Duới đây là những câu chuyện mà thinhchua đc đọc tại Web Trái Tim Việt Nam online http/ttvnol.com/forum/quangtri .Cảm thấy tự hòa về nơi mà mình đc sinh ra. 15 năm vào rừng tìm đồng đội 15 năm nay ông Mai Thanh Hùng và những cựu binh già ở thị trấn Khe Sanh, Hướng Hóa (Quảng Trị) cùng nhau lặng lẽ vượt Trường Sơn đi tìm đồng đội. 15 năm ấy nghĩa tình đồng đội đã giúp họ thực hiện hơn 200 chuyến cắt rừng, lội suối để tìm kiếm, cất bốc, quy tập gần 1.450 hài cốt liệt sĩ về an nghỉ tại những nghĩa trang quê nhà… Gặp ông Mai Thanh Hùng khi ông vừa cùng đội viên của mình trở về sau chuyến 45 ngày tìm kiếm, khai quật 20 hài cốt liệt sĩ ở vùng rừng Tây Bắc Quảng Trị để thiết thực kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Khe Sanh (9-7-1968 – 9-7-2003) “Vì lương tâm và trách nhiệm của những người may mắn còn sống đến hôm nay, vì nghĩa tình đồng đội nên khó khăn đến mấy chúng tôi vẫn phải vượt qua để quyết tìm ra đồng đội còn nằm lại giữa núi rừng. Tuy có lúc cái chết rập rình bên lưng vì những cơn sốt rét rừng, những hôm lũ quét...”, ông Hùng mở đầu câu chuyện. Năm 1988, sau 6 năm công tác ở Đoàn 584 (quy tập mộ liệt sĩ) ông Mai Thanh Hùng trở về với cuộc sống đời thường cùng vợ con xây dựng cuộc sống gia đình ở phố núi Khe Sanh nhưng tình đồng chí, đồng đội năm xưa trong chiến tranh luôn hiện về và gợi lại đã làm cho ông không thể thanh thản, bình yên giữa cuộc sống đời thường. Ông tâm sự: "Những ngày đầu về quê không hiểu sao đêm nào tôi cũng thao thức trăn trở khôn nguôi, đêm nào hình ảnh của đồng chí đồng đội chung chiến hào năm xưa cũng hiện ra trước mắt, ăn không ngon, ngủ không yên. Suy nghĩ mãi tôi quyết định bàn với vợ con thôi thì gác lại công việc gia đình để tiếp tục mang ba lô hành quân như những ngày nào trong đơn vị. Khi đã thuyết phục được vợ con, tôi đến từng người, vào từng nhà vận động những cựu binh già tập hợp họ lại thành một nhóm. Bởi hơn 25 năm về trước họ là những chiến sĩ giải phóng quân từng vào sinh ra tử ở các chiến trường ác liệt được mệnh danh là "vùng đất lửa” (Quảng Trị, các tỉnh Salavan, Savannakhet thuộc Lào), nên hơn ai hết họ thấu nỗi khổ đau của những gia đình có người thân đang nằm lại trên các vùng chiến sự giữa đại ngàn Trường Sơn và cũng hơn ai hết họ thấm thía cái hạnh phúc của người lính được trở về đoàn tụ gia đình. Xuất phát từ tình đồng chí, đồng đội và từ lương tâm, trách nhiệm, nên những cựu binh này cũng nghe tôi, tự nguyện đến với nhau, động viên nhau vượt qua gian lao đi tìm đồng đội. Lúc đầu ba người rồi dần dần được 12 người, tôi làm đội trưởng vì tôi đã quen với công việc, quen địa hình, biết tiếng Vân Kiều, Pakoh, tiếng Lào". Những ngày đầu ông Hùng cùng những đội viên lên đường chia nhau vào những khu vực cách thị trấn Khe Sanh khoảng 15km giáp biên giới Việt – Lào để tìm kiếm, có thể đi về trong ngày và mỗi chuyến đi gần như thế tìm kiếm được 5 đến 10 hài cốt liệt sĩ. Nhưng khi địa bàn tìm kiếm càng xa dần thì mỗi chuyến đi của họ lại vô cùng vất vả, phải cơm đùm, gạo bới, phải chuẩn bị