Một số thông tin tổng quát sưu tầm

Thảo luận trong 'Wikipedia cho Quảng Trị' bắt đầu bởi hoanganhdha, 12/5/09.

  1. hoanganhdha Thành viên

    Tài liệu về dư địa chí quả là khó kiếm, mấy cuốn sách có thể làm nguồn tin tưởng cao lại không có dạng ebook. Qua mấy ngày tìm kiếm tài liệu, vơ đc một số cái, tạm thời post lên vài cái anh em lấy làm thông tin nếu thấy cần thiết, nếu có chủ để sẵn thì mình dễ tìm trong mớ tài liệu hỗn độn của mình hơn.

    Ebook Địa lý lịch sử Việt Nam của Ebook Team - Updatesofts, không ghi rõ nguồn tổng hợp, phần nói về Quảng Trị từ trang 455 đến trang 462, vì muốn giữ tính chất nguồn trích dẫn nên mình chụp trích ảnh trang và post dạng ảnh từ file PDF
    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    [IMG]

    Hiện tại đang mong muốn tìm kiếm và tổng hợp các thông tin:
    1. Ebook hoặc sách: Đại Nam Nhất thống chí, Minh mạng dư địa chí - ai có chia sẽ với nhóm
    2. Thông tin về danh nhân Quảng Trị, ai có về người nào thì tổng hợp về người đó, càng chi tiết càng tốt, tránh nêu mỗi cái tên
    Các bạn có thông tin vui lòng chia sẽ cho mình qua email: hoanganhdha@yahoo.com

    Sẽ post tiếp về Tiểu vùng văn hóa Quảng Trị - trích Ebook Các vùng văn hóa dân tộc Việt Nam từ sách của tác giả Lê Văn Hảo (dạng PRC nên lấy lại mệt hơn PDF)

    Mas, HưngBằngikondoit thích bài này.
  2. ikondoit Quản lý box

    Tư liệu này rất hay, rất cô đọng và có nhiều thông tin. Có thể tham khảo để thêm vào Wiki được là các thông tin về lễ hội, một số danh thắng có trong tài liệu này mà vẫn chưa có trên Wiki.
  3. hoanganhdha Thành viên

    Tiểu vùng văn hóa Quảng Trị

    Vài dòng về Tiểu vùng văn hóa Quảng Trị, trích lược từ Ebook Các vùng văn hóa dân tộc Việt Nam do capthoivu chuyển từ sách của tác giả Lê Văn Hảo, từ file PRC chụp ảnh lại để đảm bảo tính nguyên bản :|

    [IMG]

    [IMG]

    @all: thêm những thông tin cần nữa là các tư liệu về ca dao, tục ngữ, câu đố, dân ca - các điệu hò ... (nói chung và tác phẩm văn hóa dân gian Quảng Trị và đặc sản văn hóa ẩm thực, cùng nhau tìm đi nào

    HưngBằngikondoit thích bài này.
  4. HưngBằng Thành Viên Danh Dự


    Nhân vật lịch sử Quảng Trị
    I. Đồng chí Lê Duẩn



    [IMG]



    Đồng chí Lê Duẩn sinh ngày 7 tháng 4 năm 1907 tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị(1) trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước. Là người sớm giác ngộ tinh thần cách mạng, đồng chí Lê Duẩn là lớp người đầu tiên hưởng ứng và đi theo con đường cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

    Năm 1928, Đồng chí tham gia “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội“ , năm 1930 trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đó cho đến trước cách mạng tháng Tám, đồng chí luôn luôn nhận những trọng trách của Đảng, trực tiếp lãnh đạo nhân dân đấu tranh trên một địa bàn lớn như : Ủy viên ban tuyên huấn xứ ủy Bắc kỳ ( 1931), Bí thư xứ Ủy Trung kỳ, ủy viên thường vụ trung ương Đảng ( 1937). Đồng chí đã hai lần bị địch bắt, tra tấn dã man và đầy đi Côn Đảo.




    [IMG]



    Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí được Đảng, chính phủ đón về đất liền tham gia kháng chiến ở Nam Bộ. Năm 1946, đồng chí ra Hà Nội làm việc bên cạnh Hồ Chủ Tịch, cuối năm đó đồng chí được cử vào lãnh đạo kháng chiến ở Nam bộ.

    Năm 1951, đồng chí Lê Duẩn được bầu vào ban chấp hành trung ương Đảng và bộ chính trị. Từ năm 1947 đến năm 1954, đồng chí giữ chức vụ bí thư xứ ủy, bí thư trung ương cục miền Nam.

