Nền Văn Minh Hy Lạp

Thảo luận trong 'Lịch sử - Nhân văn' bắt đầu bởi anh26, 12/10/06.

  1. anh26 Guest

    Địa điểm xuất phát phát triển của nền văn minh Hy Lạp là đồng bằng Thessalia (Θεσσαλία) màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc Hy Lạp cùng với các đồng bằng Attike (Αττική), Beotia (Βοιωτια) ở trung Hy Lạp và bán đảo Peloponnese (Πελοπόννησος) ở phía nam Hy Lạp. Tại đây nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển rất sớm. Địa hình Hy Lạp có nhiều đồi núi xen kẽ, chia cắt các đồng bằng, tạo thành các tiểu vùng. Các bờ biển phía đông Hy Lạp là nơi tấp nập tàu thuyền.

    Lãnh thổ nền văn minh Hy Lạp thời kỳ đầu bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Aegaeum và vùng Tây Tiểu Á.

    Địa lý Hy Lạp đa dạng kết hợp với khí hậu tốt, cận nhiệt đới, vào mùa đông ít tuyết. Khí hậu Hy Lạp mưa nhiều vào mùa đông sang mùa xuân rất thuận lợi cho trồng trọt.

    Hy Lạp có nhiều khoáng sản như sắt (ở Sparte - Σπάρτη), đồng (ở đảo Kypros - Κύπρος), vàng (ở Thrace - Θράκη) và bạc (ở Attike - Αττική). Đó là điều kiện thuận lợi cho thủ công nghiệp phát triển khá sớm.

    Những điều kiện địa lý, tự nhiên rất thuận lợi cho các ngành nghề như thương mại, thủ công nghiệp và một nền nông nghiệp tuy không giàu có nhưng đủ đảm bảo các nhu cầu của cư dân trong vùng.

    Hy Lạp nằm ở vị trí thuận lợi, án ngữ trên con đường giao lưu của các dòng di cư trong lịch sủ cổ đại của các dòng người từ châu Phi lên, từ Trung Á sang, từ châu Âu xuống.

    Cư dân Hy Lạp gọi vùng đất của mình là Acaios rồi Ddanaos, đến khi La Mã xuất hiện thì gọi là Henlat và người Hy Lạp được gọi là Hellen.

    Tuy nền văn minh Hy Lạp xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập cổ đại nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị.

    Các thời kỳ của văn minh Hy Lạp

    Văn minh Hy Lạp trải qua các thời kỳ phát triển rực rỡ, người ta chia làm hai thời kỳ lớn: thời kỳ Tiền Hy Lạp (kéo dài từ 3000 năm đến 1200 năm TCN) và thời kỳ Hy Lạp chính thống (từ thế kỷ 12 TCN đến thế kỷ 1 TCN).

    Thời kỳ Tiền Hy Lạp (còn gọi là thời kỳ văn minh vùng biển Aegaeum) bao gồm ba giai đoạn:

    Giai đoạn văn hóa đồ đồng, thiên niên kỷ 3, gần như còn rất ít dấu vết.
    Giai đoạn văn minh Aegean (đảo Crete - Mycenae) (năm 2000 - 1600 TCN)
    Giai đoạn văn minh Mycenaean (năm 1600 TCN - 1200 TCN).
    Thời kỳ Hy Lạp chính thống được phân ra ba thời kỳ nhỏ:

    Thời kỳ Viễn cổ (còn gọi là Thời kỳ Đen tối của Hy Lạp), (thế kỷ 12 đến thế kỷ 9 TCN)
    Thời kỳ Cổ điển (Hy Lạp cổ đại), (năm 776 TCN đến 323 TCN)
    Thời kỳ Hy Lạp hóa, (năm 323 TCN đến 146 TCN)
    Thời kỳ hậu Hy Lạp chính thống:

    Thời kỳ Roma (năm 146 TCN đến 330)
    Thời kỳ Đế chế Byzantine (330 đến 1453)

    Văn học Hy Lạp

    Ngôn ngữ và chữ viết Hy Lạp
    Xem bài chính: tiếng Hy Lạp

    Văn học kinh điển Hy Lạp cổ
    Văn học cổ điển được viết dưới thời Hy Lạp cổ xưa từ thế kỷ thứ 4 và phát triển lên trong thời Đế chế Byzantine. Vào thời kỳ đầu, Hy lạp có 2 tác phẩm đồ sộ của Homer, Iliad và Odyssey. Một nhà thơ vĩ đại của thời kỳ này là Hesiodos (Ησίοδος). Ông có hai tác phẩm trường tồn là Works and Days (Έργα και ημέραι) và Theogonia (Θεογονία).

