẩm thạch, hồ Tịnh Tâm và đài Ðức Mẹ với ba cây đa bằng xi măng do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Các pho tượng Mân Côi đã bị bom đạn chiến tranh tàn phá nay đã trùng tu lại. Ðiều lạ lùng là 3 cây đa cao 20 mét với pho tượng Ðức Mẹ vẫn đứng yên suốt những năm chiến tranh ác liệt, trong khi từng mét vuông đất đều bị bom đạn cày xới. Trong dịp kỷ niệm 200 năm Ðức Mẹ hiện ra tại La Vang, tượng Ðức Mẹ mới mang màu sắc dân tộc, do họa sĩ kiêm điêu khắc gia Văn Nhân thực hiện, đã được làm phép và thay cho tượng cũ. Tượng mới diễn tả Ðức Mẹ La Vang vừa là người Mẹ nhân từ vừ là Nữ Hoàng uy linh. Mặt tiền thánh địa La Vang ngày nayCó nhiều luận cứ nói về nguồn gốc tên gọi La Vang. Một lập luận nói tại rừng La Vang có một thứ cây giây leo, tên Cây Vằng, người ta hái Lá Vằng phơi khô bán cho sản phụ uống. Lá Vằng là một vị thuốc bồi dưỡng sức khoẻ, làm gia tăng máu huyết, đưa huyết áp lên, làm co rút tử cung của sản phụ nhanh mà không đau bụng, làm sản phụ nhiều sữa, gương mặt tươi tắn hồng hào. Từ chữ Lá Vằng đọc trại đi thành La Vang. Ba cây Sồi nơi Đức mẹ hiện ra Thuyết thứ hai nói rằng nơi chốn rừng rú La Vang vốn xưa kia nhiều cọp beo hại người. Do đó xưa kia những người đi rừng đi rú, ở lại đêm thường chia nhau thức canh, thấy động thì ‘la vang' lên để mọi người đến tiếp cứu. Hai lý luận, cái nào nghe ra cũng chính đáng, có lý. La Vang ngày nay không còn là nơi âm u hiểm trở, ít ai biết đến như ngày xưa trong thời kỳ cấm đạo, nhưng trở thành nơi vang dội muôn ơn lành hồn xác Mẹ ban cho con cái, và ngân vọng bao lời kinh tin yêu phó thác của con cái Mẹ trên khắp cả nước Việt Nam và cả thế giới. Lòng tôn sùng Đức Mẹ La Vang đã có liền sau khi Đức Mẹ hiện ra (179. Từ ngày đó trở đi, giáo hữu xa gần hành hương La Vang và đã được Mẹ chở che, ủi an, nâng đỡ. Qua các thời đại, các thế hệ, giáo hội lũ lượt tới kính viếng, cầu nguyện, nhất là từ khi có ngôi Đền Thánh đầu tiên (1820-1840), họ càng chạy đến với Mẹ nhiều hơn nữa. Ngày 22 tháng 8 năm 1961, Tông thư "Magno Nos" của Đức Thánh Cha Gioan XXIII nâng Đền Thánh Đức Mẹ La Vang Lên Bậc Tiểu Vương Cung Thánh Đường. Tượng Đức mẹ MariaVới cuộc chiến năm 1972, toàn bộ khu vực La Vang bị đổ nát. Các công trình xây dựng trước đây như Tiểu Vương Cung Thánh Đường, nhà Cha quản xứ, nhà Tĩnh tâm, tu viện Mến Thánh Giá Di Loan... đều bị sụp đổ do bom đạn chiến tranh liên tiếp gây nên. Đền Thánh tróc hết mái, còn lại ít đòn tay, run mèn đan vào nhau như một lưới nhện rách tả tơi, và cơn bảo năm 1985 đã làm sập tấc cả. Các dãy nhà cũng bị tiêu hủy hoàn toàn. Cây cối rụi tàn. Các pho tượng 15 Mầu nhiện Mân Côi sứt mẻ. Bức tượng Chúa Giêsu vác Thánh giá ngã xuống đất, cũng bị đổ xuống. Chỉ còn nơi Linh Đài Mẹ hiện ra, ba cây đa đứng vững nguyên vẹn, trừ thân cây bên tả bị một vết xước nhỏ do viên đạn lạc. Dù thánh địa không còn nguyên vẹn như ngày xưa nhưng du khách vẫn thích tìm đến La Vang để chiêm ngưỡng một trong những kiến trúc cổ xưa còn sót lại trên vùng đất này. D.Loan (Tổng hợp)
sao khung có trăm trà lộc nhỉ . báo quảng trị đăn rầm rầm , trên mạng cũng nhiều vô kể luôn , chắc anh em nhà mình chê rồi
Trằm Trà Lộc Không biết từ thời nào, ở phía Tây - Nam làng Trà Lộc, trên dải cát rộng tiếp giáp các xã Hải Thiện, Hải Thọ, Hải Thượng, Hải Lâm, Hải Quy, Hải Xuân, Hải Vĩnh đã hình thành một hồ nước rộng gần trăm héc-ta. Quanh hồ do có độ ẩm thường xuyên nên cây rừng tự nhiên mọc khá tốt. Cũng đã từ lâu đời, dân làng Trà Lộc biết khai thác cái hồ tự nhiên đó. Người ta cải tạo, bồi trúc thêm, biến nó thành một công trình thủy lợi… Ở mặt Đông Bắc hồ, người ta tôn thêm bờ, vừa để tăng dung tích nước, vừa để ngăn nạn cát bay tràn lấn đồng ruộng. Dùng gỗ lim, người ta lắp một cái cổng có thể để mở chủ động đưa nước vào ruộng theo yêu cầu sản xuất. Công trình thủy lợi này không chỉ đủ chống hạn cho cả đồng lúa làng Trà Lộc, mà còn tưới giúp cho một phần đồng ruộng của 2 làng Duân Kinh, Trà Trì… Để bảo vệ nguồn sinh thủy, làng Trà Lộc có nội quy khá chặt chẽ, không ai được vào đây chặt cây lấy củi. Cần thiết thì chỉ được phép thu nhặt lá khô về làm chất đốt. Gần đây, lãnh đạo và chính quyền Hải Lăng cho rằng đây là một vùng sinh thái hiếm thấy ở giữa đồng bằng. Huyện đang có chương trình hàng tỉ đồng để từng bước biến nơi đây thành một điểm du lịch sinh thái. Hiện đã mở được một tuyến đường cấp phối nối liền thị trấn Hải Lăng băng qua dải cát về xã Hải Xuân. Cũng đã đưa một số thú rừng quý hiếm như khỉ, rắn, trăn v.v… tịch thu được về thả ở đây. Một số công trình xây dựng khác đang trong quá trình chuẩn bị. Với chương trình đó, hy vọng một tương lai không xa, Trằm Trà Lộc sẽ thu hút ngày càng đông du khách.