    Sau hiệp định Genève , đồng chí ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động cách mạng . Năm 1957, đồng chí ra Hà Nội lãnh đạo công việc chung của Đảng bên cạnh Hồ Chủ Tịch .

    Năm 1960, đồng chí lại được bầu vào ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ chính trị, giữ chức vụ bí thư thứ nhất và bí thư quân ủy trung ương .

    Từ sau năm 1975 cho đến ngày đồng chí qua đời, trải qua hai kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) và lần thứ V (1982), trên cương vị ủy viên bộ chính trị, Tổng bí thư ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Đồng chí Lê Duẩn là người lãnh đạo xuất sắc sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

    Sau năm 1975, với tư cách là người con của quê hương Quảng Trị và cũng là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã nhiều lần về thăm quê nhà (1978, 1981, 1983, 1985).





    II. Đoàn Khuê



    Ông sinh ngày 29/10/1923 tại làng Gia Đẳng, nay thuộc xã Triệu Lăng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.


    Người thanh niên yêu nước Đoàn Khuê được giác ngộ cách mạng và tích cực hoạt động trong tổ chức lúc tuổi còn rất trẻ. Năm 16 tuổi, ông tham gia phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1940, ông là Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Triệu Phong, Cuối năm 1940, ông bị Pháp bắt giam ở nhà lao Quảng Trị, sau chúng đưa ông lên nhà đày Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc), bị giam cầm, tù đày gần 5 năm. Tháng 5/1945, ông ra tù, đến hoạt động xây dựng cơ sở ở tỉnh Quảng Bình và được cử làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt minh tỉnh Quảng Bình.




    [IMG]





    Từ tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, ông được tổ chức phân công hoạt động trong lực lượng võ trang của Đảng. Và cũng từ đấy, liên tục trong suốt hai cuộc chống Pháp và Mỹ cứu nước đến ngày toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, ông là người chiến binh có mặt tại chiến trường Khu IV và Liên khuV, là người trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo hoạt động của những đơn vị từ tiểu đoàn, trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn đến quân khu.

    -Năm 1976, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh, chính uỷ quân khu V, Bí thư Đảng uỷ quân khu V.

    -Năm 1982, ông là Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh 719

    -Năm 1986, ông giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719.

    -Năm 1987, ông được Đảng và nhà nước bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam, Uỷ viên thường vụ Đảng uỷ quân sự Trung ương.

    -Năm 1990, ông được nhà nước phong quân hàm Đại tướng.


    -Năm 1991, ông là phó Bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ quốc phòng.

    Ông liên tục là uỷ viên BCH Trung ương Đảng từ khoá 4 đến khoá 8, đồng thời là uỷ viên Bộ Chính trị các khoá 6-7-8.

    Ông là đại biểu quốc hội liên tục các khoá 7-8-9-10.

    Do có nhiều công lao và thành tích đóng góp đối với cách mạng, đất nước, ông được Đảng, nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều Huân chương cao quý khác.

    Ông mất ngày 16/1/1999 tại Hà Nội, hưởng thọ 76 tuổi.







    III. Nguyễn Tác An



    *Họ và tên: Nguyễn Tác An

    *Sinh ngày: 12-12-1943

    *Bí danh, bút danh: NTA

    *Quê quán: thôn Xuân Mỵ, xã Trung Hải, huyện Gio Linh

    *Trú quán: số 62, Nguyễn Thị Minh Khai, Nha Trang, Khánh Hoà

    *Học hàm, học vị, chức danh khoa học: Phó tiến sĩ (1978)+, Tiến sĩ khoa học (1990), Phó giáo sư (1992), nghiên cứu viên cao cấp (2000).



    [IMG]




    Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia Chương trình Hải dương học liên Chính phủ (Uỷ ban IOC Việt Nam).

    Tổng Biên tập Tạp chí “Khoa học và công nghệ Biển Việt Nam”; Viện trưởng Viện Hải dương học tại Nha Trang.

    *Các công trình ấn phẩm đã công bố:

    - Đã công bố 95 bài báo trong Tạp chí Khoa học, công nghệ ở Việt Nam và nước ngoài. Đã xuất bản bốn đầu sách chuyên khảo và hướng dẫn kỹ thuật.