    Chiếm vị trí quan trọng trong văn học Hy Lạp cổ đại phải kể đến thần thoại Hy Lạp. Thần thoại Hy Lạp khá phong phú và thể hiện trong đó cách giải thích của người Hy Lạp về tự nhiên, nguồn gốc loài người đồng thời nêu lên những kinh nghiệm của cuộc sống lao động và ước vọng của mình. Các nhân vật trong thần thoại từ vũ trụ, thần thánh tới các bậc anh hùng dũng sĩ. Từ khối hỗn mang (gọi là Chaos), xuất hiện nữ thần đất Gaia rồi thần ái tình Eros nhờ đó Chaos và Gaia lấy nhau sinh ra đêm tối, ánh sáng, sao trời, biển cả, núi non, sông ngòi, sấm chớp... Bàn tay khéo léo của Prometheus đã nặn ra loài người từ đất sét và lấy trộm lửa mang đến cho loài người. Dưới sự điều khiển của thần Zeus, vị thần tối cao của các thần ngự trị trên đỉnh Olympus quanh năm tuyết phủ đã can thiệp vào mọi lĩnh vực đời sống con người. Thần thánh vừa thể hiện sức mạnh của trần gian vừa thể hiện sự lao động sáng tạo của con người như: thần trồng nho Dionysus, nữ thần nông nghiệp Demetra, thần thợ rèn Hephaistos, nữ thần anh hùng Calios, nữ thần múa Ternexiso...

    Nhiều bài thơ trữ tình cũng được sáng tác ở thời kỳ này là của Sappho (Σαπφώ) và Pindarus (Πίνδαρος). Những người Hy Lạp còn nổi tiếng với các tác phẩm kịch sân khấu và các trường ca bất hủ. Có khoảng 100 vở bi kịch được trình diễn trong suốt thời gian dài[1], về sau chỉ còn ba kịch gia được xem là tồn tại lâu hơn cả: Aeschylus (Αἰσχύλος), Sophocles (Σοφοκλης) và Euripides (Ευριπίδης). Trên cơ sở truyện dân gian, ra đời truyền thuyết về thành Troy.

    Giống như các vở bi kịch, thể loại kịch nói cũng được thể hiện trong các dịp trang trọng tại nhà hát Dionysus tại Athena, nhưng ở đây vở diễn bao hàm đầy đủ các yếu tố như tục tĩu, chửi bới và lăng nhục. Một tác phẩm kịch trường tồn của Aristophanes (΄Αριστοφανης) là một kho tàng của thể loại hài hước. Menanderus (Μένανδρος) là nhà văn đã đề xuất thể loại kịch Hy Lạp theo trào lưu mới.

    Tác phẩm văn xuôi vĩ đại của thế kỷ thứ 4 là viết về triết học. Thời kỳ này xuất hiện rất nhiều triết gia Hy Lạp, nhưng có ba triết gia nổi tiếng: Socrates, Platon và Aristotle. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, Platon là người hầu như không có đối thủ.

    Sử học Hy Lạp
    Hai trong rất nhiều nhà sử học của thời kỳ Hy Lạp cổ điển là Herodotus (Ἡρόδοτος) và Thukydides (Θουκυδίδης). Nhà sử học thứ ba, Xenophon (Ξενοφῶν), viết Hellenica khi Thucydides kết thúc công việc vào năm 411 TCN và được tiếp tục công việc cho đến năm 362 TCN.

    Vào thời kỳ Roma, Hy Lạp có các sử gia quan trọng sau thời Alexander Đại đế là Timaeus, Polybius (Πολυβιος), Diodorus Siculus, Dionysius của Halicarnassus, Appian của Alexandria, Lucius Flavius Arrianus và Plutarch. Thời kỳ của các tác phẩm sử học được họ viết từ thế kỷ thứ 4 TCN cho đến thế kỷ thứ 2.

    Nghệ thuật

    Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡ và để lại dấu ấn sâu sắc hơn cả.

    Những công trình điêu khắc Hy Lạp cổ thời gian đầu chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ thuật phương Đông. Nhưng nghệ thuật tạo hình và điêu khắc đạt đến đỉnh cao là ở thời kỳ Hy Lạp hóa (thế kỷ 5 đến thế kỷ 4 TCN). Nhiều công trình được sáng tạo bởi Polygnotus, Myron, Phidias. Tác phẩm Tượng thần Athena và Marsyas (tại Vườn Bách thảo của Copenhagen) được sáng tác bởi Myron.

    Kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp cổ thường đi song hành bên nhau. Những giá trị lớn tập trung tại các công trình kiến trúc lớn, những bức tranh tường, những bức tượng lớn trong một đại sảnh là hình ảnh thường gặp ở Athena.

    Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đã có tác dụng kinh điển và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiều quốc gia từ cổ đại cho đến ngày nay.

