Ngưu Lang – Chức Nữ

Discussion in 'Lịch sử - Nhân văn' started by C[h]ip, Aug 22, 2007.

  1. C[h]ip Thành viên

    Ngưu lang, Chúc nữ

    Ngày xưa có 1 chàng trai sống 1 mình,thường kiếm củi.Một hôm vui chân,anh vào wuas sâu,đến 1 chổ có cái giếng nước thật đẹp.Nguyên đó là cái giếng các nàng tiên trên trời bay xuống tắm.May mắn sao,chàng đến đúng lúc có 3 nàng tiên đang bơi lội cười đùa.Anh ngắm nhìn mải mê,rón rén đến chổ các nàng xếp quần áo và cánh tiên,rồi giấu đi 1 bộ.Tắm xong,các nàng tiên lên bờ.Hai cô thấy cánh thì chắp vào người bay đi.Một cô tìm mãi chẳng thấy xống áo của mình đâu.Bấy giờ chàng trai xuất hiện và năn nỉ nàng ở lại trần gian làm vợ mình.Cô tiên- tên là Ả Chức-kô còn cách nào khác đành ưng thuận
    Vợ chồng sống vui vẻ hòa thuận và chẳng bao lâu họ có 1 đứa con trai.Người chồng có việc đi xa,dặn lại 2 mẹ con:"Anh đi ít lâu sẽ về.Ở nhà mẹ con ăn cót lúa vang,hết thì sang lúa ré,đừngawn cót lúa rẹ,tổ ong bò vẽ đốt cả mẹ con liền"
    Chồng đi xa,lúa vang đã hết,người vợ tò mò,kô biết tại sao chồng lại dọa ong bò vẽ làm gì,nên đến đụm lúa rẹ ăn trước.Chẳng thấy ong đâu,chỉ thấy bộ cánh tiên của mình dấu dưới đụm.Nàng lấy ra,đeo vào rồi tập bay quanh sân nhà.Con thấy mẹ bay thì cười như nắc nẻ.Mẹ liền mắng:"cừi sằng sặc có khi rặc cổ,cười ha ha có khi rã xương"
    Tập lại vài ngày,người vợ thấy đã bay thành thạo như xưa.Nàng xắp sẳn cơm nước cho con,dặn nó chơi ngoan để đón cha.Lại gài lên áo con 1 cái lược,bảo về đưa cho cha.Đoạn nàng bay vút lên trời
    Người chồng về hà,cam phận gà trống nuôi con.Nhưng tháng ngày hui quạnh quá,con lại khóc đòi mẹ,anh quyết định đi tìm lại nàng tiên.Kô thấy các nàng tiên xuống tắm,nhưng gặp 1 bà già đi lấy nước,anh hỏi thì biết bà cũng ở cung tiên.Anh đưa cái lược làm tim,nhờ bà nói lại với vợ mình
    Người vợ từ ngày về trời vẫn thương chồng con.Khi thấy cái lược của mình,nàng nhờ mấy vị tiên xuống tìm cahcs giúp 2 bố con lên trời.Gặp đc nhau,cả nhà mừng mừng tủi tủi
    Nhưng người trần gian kô đc phép ở lâu trên trời.Vài ngày sau 2 bố con phải xuống hạ giới.Nàng đưa cho họ 1 mo cơm,1 cái trống và 1 cái dây dài,dặn khi xuống đến mặt đất,phải đánh tiếng trống báo hiệu để trên này cắt dây.Dây xuóng mới đc nữa chừng,đứa bé bẻ cơm ăn,làm vãi nhiieeuf hạt trên mặt trống,có đàn quạ xà xuống mổ làm phát ra tiềng tùng tùng.Trên trời tưởng họ đã xuống đến nơi liền cắt dây.Cả 2 cha con rơi xuống biển,bầy quạ hoảng sợ kêu lên ầm ỉ
    Ngọc Hoàng thấy thương cho 2 cha con tội nghiệp kia,liền cho anh chồng lên trời,làm kẻ chăn trâu và gọi chàng là chàng Ngưu(Ngâu).Nhưng trời lại bắt 2 vợ chồng mỗi người ở 1 phương,ngăn cách họ bởi dải Ngân Hà.Trời lại giao hẹn mỗi năm chỉ cho 2 vợ chồng gặp nhau 1 lần vào ngày 7 tháng 7.Lũ quạ tham ăn gây nên cơ sự này thì ngày đó phải đội đá bắc cầu cho 2 vợ chồng qua Ngân Hà.Khi gặp nhau họ thương cảm quá nên thường than khóc,do đó mà có mưa Ngưu(Ngâu).Còn đàn quạ đội đá suốt ngày,lông đầu bị rụng hết,do đó mà ngày nay ta thấy có lọai quạ sói đầu...
  2. Adv Thành Viên Danh Dự

    Giai thoại về đôi tình nhân là Ngưu Lang – Chức Nữ là một trong 4 truyền thuyết ca tụng tình yêu nam nữ nổi tiếng nhất của Trung Hoa (Ba truyền thuyết còn lại là Hằng Nga, Hậu Nghệ, Mạnh Khương Nữ và Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài).