    *Khen thưởng:

    - Huy chương Vì sự nghiệp Khoa học Công nghệ (1996). - Huy chương Kháng chiến hạng Nhì (1997). Huy chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc (1997). - Huy chương Vì thế hệ trẻ (2001









    IV. Lê Bá Đảng



    *Họ và tên: Lê Bá Đảng

    *Sinh năm: 1921

    *Quê quán: làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong.

    *Trú quán: tại Pháp

    *Chuyên ngành: Hội hoạ




    [IMG]








    *Quá trình hoạt động:

    Năm 1939, ông sang Pháp, tham gia vào phong trào chống phát xít ở Pháp, bị Đức quốc xã bắt làm tù binh. Đầu năm 1940, được thả tự do. Hành nghề kiếm sống tại Pháp. Thi vào Học viện Nghệ thuật Toulouse. Năm 1950, Lê Bá Đảng trưng bày phòng tranh tại Paris, được dư luận xã hội chú ý. Từ đó đến nay, trong suốt 5 thập kỷ, năm nào ông cũng có tranh trưng bày tại Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản...

    Là một Việt kiều yêu nước, Lê Bá Đảng luôn luôn hướng về quê cha, đất tổ với những tình cảm sâu nặng. Ông đã dành một thời kỳ sáng tác đề tài Việt Nam bằng các kỹ thuật, phong cách của cả Đông lẫn Tây, mang chất thơ, chất sử thi - anh hùng ca. Ông còn là nhà điêu khắc, nghệ sĩ về đồ gốm, sứ và các đồ trang sức, nhà thiết kế trang phục và thiết kế sân khấu đầy sáng tạo, được nhiều giới ở phương Tây mến mộ. Ông đã về Việt Nam, mở cuộc triển lãm ở làng quê Bích La Đông để dâng lễ, tạ ơn ông bà tiên tổ, làng xóm, quê hương.


    *Các giải thưởng:

    - Năm 1989, Viện quốc tế Saint - Louis (Mỹ) tặng giải thưởng: Hoạ sĩ tài năng lớn, có tư tưởng nhân đạo; Được thành phố New - Orleans (Mỹ) bầu ông làm Công dân danh dự; Năm 1992, Trung tâm Tiểu sử Quốc tế Cambridge (Anh) tặng danh hiệu: Một người nổi tiếng thế giới năm 1992 - 1993; Năm 1994, ông được Pháp tặng Huân chương nghệ thuật và văn chương Pháp.








    V. Hồ Ngọc Đại



    *Họ và tên: Hồ Ngọc Đại

    *Sinh ngày: 3-4-1936

    *Quê quán: thôn Vệ Nghĩa, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong.

    *Trú quán: Số 6, phố Hoàng Diệu, Hà Nội

    *Chuyên ngành: Giáo dục và đào tạo.

    - Năm 1972, bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ; năm 1976 bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Lômônôxôp (Liên Xô trước đây).

    - Năm 1984 - Giáo sư.

    *Công trình chủ yếu:

    Nghiên cứu lý thuyết, thiết kế và thi công mẫu.

    Công nghệ giáo dục:

    Về chuyên đề này, tính đến năm 2003 đã xuất bản được chín quyển sách chuyên khảo









    VI. Phan Quang



    *Họ và tên: Phan Quang

    *Sinh năm: 1928

    *Quê quán: thôn Thượng Xá, xã Hải Thượng. huyện Hải Lăng.

    *Trú quán: số 31 phố Đặng Văn Ngữ, ngõ 6, quận Đống Đa, Hà Nội.

    *Quá trình công tác:

    [IMG]Tham gia cách mạng từ tháng 7-1945; được kết nạp vào Đảng ngày 25-11-1947.

    Từ tháng 8-1948, làm biên tập viên báo Cứu quốc Liên khu IV đóng tại Thanh Hoá và Nghệ An. Tháng 10-1949, trở lại Bình Trị Thiên, làm phóng viên báo Cứu quốc tại chiến trường cho đến hết năm 1950. Tham gia chiến dịch Hà Nam Ninh (1951), Thượng Lào (1952)... với tư cách phóng viên mặt trận.

    Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, được điều ra Bắc làm phóng viên, biên tập viên báo Nhân dân cho đến tháng 9-1982.

    Hội viên Hội Nhà báo; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.