    Đồ gốm của Hy Lạp cổ đại có thể xem như những tác phẩm tuyệt đẹp và sức lan tỏa, thắm đượm tinh chất huyền

    thoại và thơ ca Hy Lạp cổ. Đồ gốm được sản xuất cho các công việc và sử dụng chúng hàng ngày mà không phải để trưng bày. Rất nhiều đồ gốm Hy Lạp cổ đại vẫn còn cho đến ngày nay, như các loại bình đựng rượu, bình đựng nước, các bình tế lễ, các loại bình có tay cầm, các loại chén bát.

    Phong cách làm gốm của Hy Lạp cũng thay đổi theo các thời kỳ khác nhau, mỗi thời kỳ lại có những đặc sắc riêng, càng về sau càng tinh xảo và thẩm mỹ hơn.

    Các bức tượng cổ Hy Lạp là cả một nền nghệ thuật mẫu mực, ảnh hưởng đến trường phái nhiều quốc gia châu Âu sau này, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách Roma cho đến thời kỳ Phục Hưng.

    Kiến trúc Hy Lạp cổ là những công trình đồ sộ và nghệ thuật cho cả châu Âu sau này

    Triết học Hy Lạp cổ

    Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái triết học duy vật và duy tâm.

    Đại diện cho trường phái duy vật là các nhà triết học nổi tiếng như: Thales, Heracleitus, Democritus...
    Đại diện cho trường phái duy tâm là các nhà triết học: Platon, Aristotle...

    Ẩm thực Hy Lạp cổ

    Bức tranh ẩm thực Hy Lạp cổ đại phản ánh như là đặc tính tiết kiệm, chính là đặc trưng của vùng Địa Trung Hải, bởi vì nông nghiệp thực sự không thuận lợi cho khu vực này. Các món ăn truyền thống như, bánh mì, dầu ôliu và rượu.

    Ngoài những thực phẩm chính trên, người Hy Lạp cổ đại còn các thực phẩm như: trái cây và các loại rau, thịt và cá, sữa dê, mật ong...

    Những dụng cụ dùng để chế biến và sử dụng thức ăn hàng ngày cũng như cất giữ thục phẩm của người Hy Lạp cổ đại được xem là tuyệt đẹp và có tầm ảnh hưởng đến nghệ thuật châu Âu nhiều thế kỷ sau này và cho đến tận ngày nay.

    Ẩm thực thường ngày của cư dân Hy Lạp cổ đại thường có các bữa như sau:

    Điểm tâm (ἀκρατισμός / akratismós) là bánh mì cùng với rượu, đôi khi có thêm trái sung và một ít quả ôliu.
    Ăn nhẹ (ἄριστον / ariston)[2].
    Bữa chính (δεῖπνον / deĩpnon), là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày, thường vào buổi tối, hay hoàng hôn.

    Các hoạt động thể thao Hy Lạp cổ

    Thể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.

    Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp. Những cuộc thi đấu được diễn ra ở Olympia, một địa điểm thiêng liêng cho các thần Hy Lạp, trong quận Elis của vùng Tây Hy Lạp. Đền thờ ở Olympia có chứa một bức tượng của thần Zeus cao đến 12 mét bằng ngà voi và vàng do Phidias điêu khắc. Bức tượng này chính là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại.

    Thành tựu y học Hy Lạp cổ

    Về y học, Hy Lạp cổ có một thiên tài lỗi lạc, đó là Hippocrates, một trong những danh y giỏi nhất của mọi thời và thường được xem là cha đẻ của y học. Sinh năm 460 TCN tại đảo Cos vùng biển Aegeum, Hippocrates là con trai một người làm thuốc, được cha truyền cho những kiến thức về y tế, sau đó tiếp tục học ở Athena và nhiều thành phố khác trong vùng. Ông hành nghề trên đảo Cos và nổi tiếng từ đó. Vào thời trước Hippocrates, người Hy Lạp rất mê tín dị đoan. Họ tin rằng bệnh tật do ma lực huyền bí gây nên và chỉ có thể được chữa khỏi nhờ các thầy phù thuỷ.

    Hippocrates đã mở ra một kỷ nguyên mới cho y học, xem bệnh tật như một hiện tượng thiên nhiên, có thể chữa trị dựa vào quan sát lâm sàng tỉ mỉ cũng như căn cứ vào các triệu chứng của bênh. Cụ thể là ông nhìn nước da, quan sát mắt bệnh nhân, chú ý họ có bị sốt hoặc lạnh hay không.

    Hippocrates cũng khuyến khích học trò làm việc hết sức mình vì lợi ích của bệnh nhân. Lời thề nổi tiếng mà các bác sĩ tuyên đọc trước khi ra trường trước đây, về sau được đặt tên là lời thề Hippocrates. Lời thề này chủ yếu nhấn mạnh, cấm bác sĩ giúp nữ bệnh nhân phá thai, trao thuốc độc theo yêu cầu, gợi ý của bệnh nhân, làm phẫu thuật không cần thiết. Ngoài ra, lời thề còn đòi hỏi bác sĩ tránh quan hệ tình dục với bệnh nhân, không tiết lộ những chuyện liên quan đến bệnh nhân.


