Đầu năm 1970, phái đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế khi đến thị sát nhà tù Phú Quốc họ đã vô cùng phẫn nộ khi bắt gặp một chiếc roi cá đuối dính máu khô. Ở Trại giam tù binh Phú Quốc (TGTBPQ), những tên giám thị dùng những chiếc roi cá đuối dài, đem phơi để đánh tù. Chúng bắt anh em cởi áo, để khi đánh, gai cá đuối bấu vào da thịt. Chúng đánh mà như làm xiếc, quất thẳng cánh, cho chiếc roi quấn lấy thân nạn nhân, rồi giật ra, làm da thịt bị đứt theo, máu chảy ròng ròng. Rồi chúng lấy muối ớt xát vào da thịt, làm cho nạn nhân bị nóng rát và đau đớn tận cùng. Ở phòng tra tấn của Bộ chỉ huy trại giam, bọn cai tù thường dùng những chiếc đinh 3 phân đóng vào các ngón tay của tù binh. Đóng đinh một ngón tay chúng hỏi một câu. Mỗi lần bị đóng đinh, xương ngón tay của người tù bị bể nát. Thấy đinh 3 phân vẫn không lay chuyển được các tù binh kiên cường, chúng chuyển sang thủ đoạn dùng đinh 7, 8 phân hoặc cả tấc đóng vào người tù. Sau ngày hòa bình, khi bốc mộ những tù binh hy sinh, được chôn cất ở nghĩa địa trên Đồi 100, đem về Nghĩa trang liệt sĩ Đông Dương (Phú Quốc) an táng, người ta còn tìm thấy những chiếc đinh còn nguyên vẹn trong hài cốt những người tù. Như đồng chí Nguyễn Căn Có, sinh năm 1931, tại Quảng Ngãi, hy sinh ngày 6/5/1972, bị 3 cây đinh loại 8 phân đóng vào chân. Anh Lâm Văn Rô, sinh năm 1944, hy sinh ngày 2/11/1971, có đến 7 cây đinh 8 phân đóng vào người. Anh Châu Văn Khánh, sinh năm 1950 tại Bình Định, hy sinh ngày 4/12/1972, bị 2 cây đinh 8 phân đóng vào mu bàn chân trái. Tìm lại những tài liệu của địch còn lại ở TGTBPQ, đồng đội của anh Châu Văn Khánh dễ dàng tìm ra một sự thật. Đêm ấy, anh Khánh cùng Trần Trinh từ phòng 2 Phân khu A bò ra tới cổng chính của liên Phân khu A, bị tên quân cảnh Phạm Thấu bắn. Anh không chết ngay như theo phiếu trình đề ngày 8/12/1972 của tên trung tá Bùi Bằng Dực - chỉ huy trưởng TGTBPQ mà chết vì bị đánh đập, tra tấn, bị đóng đinh đến chết. Khủng khiếp hơn, anh Nguyễn Thanh Long, sinh năm 1949, hy sinh ngày 9/4/1970, vì bị đóng 7 cây đinh 8 phân và 1 tấc vào người. Trong đó, có 2 cây đóng vào hai bên màng tang, cách hốc mắt 3 phân, 1 cây đóng ở khớp xương vai phải, 1 cây đóng ở cổ chân trái và 1 cây đóng ở cổ chân phải xuyên qua mắt cá. Anh Đặng Hồng Sơn, quê ở Hà Nội - nguyên là chiến sĩ đặc công thủy, vào Nam chiến đấu, bị địch bắt đưa ra giam ở Phú Quốc. Anh cùng một số đồng chí đào hầm, tìm cách vượt thoát nhưng bị lộ, và chúng đưa qua D3 - trại chiến sĩ quê miền Nam, bị đánh đập rất dã man. Căm thù tột cùng bọn khát máu, anh đánh lại chúng. Chúng trói anh lại, lấy đinh đóng vào mắt cá, ống quyển và nhiều nơi khác cho đến khi anh hy sinh. Khi bốc mộ, đồng đội anh còn nhìn thấy 9 cây đinh găm vào xương cốt anh! Vết tích tội ác Mỹ - Ngụy còn lưu lại trên hài cốt những người tù. Sau 40 năm, câu chuyện về người Bí thư Đảng ủy Phân khu A2 bị bọn giám thị đục lấy xương bánh chè, nướng sắt đỏ xuyên qua bắp chuối còn hằn sâu trong tâm tưởng những cựu TBPQ. Anh tên Nguyễn Văn Ni**, quê Củ Chi, lãnh đạo tù binh đánh đuổi tên trung sĩ Hương - giám thị trưởng Phân khu A2 ra khỏi phân khu. Đó là tên