    Ngưu Lang – Chức Nữ bắt nguồn từ việc tôn thờ các vì sao thời cổ đại ở Trung Hoa. Người ta đã nhân cách hoá các vì sao thành những con người, rồi lại thần hoá thành các vị thần tiên. Trung Quốc có rất nhiều vị thần kiểu này như: Nhị thập bát tú, Nam Tào, Bắc Đẩu, các vị thần Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ…

    Ngưu Lang tức sao Ngưu, hay Khiên Ngưu làngôi sao thứ hai trong chòm sao Huyền Vũ phương Bắc, một trong Nhị thập bát tú. Chức Nữ tức sao Thiên Tôn nằm ở phía Tây ngân hà, đối diện với sao Ngưu Lang. Từ rất lâu, trong “Kinh Thi” đã có ghi chép về hai ngôi sao Ngưu Lang, Chức Nữ, nhưng vẫn chưa có cốt truyện. Cho đến đời Hán mới có câu chuyện này. Sau thời Đông Hán thì câu chuyện tình yêu của Ngưu Lang – Chức Nữ được lưu truyền trong dân gian, cho rằng Chức Nữ là cháu của Ngọc Hoàng Thượng Đế, đã đem lòng yêu chàng trai chăn trâu (Ngưu Lang) ở dưới trần gian, hai bên bèn kết duyên chồng vợ sống với nhau rất hạnh phúc. Sau đó, Ngọc Hoàng biết chuyện, sai Vương Mẫu nương nương xuống trần gian bắt Chức Nữ về chịu tội. Ngưu Lang vô cùng đau khổ, nhờ con trâu giúp sức, đuổi theo lên trời, gần đuổi kịp thì bị Vương Mẫu dùng cây trâm trên đầu vạch một đường thành sông Ngân Hà ngăn cách. Ngưu Lang, Chức Nữ bị Ngân hà cách trở, chỉ biết đứng nhìn nhau qua sông mà khóc. Ngọc Hoàng biết chuyện thương tình, mới cho phép họ mỗi năm vào ngày mùng 7-7 được đàn quạ dùng đầu của mình bắc cầu cho đôi tình nhân được gặp nhau. Câu nói dân gian quen thuộc của người dân Việt xưa là “Quạ trọc đầu bắc cầu Ô Thước” giúp Ngưu Lang- Chức Nữ gặp nhau chính là do tích này. Có một điều lạ đó là vào thời điểm này hầu hết đàn chim quạ không hiểu lý do gì mà đầu con nào cũng bị rụng hết lông, gọi là quạ trọc đầu là vậy.

    Sau này vào ngày 7-7 hàng năm đã trở thành một ngày lễ trong dân gian, gọi là “Thất xảo tiết” hay “Khất xảo tiết”. Những người phụ nữ thường đem kim chỉ ra để “khất xảo” – cầu xin Chức Nữ ban cho sự khéo léo, giỏi giang. Không những vậy, sau này người ta còn xin cả trí thông minh, sự giàu sang, phúc thọ… và đặc biệt là cầu xin tình duyên.

    Bi chừ mới biết về truyền thuyết này! Tiếc là ngày đó qua rồi!
    \^o^/ and Applegriin like this.
  3. \^o^/ Thành Viên Danh Dự

    Đến cái đôi Mạnh Khương Nữ thì lại chỉ có tên 1 người trong khi các đôi khác đều có đủ tên 2 người là răng anh CUA? Em chưa từng nghe về chuyện tình của cặp Mạnh Khương Nữ chi đó nơi tề!:-?
    Chắc ngày 7-7 âm lịch là ngày lễ xuống tóc của bọn quạ? :d
    Ngày 7-7 âm lịch ở Trung Quốc còn gọi là ngày Thất tịch, cũng xuất phát từ truyền thuyết về Ngưu Lang - Chức Nữ:
  4. Adv Thành Viên Danh Dự

    Vạn lý tìm chồng.