    Xã hội và lối sống của Hy Lạp cổ đại

    Nô lệ dưới thời Hy Lạp cổ

    Mại dâm dưới thời Hy Lạp cổ

    Đồng tính nam dưới thời Hy Lạp cổ

    Toán, lý học Hy Lạp cổ

    Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Euclides, người đưa ra các tiên đề hình học và đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp; Pythagoras, người đã chứng minh định lí mang tên ông và ngay từ thế kỉ thứ 5 TCN đã đưa ra giả thuyết Trái Đất hình cầu; Thales, người đã đưa ra định lí Thales; và, đặc biệt nhất, Archimedes, người đã đề ra nguyên lí đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy Archimedes).

    Luật pháp và tổ chức nhà nước

    Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại.

    Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua những cải cách của Solon, Cleisthenes và Pericles.

    Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Draco, bộ luật này có những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của Solon, Cleisthenes... luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng cũng chỉ công dân tự do mới được hưởng, nô lệ thì không).

    Thần thoại Hy Lạp

    Thần thoại Hy Lạp là những truyện thần thoại của người Hy Lạp, bao gồm các truyền thuyết về các vị nam thần, nữ thần và các vị anh hùng của người Hy Lạp. Ban đầu, thần thoại Hy Lạp là những câu chuyện thơ truyền khẩu qua nhiều thế hệ. Các câu chuyện đó tồn tại đến ngày nay là nhờ các ghi chép về các câu chuyện truyền miệng nói trên, đôi khi chúng được bổ sung thêm các lời giải thích về các ý nghĩa biểu tượng hoặc các hàm ý khác có thể là hiện đại hoặc cổ điển. Nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu là tìm ra những ý nghĩa ban đầu được ẩn dấu trên các hình vẽ trên các bình gốm sứ, các bức họa,... hoặc đằng sau những nghi lễ tôn giáo còn tồn tại đến ngày nay.

    Trong các truyền thuyết, câu chuyện và trường ca, tất cả các vị thần của Hy Lạp cổ đại đều được miêu tả giống như hình dáng của con người, ngoại trừ một số sinh vật nửa người nửa thú như các nhân sư, số còn lại đều có nguồn gốc từ vùng Cận Đông và vùng Thổ Nhĩ Kỳ. Các vị thần Hy Lạp có thể sinh con nhưng trẻ mãi không già, không bị thương tổn, không ốm đau, có thể trở nên tàng hình, có thể di chuyển rất nhanh và có thể dùng người là phương tiện truyền đạt ý tưởng của họ mà người đó có thể biết hoặc không biết. Mỗi vị thần có một hình dáng, một nguồn gốc, một sở thích, một cá tính và một lĩnh vực chuyên môn mà họ quản lý; tuy nhiên, việc miêu tả các thần thường xuất phát từ các dị bản khác nhau nên không phải lúc nào cũng ăn khớp với nhau. Khi các vị thần được vinh danh trong thơ ca hoặc khi cầu nguyện thì họ được coi như là một ý nghĩa tổng hợp gồm tên và trách nhiệm của các vị để phân biệt với các hình ảnh khác của các thần. Trách nhiệm của một vị thần có thể phản ánh một khía cạnh đặc biệt về vai trò của vị thần đó, ví dụ, Apollo, vị thần thơ ca là tên dành cho thần Apollo, được coi là người bảo trợ cho nghệ thuật: thơ, ca, nhạc, họa; người cầm đầu các tiên nữ thơ ca muse. Nhưng trách nhiệm của một vị thần cũng có thể dùng để phân biệt một khía cạnh đặc biệt nào đó của một vị thần.

    Trong các truyện thần thoại Hy Lạp, các vị thần được miêu tả là những người thuộc cùng một gia đình đa thế hệ. Vị thần già nhất tạo ra thế giới, nhưng các vị thần trẻ hơn đã thay thế các vị thần già. Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus là các vị thần quen thuộc nhất với tôn giáo Hy Lạp và nghệ thuật Hy Lạp và được miêu tả trong các sử thi có hình dáng của con người trong "Thời đại của các anh hùng". Đó là các bài học mà tổ tiên người Hy Lạp phải học để có được các kỹ năng cần thiết, lòng kính sợ thần thánh, đề cao đức hành và trừng phạt tội lỗi. Các vị thần nửa người, nửa thần được gọi là các "anh hùng" và cho đến khi thiết lập được thể chế dân chủ, các hậu duệ người Hy Lạp xây dựng trên cơ sở của tổ tiên.

