Nguồn gốc người Việt !

Thảo luận trong 'Lịch sử - Nhân văn' bắt đầu bởi Adv, 7/11/07.

  1. Adv Thành Viên Danh Dự

    Nguồn gốc người Việt


    Vì lý do địa lý, người Việt hiện nay là sự hợp chủng của các cuộc di dân từ nhiều hướng đến nước Việt hàng mấy chục ngàn năm nay. Căn cứ theo lịch sử, nguồn gốc người Việt không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc của bộ tộc Bách Việt. Điều đó hàm nghĩa trước hết chúng ta cần nới rộng giới hạn nghiên cứu đến các tỉnh miền nam sông Dương Tử của Trung Quốc trước kia là lãnh thổ của dân Bách Việt như Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, vv.

    Kế tiếp, ta nên duyệt xét các di chỉ người tiền cổ tại Việt Nam. Vì Việt Nam nằm giữa quần đảo Nam Dương và Trung Quốc, chúng ta có thể suy đoán (một cách lý thuyết) rằng nước Việt đã là môi trường sinh hoạt thích hợp cho loài người từ thời rất xa xưa. Điều này đã được khẳng định qua các khám phá di tích xương hóa thạch và khí cụ của người tiền cổ tại Việt Nam. Các khám phá này đã được trình bầy khá chi tiết trong bài Sự hình thành văn minh Việt Nam của học giả Cung Đình Thanh (Tư Tưởng số 1, tháng 3 năm 1999, trang 6-7). Điểm cần chú ý nhất là sự phân phối di tích người tiền sử tại Việt Nam có tính cách khá liên tục về thời gian lẫn không gian.

    Một vài quan sát cần được nhấn mạnh như sau. Thứ nhất, vào năm 1989 các nhà khảo cổ Việt-Mỹ tìm thấy trong hang làng Chám, Thanh Hóa xương hóa thạch của người khỉ Gigantophithecus. Tương tự như người khỉ Ramapithecus tìm thấy tại Ấn Độ, Tây Hồi và Thổ Nhĩ Kỳ, người khỉ Gigantophithecus có niên đại khoảng mười mấy triệu năm và được coi là có liên hệ trực tiếp với tổ tiên loài dã nhân. Điều này chứng tỏ ngay từ thưở sơ khai, nước Việt đã là địa bàn thích hợp cho các loài linh trưởng (primates).

    Thứ hai, trong giới nhân chủng học quốc tế, Việt Nam được công nhận là một trong những địa điểm sinh hoạt của người đứng thẳng từ lâu. Nhiều di chỉ của người đứng thẳng và khí cụ bằng đá tương ứng thuộc kỹ nghệ Acheulean (đồ đá cũ) đã được tìm thấy khắp nước Việt Nam. Tuy nhiên, dựa trên bài tóm tắt của tác giả Cung Đình Thanh vừa dẫn, các công trình nghiên cứu này chưa trả lời được một câu hỏi căn bản: người đứng thẳng tồn tại ở Việt Nam đến lúc nào? Nên nhớ là trong lục địa châu Á, người đứng thẳng đã biến mất từ 200 đến 250 ngàn năm trước. Nếu niên đại của người đứng thẳng tại Việt Nam tương đối thấp (giống như người Solo), đây có thể là một thí dụ đầu tiên về sự đồng hiện hữu cũa người đứng thẳng và người hiện đại trong lục địa châu Á.

    Trong bài đã dẫn, học giả Cung Đình Thanh cũng tóm tắt các khám phá trong nước, đại ý cho rằng có bằng cớ xương hóa thạch người vượn đang chuyển sang người hiện đại (homo erectus chuyển thành homo sapiens) và người hiện đại xuất hiện tại Việt Nam khoảng từ 80 đến 140 ngàn năm trước. Theo ý tôi, nếu gọi đó là người khôn ngoan cổ (homo sapiens archaic) thay vì người hiện đại thì có lẽ chính xác hơn vì hai lý do. Thứ nhất, căn cứ theo thuyết Một nguồn mà các công trình nghiên cứu di truyền học ủng hộ, người đứng thẳng/khôn ngoan cổ bản xứ đã bị thay thế bởi (thay vì chuyển hóa thành) người hiện đại di dân từ chỗ khác đến. (Nên nhớ là vì tìm thấy xương hóa thạch của nhiều giống người trong những lớp đất khác nhau, không có nghĩa là người lớp dưới chuyển hóa thành người lớp trên.) Thứ nhì, con số 80 đến 140 ngàn năm có lẽ quá sớm cho người hiện đại tại Việt Nam.

    Nếu thuyết Một nguồn đúng thì người đứng thẳng tại Việt Nam không phải là tổ tiên chúng ta ngày nay. Do đó, ta chỉ nên tập trung vào người hiện đại từ châu Phi di dân sang tương đối gần đây. Hai câu hỏi chính là người hiện đại đến Việt Nam và miền nam Trung Quốc từ hướng nào và vào thời kỳ nào? Nếu người hiện đại phát xuất từ Tây Á 100 ngàn năm trước, thì dựa trên địa hình và khí hậu, tôi nghĩ con đường đi đến Việât Nam và nam Trung Quốc nhanh chóng và hợp lý nhất là:
    § phía tây từ đông bắc Ấn Độ qua Đông Hồi (Bangladesh), Miến Điện, Vân Nam rồi (a) theo ngã sông Hồng đến bắc Việt hay (b) tràn qua Quảng Tây và Quảng Đông; và
    § phía nam và đông từ quần đảo Nam Dương và bán đảo Mã Lai đi lên (đây là những người đi từ Nam Ấn sang Nam Dương trong một đợt di dân khác).