giám thị vô cùng gian ác, đánh tù nhân như cơm bữa. Hắn cướp bóc tiêu chuẩn của anh em vô cùng hèn hạ, thậm chí cướp những món đồ anh em tù làm ra để đổi thuốc hút. Hắn dựng lên bộ máy thám báo, với những "đại diện và trưởng phòng" để giám sát tù binh. Hơn một năm sống trong vòng kềm tỏa của tên giám thị ác thú, ngày 23/11/1969, gần 200 anh em tù binh phòng bệnh của Phân khu A2 đồng loạt nổi dậy, hô vang "Đả đảo đàn áp", cuốn theo hàng ngàn tù binh trên sân khu giam cũng ào ào nổi dậy. Trước làn sóng người tràn đến gần, tên Hương mặt xanh như chàm đổ, cố vượt thoát khỏi cửa phòng bệnh. Tiếng la, tiếng vỗ tôn từ trại tù đồng loạt vang lên, bọn giám thị cố dẹp nhưng không thể nào ngăn nổi. Tên Hương thoát được, nhờ bọn bên ngoài bắn yểm trợ. Khi ra tới cổng, hắn dùng cạc-bin bắn trở vào anh em tù ở đầu nhà bếp, làm bị thương 3 người. Trước làn sóng căm phẫn của anh em tù binh, Bộ chỉ huy trại giam phải nhượng bộ, chấp nhận yêu sách bầu cử lại ban đại diện tù binh trong phân khu giam và các trưởng phòng, phó phòng. Nhưng kẻ thù bắt đầu giở nhiều thủ đoạn trả thù hèn hạ, tàn khốc. Chúng bắt đồng chí Nguyễn Hải Phú* (số tù 1925, quê Phú Yên, công tác giáo dục ở Củ Chi) - được anh em tù binh cử làm đại diện, sau được anh em bầu làm trưởng phòng giam số 14 lên phòng điều hành, đánh đập chết đi sống lại nhiều lần, rồi tống vào biệt giam khổ sai ngoài trời (biệt giam 2). Chúng bắt anh Gương, quê ở Thái Bình, đánh bằng cọc sắt đến chết. Riêng đồng chí Nguyễn Văn Ni, địch biết rõ đó là Bí thư Đảng ủy Phân khu A2, chỉ đạo cuộc nổi dậy của tù binh bị chúng đưa vào biệt giam khổ sai, tra tấn bằng cách lấy cọng sắt bùng nhùng đốt đỏ, rồi đâm qua bắp chân anh. Mỗi lần sắt đâm vào bắp chân, anh ngất xỉu. Tỉnh lại, anh mắng chúng là bọn bán nước. Và anh nhiều lần hô khẩu hiệu: "Đả đảo Mỹ-Thiệu. Hồ Chí Minh muôn năm!". Cùng hành hạ anh Nguyễn Văn Ni có tên thượng sĩ nhứt Nhu, tên thiếu úy quân cảnh Chu Quốc Minh (còn có tên Cóc). Bị anh Bảy Ni gọi là lũ "bán nước", tên Cóc dùng đục, đục lấy hai xương bánh chè của anh. Tiếp đó, tên Cóc lấy sắt nung đỏ châm vào chỗ đầu gối của anh máu đang chảy lênh láng. Đến khoảng 20h ngày 22/12/1969, anh Bảy Ni trút hơi thở cuối cùng trên tay anh Đoàn Thanh Phương - người tù binh ở cùng biệt giam 2. Sau này anh Phương kể: "Đồng chí Ni trước khi chết còn gắng sức hô khẩu hiệu: "Đả đảo đế quốc Mỹ và tay sai. Hồ Chí Minh muôn năm!". Sáng ngày 30/1/1971, ở Phân khu B10, 15 người bị địch tình nghi là "đầu sỏ" bị giám thị đưa qua Phân khu D10 - khu chiêu hồi. Trước sự phản ứng quyết liệt của các tù binh, bọn trật tự ra sức đánh đập tàn nhẫn anh em tù. Tức giận trước việc anh Minh (Đặng Văn Bê, quê Cai Lậy, Mỹ Tho) mắng chúng là quân bán nước, chúng nhét anh vào bao chỉ xanh rồi nắm miệng bao, lôi xềnh xệch anh vào nhà bếp. Thật không thể tưởng tượng nổi, chúng ném anh vào chảo nước sôi. Khi chúng lôi anh ra, anh đã ngừng thở, da bị vuột trắng xát. Một số tù binh chứng kiến hình phạt khủng khiếp này kể lại: "Chúng tiếp tục lấy bao bố trùm lên anh Mỹ, ném vào chảo nước sôi một lúc mới lôi ra. Anh Mỹ giãy giụa rồi bất động, không biết sống chết ra sao”.