    Bản chất và nguồn gốc

    Mặc dù tất cả các nền văn hóa trên thế giới đều có các thần thoại riêng của mình, thuật ngữ "thần thoại" trong các ngôn ngữ Tây phương (mythology trong tiếng Anh, mythologie trong tiếng Pháp, mitología trong tiếng Tây Ban Nha...) bắt nguồn từ người Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: μυθολογία - mythologia) và mang một ý nghĩa đặc biệt trong văn hóa Hy Lạp.

    Thuật ngữ Hy Lạp mythologia là một từ ghép gồm hai từ đơn:

    mythos — trong trường ca Homer của Hy Lạp cổ đại khái có nghĩa là "một bài diễn văn hay bài diễn ca được nghi thức hóa" của một thủ lĩnh ở một cuộc tập họp, hay của một nhà thơ hoặc một thầy tế.

    logos — trong Hy Lạp cổ mang nghĩa là "một câu chuyện có sức thuyết phục, một lập luận chặt chẽ".

    Vì thế, theo nguyên nghĩa, một thần thoại là một sự nỗ lực trong việc mang lại ý nghĩa cho các câu chuyện được cách điệu hóa mà người Hy Lạp đã kể trong các lễ hội, xì xào ở các đền đài và bàn tán trong các tiệc tùng của quý tộc. Vì ít người nào lại hay lý sự hơn các nhà thơ, các thầy tế và các quý tộc, các tài liệu thần thoại đầy dẫy các mâu thuẫn. Vả chăng, các mâu thuẫn này cũng mang một ý nghĩa hài hước.

    Một vài nguồn tham khảo dùng trong việc nghiên cứu Thần thoại Hy Lạp bao gồm:

    Thi ca của các thời kỳ Cổ Đại (bao gồm Tối Cổ (Archaic) và Thượng Cổ (Classical)) — chủ yếu được sáng tác nhằm phục vụ cho các lễ hội tôn giáo hay các bữa tiệc quý tộc, cho nên là một phần của mythos theo nghĩa của Homer. Bao gồm:

    1. Các tác phẩm của Homer: Odyssey, Iliad và Sử thi Homer (Homeric hymns).
    Thần phả (Theogony) của Hesiod.
    Các tác phẩm kịch nghệ của Aeschylus, Sophocles, Euripides và Aristophanes.
    Các bài lễ ca của Pindarus và Bacchylides.
    2. Các tác phẩm của các sử gia như Herodotus và Diodorus Siculus, và các nhà địa lý học như Pausanias và Strabon, những người đã đi khắp thế giới Hy Lạp và ghi nhận các câu chuyện họ đã nghe được ở các thành phố khác nhau.
    3. Các tác phẩm của các nhà sưu tầm và ghi chép thần thoại, những người đã viết các chuyên luận bằng văn xuôi dựa vào các nghiên cứu học thuật mà cố gắng giải rối những chi tiết mâu thuẫn của các thi sĩ. Tác phẩm Bibliotheke của Apollodorus thành Athena là tác phẩm lớn nhất hiện có của thể loại này.
    4. Thi ca của các thời đại văn minh Hellen và Roman cổ, dù được sáng tác thiên về mục đích văn học hơn là tôn giáo, nhưng vẫn chứa đựng nhiều chi tiết quan trọng, bao gồm các tác phẩm của:
    Các thi sĩ thời Hellen như Apollonius của đảo Rhodes và Callimachus.
    Các thi sĩ thời Roman như Hyginus, Ovid, Statius, Valerius Flaccus và Virgil.
    Các thi sĩ Hy Lạp thời Hậu Cổ Đại như Nonnus và Quintus Smyrnaeus.
    5. Các tiểu thuyết cổ của Apuleius, Petronius, Lollianus và Heliodorus.

    Tổng quan

    Thần thoại Hy Lạp có phạm vi rất rộng lớn, bao gồm từ các tội ác khủng khiếp của các thần Titan và các cuộc chiến đẫm máu ở thành Troy và Thebes, đến các trò tinh nghịch trẻ con của Hermes và sự đau khổ đến động lòng của Demetra vì con gái Persephone. Không thể đếm nổi số lượng các nam thần (god), nữ thần (goddess), nam anh hùng (hero), nữ anh hùng (heroine), quái vật (monster), ma quỷ (demon), các nữ thần núi và sông (nymph), các nhân dương (satyr) và nhân mã (centaur) đã xuất hiện.

    Thần thoại Hy Lạp có một bảng niên đại tuy không chính xác lắm. Các mâu thuẫn trong các tài liệu làm cho việc phân khúc thời gian của thần thoại Hy Lạp không được chính xác. Tuy nhiên, thần thoại Hy Lạp được phân tạm ra thành ba thời đại:

    Thời đại của các vị thần,
    Thời đại thần và người sống hòa vào nhau một cách tự do, và
    Thời đại của các anh hùng, khi mà hoạt động của thần thánh bị hạn chế hơn.