    Nhà Tần (306-209 trước D.L.), đời vua Tần Thủy Hoàng (221-209 trước D.L.) có người con gái họ Hứa tên Mạnh Khương. Chồng của nàng họ Phạm, tên Thực, người ở miền Quan Trung nước Sở. Vốn con nhà danh giáo, từ nhỏ nàng đã hấp thụ đạo đức, thư hương theo tinh thần gia phiệt.

    Mạnh Khương kết hôn được ít lâu thì nhằm lúc vua Tần mưu tính một công cuộc kiến trúc vĩ đại. Nguyên sau khi thôn tính xong 6 nước: Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở, Thủy Hoàng muốn bảo vệ ngai vàng và phòng ngừa cuộc xâm lăng của bọn Hung Nô ở miền Bắc, mới truyền xây Vạn Lý Trường Thành để làm biên giới từ Lũng tây ở mạn tây đến Liêu Đông ở mạn đông. Thành cao từ 15 đến 30 thước, chân rộng 25 thước, dài 3600 cây số. Cứ từng quãng lại có cửa ải đồ sộ.

    Thủy Hoàng đặt công trình lớn lao ấy dưới quyền chỉ huy của đại tướng Mông Điềm và dưới sự kiểm soát của Thái Tử Phò Tô. Nhà vua truyền huy động đến 30 vạn nông dân để xây trường thành, lại dùng đến 50 vạn người bắt làm binh phòng giữ miền Lĩnh Nam. Ngoài ra hơn 70 vạn người bị cung hình (bị cắt sinh thực khí) chia đi làm cung A phòng, hoặc xây lăng ở Ly Sơn.

    Vua truyền huy động đến hàng triệu thanh niên từ 18 đến 45 tuổi đi sưu dịch. Những người nầy không biết bao giờ mới trở về hay không chắc có ngày trở về nữa. Vì thế, trong nhân dân, vợ khóc chồng, mẹ khóc con vô cùng thảm não.

    Chồng nàng Mạnh Khương phải tuân lệnh nhà vua. Cha chồng mất để lại mẹ chồng, Mạnh Khương phải thay thế chồng phụng dưỡng mẹ và dưỡng dục con thơ. Nhà ngày một suy sụp, nàng phải giã gạo, quay tơ để mưu sinh. Đối với mẹ chồng, nàng vẫn làm tròn nhiệm vụ của một người dâu thảo.

    Phần nỗi già, phần thương nhớ con, bà mẹ phát bệnh nặng rồi qua đời. Mạnh Khương phải lo cư tang báo hiếu. Đằng đẵng mấy năm trường trông đợi chồng nhưng bặt vô âm tín. Nghe được tin đồn ở miền bắc, vì tuyết sương lạnh lẽo, vì công việc quá khó nhọc nên có nhiều người ốm chết, Mạnh Khương thương chồng nên nhất định đến tận ải quan, mong tìm chồng để an ủi, giúp đỡ, san xẻ gánh nặng. Nàng gởi con cho người thân rồi ra đi.

    Nàng theo đường vạn lý. Từ miền hồ Động Đình nước Sở (một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam ngày nay) lên phía bắc đến kinh đô Hàm Dương. Nàng lại nghe đồn: bọn người sưu dịch đã lên vùng tây bắc, nên lại đi từ miền sông Hán Thủy đến dãy núi Tần Lĩnh về hướng tây, đoạn theo dòng sông Tất xuyên mà đi thẳng lên phía bắc. Trải qua bao cảnh nắng mưa, sương gió, tuyết, nhưng nàng vẫn không nản lòng. Đến sông Hắc Thủy và bến Mã Lan, bị bùn lầy quá nhiều làm chậm bước tiến. Nàng lại men theo mé trường thành, thẳng về hướng đông. Hỏi han từng người, nhưng nàng vẫn thất vọng vì chẳng ai biết được tin chồng của nàng.

    Cuối cùng, Mạnh Khương đến một bãi sa mạc ở miền đông. Giữa lúc ấy, bỗng mây đen vần vũ phủ nhuộm u ám cả bầu trời. Gió bắc thổi giật giọng từng cơn vô cùng lạnh lẽo. Ngựa từ đâu lại cất tiếng hí vang những giọng thảm thê bi đát. Trước mặt nàng lại bày ra một đống xương trắng ngổn ngang, ghê rợn.

    Trước cảnh tượng, nàng hỏi: "Có lẽ chồng ta đã thác mất rồi, mà thác ở đây chẳng?" Và, nàng lại nghĩ thêm: "Có lẽ phần anh linh của chồng báo điềm lạ cho ta". Nàng bèn khấn vái vong linh của chồng và cầu hoàng thiên phò hộ: nếu chồng nàng thác rồi thì xin cho một biểu hiện để biết. Đoạn, nàng cắn móng tay, rỏ máu vào những đống xương.