từ cây kim sợi chỉ, thuốc men đến cuốc thuổng, chăn màn... vào tận rừng sâu, vào nơi rừng thiêng nước độc, lội bộ hàng ngày đường mới đến tận nơi tìm kiếm - khai quật và kéo dài hàng tuần lễ. Tuy nhiên, theo ông Hùng: "Dù khó khăn đến mấy, nhưng tìm ra đồng đội thì thấy lòng mình đã trở nên nhẹ nhõm hơn". Vừa trò chuyện, ông Hùng rút trong túi xách ra đưa cho chúng tôi một tập thư dày của các thân nhân liệt sĩ gửi đến. Lá thư nào đọc lên cũng đều chứa đựng nội dung vô cùng cảm động về việc vợ tìm chồng, con tìm cha, mẹ tìm con. Đây, bức thư người anh của một liệt sĩ từ Nghệ An gửi vào cho ông Hùng: "...Bố tôi là đảng viên tiền khởi nghĩa, trước lúc trút hơi thở cuối cùng bố tôi trăn trở dặn lại bằng giá nào cũng tìm cho được thân xác em các con về"... Chuyện tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ nhiều lúc đã đi vào giấc ngủ của những cựu binh này. Ông Hùng kể rằng: "Tôi còn nhớ mãi, tháng 11-1999 vết thương bị tái phát tôi phải đi viện điều trị buộc phải nghỉ công việc tìm hài cốt liệt sĩ, chưa đầy một tháng thì tối hôm đó từ bệnh viện về nhà, trong lúc đang ngủ say tầm 2h sáng, chợt bên tai tôi văng vẳng tiếng gọi: "Đồng chí Hùng ơi... đưa tôi về với đồng đội, đưa tôi về thăm bố mẹ và đứa con đầu lòng của tôi với đồng chí Hùng ơi...". Sau tiếng kêu ấy, bỗng nghe một loạt bom nổ rung chuyển đất trời, người tôi tung ra khỏi màn, bật xuống đất khi nào không biết và khi mở mắt ra thì thấy mình đã ngồi dưới sàn nhà. Sau giây phút hồi tỉnh tôi mới hiểu ra mình đang nằm mơ, tôi bật đèn sáng nhìn ra ngoài trời tối đen, tôi vào bàn thờ lấy hương thắp lên khấn vái với các linh hồn liệt sĩ và hứa rằng: "Tôi tên là Mai Thanh Hùng, đồng đội của các anh xin hứa, dù khó khăn gian khổ bao nhiêu, chúng tôi cũng tìm đưa các anh về đoàn tụ với các đồng đội nơi nghĩa trang để linh hồn các anh được thanh thản". Thế là sáng hôm sau dù bệnh tật đang hành hạ nhưng tôi động viên các cựu binh của mình vượt Trường Sơn đi tìm đồng đội và quả thực dạo ấy chúng tôi đã tìm thấy hàng chục thi hài liệt sĩ”. Đã 15 năm rồi không biết ông Mai Thanh Hùng cùng với đồng đội đã lội bộ bao nhiêu vạn kilômét, chịu đựng bao nhiêu gian khổ, khó khăn để đón nhận niềm vui trong lặng lẽ giữa núi rừng khi tìm ra đồng đội. Có nhiều chuyến đi từ 5 đến 10 ngày trên đất Lào đã tìm được hàng chục thi hài liệt sĩ. Mỗi cựu binh phải cõng trên vai 10 đến 15 hài cốt trèo đèo lội suối để đưa các anh về với nghĩa trang. Có những chuyến trên đường về gặp mưa rừng bất chợt, nước ào ào đổ về, anh em phải kết bè chuối để đưa thi hài liệt sĩ qua sông Sêpôn, Sêbăng Hiêng. Có lần đang khai quật, có tổ ong bị vỡ nên bị đốt sưng tấy tay chân. Cũng có những chuyến đi sau khi khai quật được 30 hài cốt chuẩn bị đưa về thì 1 trong 5 người bị sốt rét cao, vừa phải cáng người ốm vừa phải mang vác các hài cốt đi bộ hai ngày đường rừng mới về đến Khe Sanh. 15 năm ấy ông cùng những cựu binh đã thực hiện hơn 200 chuyến đi, phát hiện và khai quật gần 1.450 hài cốt liệt sĩ. Trong số đó có đến 50% đã xác định