    Trong khi các người nghiên cứu thường có hứng thú hơn về các huyền thoại thuộc về thời đại của các vị thần, các tác giả Hy Lạp trong các kỷ nguyên Tối Cổ (Archaic) và Thượng Cổ (Classical) rõ ràng lại tỏ ra ưa thích các huyền thoại thuộc về thời đại của các anh hùng, ví dụ như hai bản anh hùng ca Iliad và Odyssey, hơn hẳn các câu chuyện tập trung vào thần thánh như Thần phả và Sử thi Homer về cả quy mô lẫn tính đại chúng.


    Ngay từ cổ xưa, các tác giả như Herodotus đoán rằng người Hy Lạp đã vay mượn hàng loạt các vị thần từ người Ai Cập. Sau này, các tác giả Cơ Đốc đã cố gắng giải thích việc thờ nhiều thần của người Hy Lạp như là một sự thoái hóa của tôn giáo đến từ Kinh thánh. Tuy nhiên, vào các thế kỷ 19 và 20, các ngành khoa học khảo cổ và ngôn ngữ được dùng để giải thích nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp.

    Một mặt, ngôn ngữ học lịch sử cho thấy một vài phần của thần hệ Hy Lạp đến từ xã hội Ấn-Âu cùng với cội nguồn của ngôn ngữ Hy Lạp. Vì thế, ví dụ, cái tên Zeus có cùng nguồn gốc với Jupiter trong tiếng Latinh, Dyaus trong tiếng Phạn và Tyr trong tiếng Đức (xem Dyeus), cũng như tên Ouranos với tên Varuna trong tiếng Phạn. Trong các trường hợp khác, các sự tương tự trong các nhân vật và chức năng của họ cũng chứng tỏ một cội nguồn chung, tuy nhiên, các chứng cứ ngôn ngữ học còn chưa đủ, nên khó có thể chứng thực được - như trong trường hợp Moirae của người Hy Lạp và Norns của thần thoại Bắc Âu.

    Mặc khác, khảo cổ học lại cho thấy một sự vay mượn lớn của người Hy Lạp từ các nền văn minh Tiểu Á và Cận Đông. Kybele là một ví dụ rõ ràng của việc vay mượn từ văn hóa Anatolia, trong khi Aphrodite lại có nhiều đặc điểm hình tượng và danh hiệu từ nữ thần của văn hóa Semit như Ishtar và Astarte.

    Các nghiên cứu văn bản đã hé lộ một vài tầng lớp trong các câu chuyện, ví dụ như những lời nói phụ dẫn Theseus vào trong câu chuyện Mười hai kỳ công của Heracles. Người ta cho rằng những câu chuyện có liên quan đến việc dùng tên người đặt cho một địa danh bắt nguồn từ các nỗ lực tiếp thu thần thoại của một tín ngưỡng này vào một tín ngưỡng khác để thống nhất các nền văn hóa.

    Ngoài sự bắt nguồn từ Ấn-Âu và Cận Đông, một vài học giả còn cho rằng có sự liên quan giữa thần thoại Hy Lạp đối với các nhóm xã hội Hy Lạp trong thời kỳ trước thời văn minh Hellen mà cho đến nay người ta còn chưa hiểu rõ, ví dụ như những người Mino và những người được gọi là người Pelasgi. Điều này đặc biệt đúng trong trường hơp về các vị thần âm ty và thần mẫu. Lấy ví dụ, ba thế hệ thần chính trong Thần phả của Hesiod (Uranus, Gaia, v.v.; các Titan và rồi sau đó là các vị thần trên đỉnh Olympus) có thể là phản ánh về sự tranh đấu gữa các nhóm xã hội, với ba nền văn hóa đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp: Minoa, Mycenae và Hellen.

    Sự giống nhau giữa câu chuyện của Hesiod và thần thoại của người Hurrian về Anu, Kumarbi và Teshub cho thấy rất có thể câu chuyện này là một sự phóng tác dựa trên các tài liệu vay mượn hơn là một sự bóp méo các dữ kiện lịch sử. Sự tương tự giữa các thế hệ thần sớm nhất (Chaos và các con) và Tiamat trong Enuma Elish là có khả năng (Joseph Fontenrose, Python: A Study of Delphic Myth and Its Origins: NY, Biblo-Tannen, 1974).