    Từ đống xương nầy cho đến đống xương khác, mãi đến khi nàng rỏ một giọt máu vào một chiếc đầu lâu nọ thì chiếc đầu lâu lại thấm máu và đỏ rực lên. Nàng hiểu ngay đấy là dấu hiệu Trời cho để biết đây là hài cốt của chồng. Nàng liền ôm chầm lấy ngay bộ xương, khóc lóc thê thảm suốt cả ba ngày đêm.

    Câu chuyện nầy thấu đến tai thái tử Phò Tô, con trưởng của Tần Thủy Hoàng và đại tướng Mông Điềm, lúc bấy giờ đương đóng đại bản doanh tại đất Lư Long, một ải quan trong tỉnh Hà Bắc ngày nay. Rồi cả hai cấp tốc sai người đánh xe đến Trác Lộc, chỗ của nàng Mạnh Khương đương khóc. Thái Tử Phò Tô gọi nàng hỏi chuyện và tìm hiểu căn do nỗi oan ức của nàng. Nàng bây giờ đã kiệt sức, phều phào thưa:

    - Vì chồng tôi đã chết nơi biên thùy, tôi cũng xin chết theo để được cùng nhau họp mặt ở suối vàng!

    Nói xong, nàng nghẹn ngào, hấp hối, ngã quỵ rồi tắt thở. Đồng thời, một dãy tường mới xây sụp đổ theo.

    Nghe chuyện bi thảm và xem cảnh hãi hùng, hai người nao nao cảm động. Cả đến tướng sĩ và dân phu đều thương xót mà rưng rưng nước mắt.

    Thái Tử Phò Tô hạ lịnh hành lễ mai táng. Lễ truy tặng phẩm hàm Tả Tướng quân cho Phạm Thực và truy phong tước hiệu Trinh Phu Nhân cho Mạnh Khương. Phò Tô truyền chôn hai cỗ săng vào một mộ cách cửa Sơn Hải Quan chừng 8 dặm, cách ven Bột Hải chừng một dặm (1 dặm = 576m).

    Khi lễ an táng vừa xong, trời bỗng nổi cơn giông tố cuốn tung cát, sỏi, đá lên phủ lấy nấm mộ như một hòn núi. Trên đỉnh, những hòn đá chồng lên nhau như hình một người đàn bà trông chồng.

    Thấy việc hiển linh lạ lùng, người ta lập gần nơi nầy một miếu đá gọi là: "Khương nữ tử". Đời sau, tại Cổ Bắc Khẩu, tỉnh Hà Bắc và ở Lộ An, tỉnh Sơn Tây, người ta cũng có dựng miếu đặt cùng một tên ấy. Vì sùng mộ nhân đức của nàng, những bá tính xa gần thường đến chiêm bái.

    Đời nhà Tây Hán (206-25), nhà Đông Hán (25 trước D.L. - 220 sau D.L.), nhà Ngụy (220-265), mộ nàng Mạnh Khương được triều đình lập cho nhiều bia đá. Sang đời nhà Minh (1368-1644), miếu của nàng được trùng tu vẻ vang.


    Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Mạnh Khương Nữ

    Mạnh Khương Nữ hay Nàng Mạnh Khương (孟姜女) là một nhân vật trong truyện cổ tích dân gian Mạnh Khương Nữ khóc Trường Thành của Trung Quốc.

    Câu chuyện kể rằng, vào thời Tần Thủy Hoàng, ngay trong đêm tân hôn của Mạnh Khương Nữ với tân lang là một thư sinh Giang Nam tên Phạm Hỷ Lương, chồng Mạnh Khương Nữ bị triều đình bắt đi xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Đến mùa Đông, Mạnh Khương Nữ đan áo cho chồng và đã lặn lội tìm chồng để trao áo. Mạnh Khương Nữ đã đi khắp theo chiều dài của Trường Thành, hỏi thăm nhiều người và cuối cùng nhận được hung tin chồng mình bị chết vùi thây dưới Trường Thành. Nàng Mạnh Khương đau buồn khóc lóc thảm thiết 3 ngày 3 đêm, nước hòa lẫn máu. Tiếng khóc của Mạnh Khương vang xa 800 trăm dặm Trường Thành, làm sụp đổ một khúc thành, để lộ xác chết của chồng mình. Nàng an táng cho chồng xong liền nhảy xuống biển tự vẫn. Ngày nay, tại quận Sơn Hải Quan thuộc địa cấp thị Tần Hoàng Đảo của tỉnh Hà Bắc có miếu thờ Mạnh Khương Nữ.
    \^o^/ likes this.

Share This Page