    Từng giữ chức vụ: Uỷ viên Bộ Biên tập báo Nhân dân (1977-1982), Vụ trưởng báo chí (1982-1987) kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo (1984-1988), Thứ trưởng Bộ Thông tin (1987-1988), Tổng giám đốc - Tổng Biên tập, Bí thư Ban cán sự Đảng Đài Tiếng nói Việt Nam (1988-1997), kiêm Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam nhiệm kỳ V và VI (1989-2000), Phó Chủ tịch Tổ chức quốc tế các nhà báo OIJ, đại biểu Quốc hội, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội nhiệm kỳ VIII, IX và X (1987-2002). Là nhà báo Việt Nam có tên trong từ điển: Những người nổi tiếng thế giới (Who’s who in the Word của Mỹ năm 1995-1996).

    Tác phẩm đã xuất bản:

    Đã xuất bản hơn 40 đầu sách, trong đó có:

    *Các tập truyện vừa và truyện ngắn: Không khai (1954); Đất rừng (1955); Hẹn cưới (1956); Mùa xuân (1956);

    *Các truyện viết cho thiếu nhi: Săn cá voi (1958); Chinh phục Hymalayai (in lần thứ ba, 2000); Một mình giữa đại dương (1984, in lần thứ năm, 2000);

    *Các tập ký: Đất nước một dải (1975); Hạt lúa bông hoa (1978); Lâm Đồng - Đà Lạt (1978); Đồng bằng sông Cửu Long (1981, in lần thứ năm, 2000); Thơ thẩn Paris (2000); Bên mộ vua Tần (2004); Miền Trung ngày ấy chưa xa (2004); Du ký (2005);

    *Các tập tiểu luận và chân dung: Theo dòng thời cuộc (1995); NHững người tôi quý mến (2000); Về diện mạo báo chí Việt Nam (2001); Phác hoạ chân dung (2004);

    *Tuyển tập Phan Quang (ba tập, 1999).

    *Dịch và giới thiệu: Hoa lạ (1957); Hội chợ bán người (1961); Những ngôi sao ban ngày (1963, in lần thứ năm, 2005); Nghìn lẻ một đêm (1981, in lần thứ 18, 2004); Trở lại với đời (1988); Nghìn lẻ một ngày (2004, in lần thứ tư, 2005); Mười hai sử thi huyền thoại (2005).

    *Khen thưởng:

    - Huân chương Kháng chiến hạng Nhì; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Bắc đẩu Bội tinh của Cộng hoà Pháp năm 2000; Huy chương Vàng của OIJ...



    Nguồn:quangtri.gov.vn
  5. HưngBằng Thành Viên Danh Dự

    Các trận chiến dịch ở Quảng Trị...


    Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị (28/6/1972 đến 31/1/1973) Chiến dịch phòng ngự của quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại thị xã Quảng Trị và vùng ven, đánh trả cuộc phản công của Quân đội Sài Gòn được không quân và hải quân Mĩ yểm trợ, bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị, phục vụ yêu cầu của đấu tranh chính trị ngoại giao tại Hội nghị Pari (1968 -1973).

    Bộ tư lệnh chiến dịch gồm: Tư lệnh Thiếu tướng Trần Quý Hai, Chính uỷ Trung tướng Song Hào.

    Lực lượng địch gồm 3 sư đoàn (dù, bộ binh, thuỷ quân lục chiến) 1 liên đoàn biệt động quân, 1 lữ đoàn và 1 thiết đoàn thiết giáp, 1 sư đoàn không quân, 4 tiểu đoàn pháo binh và lực lượng Vùng 1 hải quân Quân đội Sài Gòn cùng hàng trăm lượt máy bay B-52/ngày và hàng trăm khẩu pháo trên các chiến hạm của Mỹ đánh phá liên tục.

    Lực lượng của ta gồm 5 sư đoàn bộ binh (304, 308, 312, 320B và 325) và 1 trung đoàn độc lập, 5 tiểu đoàn đặc công, 1 trung đoàn tăng thiết giáp, 3 trung đoàn pháo binh, 4 trung đoàn pháo phòng không, 1 trung đoàn tên lửa phòng không, 2 trung đoàn công binh và 5 tiểu đoàn bộ đội địa phương.

    Chiến dịch diễn ra ba đợt:

    Đợt 1(từ 28/6 đến 16/9/1972): Quân đội Sài Gòn dùng 2 sư đoàn tổng dự bị chiến lược (dù, thuỷ quân lục chiến) và lực lượng lớn pháo binh, xe tăng, xe thiết giáp, dưới sự yểm trợ hoả lực của không quân Mĩ, từ hai hướng tiến công thị xã và thành cổ Quảng Trị.

    Bộ đội ta kiên cường bám trụ, giữ vững thành cổ suốt 81 ngày đêm. Ngày 16/9, ta rút ra bắc sông Thạch Hãn.