    Các học giả thuộc trường phái phân tích tâm lý do Carl Jung sáng lập như Karl Kerenyi nghiêng về quan điểm nguồn gốc của các câu chuyện thần thoại (và sự mơ mộng) là từ các nguyên mẫu chung. Mặc dù không phải độc giả nào cũng đồng ý với sự diễn giải về thần thoại theo các thuật ngữ về sự mơ mộng/tưởng tượng của trường phái tâm lý học Carl Jung (ví dụ như theo Kerenyi hay Joseph Campbell), hầu hết mọi người đều đồng ý rằng thần thoại mang tính chất tưởng tượng trong hai mặt: chúng không hoàn toàn nhất quán với nhau, và có lẽ là không nhất quán ngay cả trong một chi tiết thần thoại riêng biệt, và chúng thường phản ánh một vài kinh nghiệm nhất thời về bản chất của thượng đế, một sự hiển linh nào đó, mà sau này phải được liên kết vào một sợi chỉ dẫn chuyện, giống như là sự tưởng tượng được tạo ra từ các sự kiện nối tiếp nhau.

    Tóm lại, nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp vẫn còn đang là một câu hỏi mở đầy lôi cuốn.

    Người Hy Lạp có tin vào các vị thần của họ không?

    Đối với người Hy Lạp, thần thoại phản ánh một phần lịch sử của họ; một số người từng nghi ngờ về sự thật của câu chuyện Chiến tranh thành Troy trong tác phẩm Iliad và Odyssey. Người Hy Lạp đã sử dụng thần thoại để giải thích các hiện tượng tự nhiên, các sự khác biệt về văn hóa, các mối quan hệ thù địch và bằng hữu truyền thống. Sẽ là một niềm tự hào đối với họ nếu có thể truy ra tổ tiên của một người nào đó chính là một anh hùng hay vị thần huyền thọai.

    Mặt khác, các triết gia như Xenophanes đã từng bắt đầu cho rằng các câu chuyện của các thi sĩ là các lời dối trá báng bổ vào thế kỷ thứ 6 TCN; dòng suy nghĩ này được biểu lộ chung chung trong các tác phẩm Nền Cộng hòa (Republic) và Luật pháp (Laws) của Platon. Thẳng thắn hơn, tác gia bi kịch Euripides trong thế kỷ thứ 5 TCN thường đùa nghịch với các phong tục truyền thống cũ, chế giễu chúng và thông qua tiếng nói của các nhân vật mà đưa ra sự nghi ngờ. Trong các trường hợp khác, Euripides có vẻ như hướng đến việc chỉ trích hành vi của các vị thần.

    Các thi sĩ, đặc biệt trong thời kỳ Đế quốc La Mã về sau, thường phóng tác các câu chuyện về các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp theo cái cách mà làm cho chúng không còn phản ánh các tín ngưỡng thật sự lúc ban đầu. Nhiều phiên bản thông dụng của các thần thoại Hy Lạp mà chúng ta có hôm nay thật ra lại có từ các câu chuyện kể hư cấu lại chứ không phải từ các câu chuyện thần thoại thật sự lúc ban đầu.


    Ngay từ cổ xưa, các tác giả như Herodotus đoán rằng người Hy Lạp đã vay mượn hàng loạt các vị thần từ người Ai Cập. Sau này, các tác giả Cơ Đốc đã cố gắng giải thích việc thờ nhiều thần của người Hy Lạp như là một sự thoái hóa của tôn giáo đến từ Kinh thánh. Tuy nhiên, vào các thế kỷ 19 và 20, các ngành khoa học khảo cổ và ngôn ngữ được dùng để giải thích nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp.

    Một mặt, ngôn ngữ học lịch sử cho thấy một vài phần của thần hệ Hy Lạp đến từ xã hội Ấn-Âu cùng với cội nguồn của ngôn ngữ Hy Lạp. Vì thế, ví dụ, cái tên Zeus có cùng nguồn gốc với Jupiter trong tiếng Latinh, Dyaus trong tiếng Phạn và Tyr trong tiếng Đức (xem Dyeus), cũng như tên Ouranos với tên Varuna trong tiếng Phạn. Trong các trường hợp khác, các sự tương tự trong các nhân vật và chức năng của họ cũng chứng tỏ một cội nguồn chung, tuy nhiên, các chứng cứ ngôn ngữ học còn chưa đủ, nên khó có thể chứng thực được - như trong trường hợp Moirae của người Hy Lạp và Norns của thần thoại Bắc Âu.

    Mặc khác, khảo cổ học lại cho thấy một sự vay mượn lớn của người Hy Lạp từ các nền văn minh Tiểu Á và Cận Đông. Kybele là một ví dụ rõ ràng của việc vay mượn từ văn hóa Anatolia, trong khi Aphrodite lại có nhiều đặc điểm hình tượng và danh hiệu từ nữ thần của văn hóa Semit như Ishtar và Astarte.

    Các nghiên cứu văn bản đã hé lộ một vài tầng lớp trong các câu chuyện, ví dụ như những lời nói phụ dẫn Theseus vào trong câu chuyện Mười hai kỳ công của Heracles. Người ta cho rằng những câu chuyện có liên quan đến việc dùng tên người đặt cho một địa danh bắt nguồn từ các nỗ lực tiếp thu thần thoại của một tín ngưỡng này vào một tín ngưỡng khác để thống nhất các nền văn hóa.