    Giả thuyết vừa nêu trên tương tự như các thuyết cổ của các sử gia người Pháp mà cụ Trần Trọng Kim đã liệt kê trong cuốn Việt Nam Sử Lược (quyển 1, trang 5). Tuy nhiên có ba khác biệt căn bản. Thứ nhất, những người di dân này không đến từ miền núi tuyết Tây Tạng mà qua ngã Đông Hồi. Thứ hai, cuộc di dân này bắt đầu từ rất lâu, hàng mấy chục ngàn năm thay vì chỉ vài ngàn năm trước. Thứ ba, nên nhớ rằng đây không phải là một cuộc di dân duy nhất mà là nhiều đợt di dân liên tục. Hơn nữa, đây không phải là những đợt di dân một chiều mà là nhiều chiều (tây qua đông rồi đông qua tây, hay là nam lên bắc rồi bắc xuống nam), tùy theo từng giai đoạn và điều kiện sinh thái (chẳng hạn như biển tiến).

    Về thời điểm thì công trình khảo cứu của Giáo sư Ke và các cộng sự viên nêu trong phần 3 cho rằng người hiện đại có mặt từ Đông Á khoảng 44 ngàn năm nay (với khoảng tin cậy 95% từ 34 đến 89 ngàn năm). Có lẽ con số trung bình 44 ngàn năm hơi thấp vì người hiện đại Liujing tìm thấy tại Quảng Tây (trước đây là lãnh thổ của bộ tộc Bách Việt) năm 1958 được ước lượng bằng phương pháp phóng xạ vào khoảng 67 ngàn tuổi. Đây là một ước số tin được và chứng minh rằng bộ tộc Bách Việt là một trong những sắc dân tiên khởi của Đông Á. Điều này phù hợp với các nghiên cứu sinh hóa học sẽ được nhắc đến dưới đây.

    Người hiện đại đến Việt Nam và nam Trung Quốc từ hướng tây đã hợp chủng hay thay thế các sắc tộc địa phương lúc bấy giờ và dần dần trở thành giống dân mà các nhà chuyên môn gọi là Nam Á (southern Mongoloid hay Austro-Asiatic). Các đóng góp về gen của người bản xứ cho nòi Nam Á, nếu có, là vấn đề cần nghiên cứu thêm. Người hiện đại đi lên từ phía nam là giống người Nam Cổ (Australoid). Khi gặp gỡ trên đất nước Việt, sự hợp chủng của người Nam Á và Nam Cổ từ từ dành phần thắng về chủng tộc Nam Á, mặc dù dấu ấn văn minh hải đảo vẫn rất đậm nét trong lịch sử và văn hóa Việt Nam. Sự hợp chủng này là những quá trình dài hàng chục ngàn năm, và có thể tạm coi như hoàn tất khi nước Lạc Việt ra đời cách đây trên dưới 4 ngàn năm.

    Giống người Nam Á tiếp tục tràn lên phía bắc, hợp chủng với các di dân từ trung Á thành người Bắc Á (nothern Mongoloid), và tràn xuống hướng đông nam trở thành các sắc dân Đông Nam Á hải đảo (Austronesian). Về sự liên hệ giữa người Nam Á (tiêu biểu là người Bách Việt) và người Bắc Á (tiêu biểu là người Hán), các tác giả Cung Đình Thanh và Nguyễn Đức Hiệp đã dựa rất nhiều vào kết quả nghiên cứu ấn hành năm 1998 của Giáo sư Chu và các cộng sự viên. Thật ra, rất nhiều công trình trước đó, cả hình thái học lẫn sinh hóa học, đã đi đến kết luận như vậy, và còn mạnh dạn hơn rất nhiều. Thí dụ, căn cứ trên những chứng cớ về hình thái như răng và xương đầu, các tác giả Turner (1990) và Hanihara (1993) đã chứng tỏ rằng người Bắc Á chuyển hóa từ người Nam Á ra.

    Trong một công trình khảo cứu (ấn hành năm 1992) 153 mẫu DNA mt độc lập bao gồm bẩy sắc dân châu Á (14 Mã Lai gốc Nam Hoa, 14 người Malay, 32 thổ dân Malay, 32 thổ dân Sabah, 20 Đài Loan gốc trung Hán, 28 Việt Nam và 13 Nam Hàn), nhà di truyền học Ballinger và các cộng sự viên thấy rằng các giống dân này có chung một tổ tiên. Quan trọng hơn nữa, người Việt Nam có nhiều loại DNA mt nhất cũng như có tần số DNA mt với HpaI/HincII cao nhất, hàm nghĩa người Việt Nam là giống dân cổ nhất trong vùng Đông và Nam Á (trong khi người Hán là giống dân mới nhất). Các tác giả này đi đến kết luận rằng người Đông và Nam châu Á bắt nguồn từ giống Nam Á vào khoảng 61 tới 120 ngàn năm trước đây. Như thế, nguồn gốc lâu đời của người Việt và vai trò của bộ tộc Bách Việt trong việc thành hình các sắc dân Đông và Nam Á là những luận cứ khả tín, phù hợp với nghiên cứu độc lập về xương hóa thạch, hình thái học và di truyền học.

    Muốn tìm hiểu thêm hảy vào: http://vietsciences.free.fr/
    Trầm Tích thích bài này.

Chia sẻ trang này