    Đợt 2 (từ 17/8/1972 đến 25/1/1973): Địch liên tiếp mở các cuộc tiến công về hướng Đông Hà - Ái Tử hòng chiếm lại các vị chí đã mất, ta tổ chức phòng ngự khu vực, chặn đứng các cuộc tiến công của địch ở nam bắc sông Thạch Hãn.

    Đợt 3 (từ 26 đến 31/1/1973): Địch thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" trước khi hiệp định Pari 1973 về Việt Nam có hiệu lực, bí mật bất ngờ đánh chiếm Cửa Việt, ta tập trung lực lượng tiến hành phản đột kích tiêu diệt hoàn toàn quân địch lấn chiếm (trận Cửa Việt, 31/1/1973), kết thúc chiến dịch.

    Trong chiến dịch phòng ngự Quảng Trị lúc đầu ta chuyển vào phòng ngự trong thế bị động, lúng túng, nên có khó khăn, tổn thất. Sau đó củng cố được thế trận, từng bước đẩy lùi các mũi tiến công của địch, giành thắng lợi.

    Kết quả loại khỏi chiến đấu hơn 29.000 địch (bắt 226), diệt 1 lữ đoàn và 12 đại đội. Phá huỷ 345 xe tăng, thiết giáp (thu 13 xe), 273 khẩu pháo, bắn rơi 169 máy bay, bắn chìm 9 tàu chiến thu gần 1.000 súng các loại, giữ vững khu vực giải phóng phía Bắc sông Thạch Hãn.

    Nguồn: Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam



    TRẬN ĐÔNG HÀ (26 - 28.4.1972):
    trận then chốt trong đợt 2 Chiến dịch Quảng Trị 1972. Sau đợt 1 (bắt đầu từ 30.3.1972), bộ đội Việt Nam đã phá vỡ phòng tuyến đường 9, giải phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh và Cam Lộ, đưa lực lượng áp sát và uy hiếp thị xã Quảng Trị và Đông Hà từ hướng tây và bắc. Để giữ vững khu vực phòng ngự Đông Hà - Ái Tử - La Vang, quân Sài Gòn đã tăng cường cho thị xã Đông Hà Trung đoàn 57, Sư đoàn 3, hai liên đoàn biệt động quân 4 và 5, hai thiết đoàn 17 và 20. Tại đây, quân đội Sài Gòn đã sử dụng chiến thuật phòng ngự vỏ thép dày bằng cách đưa xe tăng và thiết giáp để thiết lập hệ thống hoả điểm chìm ở tiền duyên với hi vọng ngăn chặn và tiêu diệt đối phương ngay trước tiền duyên. Trước tổ chức và phương pháp phòng ngự mới của quân đội Sài Gòn, các phương pháp tác chiến truyền thống như vây lấn, tập kích, vv. cũng như các thủ đoạn tác chiến như thọc sâu, chia cắt, bắn tỉa... của bộ đội Việt Nam bộc lộ nhiều hạn chế. Việc đưa các hoả khí chống tăng vào gần để diệt từng lô cốt chìm bằng xe tăng và xe bọc thép và đặc biệt sự xuất hiện đúng lúc của tên lửa chống tăng có điều khiển đã tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội Việt Nam đột phá dễ dàng, chọc thủng phòng ngự mạnh, buộc đối phương bị thương vong lớn và tháo chạy tán loạn, bỏ lại toàn bộ trang thiết bị.


    Trận Làng Vây (6-7/2/1968)

    Là trận tiến công của Trung đoàn 24 (Sư đoàn 304) được tăng cường Tiểu đoàn bộ binh 2 (Trung đoàn 101, Sư đoàn 325), Tiểu đoàn pháo binh 2 (Trung đoàn 675), 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn xe tăng (thiếu), 2 đại đội đặc công, 1 đại đội súng máy phòng không, 1 trung đội súng phun lửa, đánh cứ điểm làng Vây, huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, trong đợt 1 chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (20/1-15/7/1968).

    Làng Vây là cứ điểm mạnh trên tuyến phòng thủ đường 9 của địch, có hệ thống công sự, hầm ngầm kiên cố, do 4 đại đội biệt kích và thám báo Quân đội Sài Gòn đóng giữ.
    23 giờ 30 phút ngày 6/2, sau khi dùng pháo binh chế áp, ta thực hành tiến công, kết hợp bộ binh, đặc công, xe tăng đột phá cứ điểm từ 3 hướng ( nam, tây bắc và đông bắc). 1giờ 5 phút ngày 7/2, ta chiếm được khu trung tâm, từ 3 giờ 30 phút đánh chiếm xong các khu vực, tiến hành truy quét, gọi hàng quân địch lẩn trốn trong các hầm ngầm, đến 10 giờ, ta làm chủ cứ điểm.