    Ngoài sự bắt nguồn từ Ấn-Âu và Cận Đông, một vài học giả còn cho rằng có sự liên quan giữa thần thoại Hy Lạp đối với các nhóm xã hội Hy Lạp trong thời kỳ trước thời văn minh Hellen mà cho đến nay người ta còn chưa hiểu rõ, ví dụ như những người Mino và những người được gọi là người Pelasgi. Điều này đặc biệt đúng trong trường hơp về các vị thần âm ty và thần mẫu. Lấy ví dụ, ba thế hệ thần chính trong Thần phả của Hesiod (Uranus, Gaia, v.v.; các Titan và rồi sau đó là các vị thần trên đỉnh Olympus) có thể là phản ánh về sự tranh đấu gữa các nhóm xã hội, với ba nền văn hóa đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp: Minoa, Mycenae và Hellen.

    Sự giống nhau giữa câu chuyện của Hesiod và thần thoại của người Hurrian về Anu, Kumarbi và Teshub cho thấy rất có thể câu chuyện này là một sự phóng tác dựa trên các tài liệu vay mượn hơn là một sự bóp méo các dữ kiện lịch sử. Sự tương tự giữa các thế hệ thần sớm nhất (Chaos và các con) và Tiamat trong Enuma Elish là có khả năng (Joseph Fontenrose, Python: A Study of Delphic Myth and Its Origins: NY, Biblo-Tannen, 1974).

    Các học giả thuộc trường phái phân tích tâm lý do Carl Jung sáng lập như Karl Kerenyi nghiêng về quan điểm nguồn gốc của các câu chuyện thần thoại (và sự mơ mộng) là từ các nguyên mẫu chung. Mặc dù không phải độc giả nào cũng đồng ý với sự diễn giải về thần thoại theo các thuật ngữ về sự mơ mộng/tưởng tượng của trường phái tâm lý học Carl Jung (ví dụ như theo Kerenyi hay Joseph Campbell), hầu hết mọi người đều đồng ý rằng thần thoại mang tính chất tưởng tượng trong hai mặt: chúng không hoàn toàn nhất quán với nhau, và có lẽ là không nhất quán ngay cả trong một chi tiết thần thoại riêng biệt, và chúng thường phản ánh một vài kinh nghiệm nhất thời về bản chất của thượng đế, một sự hiển linh nào đó, mà sau này phải được liên kết vào một sợi chỉ dẫn chuyện, giống như là sự tưởng tượng được tạo ra từ các sự kiện nối tiếp nhau.

    Tóm lại, nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp vẫn còn đang là một câu hỏi mở đầy lôi cuốn.

    Người Hy Lạp có tin vào các vị thần của họ không?

    Đối với người Hy Lạp, thần thoại phản ánh một phần lịch sử của họ; một số người từng nghi ngờ về sự thật của câu chuyện Chiến tranh thành Troy trong tác phẩm Iliad và Odyssey. Người Hy Lạp đã sử dụng thần thoại để giải thích các hiện tượng tự nhiên, các sự khác biệt về văn hóa, các mối quan hệ thù địch và bằng hữu truyền thống. Sẽ là một niềm tự hào đối với họ nếu có thể truy ra tổ tiên của một người nào đó chính là một anh hùng hay vị thần huyền thọai.

    Mặt khác, các triết gia như Xenophanes đã từng bắt đầu cho rằng các câu chuyện của các thi sĩ là các lời dối trá báng bổ vào thế kỷ thứ 6 TCN; dòng suy nghĩ này được biểu lộ chung chung trong các tác phẩm Nền Cộng hòa (Republic) và Luật pháp (Laws) của Platon. Thẳng thắn hơn, tác gia bi kịch Euripides trong thế kỷ thứ 5 TCN thường đùa nghịch với các phong tục truyền thống cũ, chế giễu chúng và thông qua tiếng nói của các nhân vật mà đưa ra sự nghi ngờ. Trong các trường hợp khác, Euripides có vẻ như hướng đến việc chỉ trích hành vi của các vị thần.

    Các thi sĩ, đặc biệt trong thời kỳ Đế quốc La Mã về sau, thường phóng tác các câu chuyện về các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp theo cái cách mà làm cho chúng không còn phản ánh các tín ngưỡng thật sự lúc ban đầu. Nhiều phiên bản thông dụng của các thần thoại Hy Lạp mà chúng ta có hôm nay thật ra lại có từ các câu chuyện kể hư cấu lại chứ không phải từ các câu chuyện thần thoại thật sự lúc ban đầu.

Chia sẻ trang này