    Kết quả diệt 400 tên, bắt 253 tên địch, thu toàn bộ vũ khí, trang bị, giải phóng khu vực đường 9 từ Cà Lu đến biên giới Việt Lào, tạo thế vây hãm Tà Cơn và đánh địch phản kích.
    Trận làng Vây là trận then chốt của chiến dịch, lần đầu tiên ta sử dụng xe tăng tiến công địch phòng ngự trong công sự vững chắc, đánh dấu bước phát triển mới về tác chiến hiệp đồng binh chủng của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

    Nguồn: Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam





    TRẬN LỘC NINH (5 - 8.4.1972):
    trận chiến đấu tiêu diệt gọn một lữ đoàn quân Sài Gòn trong công sự vững chắc và giải phóng quận lị, diễn ra ở Lộc Ninh. Phía quân đội Sài Gòn có Chiến đoàn 9, Thiết đoàn kị binh 1 và Tiểu đoàn 74 biệt động quân. Phía bộ đội Việt Nam có Sư đoàn 5, được tăng cường một trung đoàn của Sư đoàn 9. Đây là trận then chốt mở đầu Chiến dịch Nguyễn Huệ ở Miền Đông Nam Bộ để phối hợp với Chiến dịch Quảng Trị trong Cuộc tiến công chiến lược mùa xuân 1972. Bằng nhiều phương pháp và thủ đoạn tác chiến linh hoạt, thích hợp, trong đó lấy vây lấn, vận động tiến công kết hợp chốt và đột phá bằng xe tăng làm chính, bộ đội Việt Nam đã diệt gọn cụm cứ điểm Lộc Ninh, thu nhiều vũ khí và bắt sống cả ban chỉ huy chiến đoàn, giải phóng thị trấn.




    TRẬN THANH HƯƠNG (11 - 12.3.1951):
    trận chiến đấu vận động tiến công chống lại cuộc hành binh của hơn 2.500 quân cơ động ứng chiến Pháp ở giữa 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên. Phía Pháp sử dụng 2 binh đoàn (gồm 8 tiểu đoàn) tiến hành càn quét vào Thanh Hương - Mỹ Xuyên. Phía Việt Nam có 2 trung đoàn 95 (Quảng Trị) và 101 (Thừa Thiên) đã diệt được một bộ phận quân cơ động Pháp, bảo vệ nhân dân, bảo vệ mùa thu hoạch lúa, bảo vệ vùng du kích. Liên tục cơ động chiến đấu, kết hợp chốt chặn với tập kích, truy kích hết sức linh hoạt, bộ đội Trị - Thiên đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 1.500 quân Pháp, bắt sống 125 (trong đó diệt gọn Tiểu đoàn Lê dương 4 của Binh đoàn Buttin), đánh bại chiến thuật "bao vây cất lưới" của Pháp. TTH đánh dấu bước trưởng thành từ du kích chiến lên vận động chiến của bộ đội Bình - Trị - Thiên. Khi thành lập Đại đoàn 325, ngày 11.3 trở thành ngày truyền thống của Đại đoàn.




    TRẬN MANG CÁ (5.7.1885):
    trận tập kích quân Pháp đóng ở đồn Mang Cá (x. Mang cá), do Tôn Thất Thuyết chỉ huy. Đơ Cuôcxy (de Courcy) đem quân từ Bắc Kỳ vào Huế (2.7.1885) với mục đích buộc triều đình Huế phải khuất phục. Quân Pháp ở Huế lúc đó có một trung đoàn (1.400 quân, 17 pháo). Quân triều đình, cả trong và ngoài thành nội có trên 20 nghìn. Từ 0 giờ 40 phút ngày 5.7, quân triều đình đồng thời tiến công toàn bộ các đồn trại của Pháp ở Mang Cá và toà Khâm sứ. Đến 6 giờ 45, quân Pháp phản công, 8 giờ 10, chiếm được toàn thành nội. Quân triều đình bị thiệt hại: 1.000 chết, 812 súng thần công và nhiều của cải khác bị mất. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi và gia quyến rút khỏi Huế, về Tân Sở (Quảng Trị). Tại đây, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần vương.

Chia sẻ trang này