được tên tuổi, đơn vị, quê quán (đó là chưa kể 6 năm làm Phó đoàn 584 ông Hùng cùng đồng đội của mình đã quy tập hơn 3.000 mộ liệt sĩ khác). Mỗi lần khai quật, nếu phát hiện các hài cốt có tên, địa chỉ là ông Hùng tức tốc báo tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng để thân nhân biết được thông tin về chồng, cha, anh, em của mình mà đến mai táng, viếng thăm. Mấy năm gần đây, nhiều cựu binh già trong đội ông Hùng đã sức cùng, lực kiệt, bệnh tật tái phát triền miên hành hạ, duy chỉ mỗi mình ông Hùng còn trụ được với những chuyến vào rừng, những cơn sốt rét. Do đó, để tiếp tục cuộc hành trình tìm đồng đội giữa đại ngàn – không - năm - tháng, ông Hùng đã vận động thêm 5 cựu binh trong khu phố thành lập đội mới của mình. Theo ông Hùng: "Dù khó khăn, vất vả đến đâu chúng tôi cũng phải quyết tâm đến cùng để trọn nghĩa vẹn tình trước lời hứa với anh linh đồng đội”. HOÀNG THANH (Báo Quân đội Nhân dân)
Những bức thư gửi đến mai sau Những bộ hài cốt không còn nguyên vẹn, súng đạn và bom mìn cũng đều đã rỉ rét, chỉ có những tâm tư trong lá thư mà người lính chưa kịp gửi là còn tươi nguyên. Họ đã biết trước hy sinh và cả ngày chiến thắng. Đó là những gì mà các cuộc quy tập hài cốt liệt sĩ ở Thành cổ Quảng Trị thường gặp. Bức thư thứ nhất: "Quảng Trị, ngày 11-9-1972, Toàn thể gia đình kính thương... Con viết mấy dòng cuối cùng trước khi "đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất". Xin mẹ đừng buồn để sống đến ngày tin mừng chiến thắng. Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng ở bên mẹ, coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau"... Đó là đoạn đầu trích trong bức thư chưa kịp gửi của chiến sĩ Lê Văn Huỳnh, quê ở xóm Một, xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, sinh viên năm thứ tư khoa Xây dựng, khóa 13 của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội... đã được tìm thấy ngày 28-10-2002 khi quy tập hài cốt của anh tại vườn nhà ông Hách ở thôn Nhan Biều Một, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Người lính này viết bức thư cuối cùng vào ngày thứ 77 của chiến dịch 82 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, khi sự khốc liệt của đạn bom đã lên đến tột cùng. Anh đã cùng hơn một vạn đồng đội ngã xuống dưới sức công phá của lượng thuốc nổ bằng bảy quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hirosima. Bức thư anh không kịp gửi, có lẽ quân địch lại đến giội bom và nã pháo. Anh cùng những đồng đội cuối cùng trong tiểu đội lại nâng súng lên chờ giặc và ngã xuống ở một góc Thành cổ. Không biết anh và những sinh viên cầm súng ra trận như anh được bổ sung vào Thành cổ đợt thứ mấy, bởi 82 ngày đêm của mùa hè đỏ lửa ấy, mỗi ngày một đại đội bơi qua sông và mỗi ngày một đại đội không quay về nữa. Bức thư viết vội trước trận đánh cuối cùng của Lê Văn Huỳnh có nhiều đoạn xuống dòng, mỗi đoạn là một tâm tư của anh dành cho người mẹ già yếu, cho người vợ mới cưới bảy ngày, cho anh trai, chị dâu, cho cha mẹ vợ, cho đứa cháu đích tôn, cho người bạn thân thuở nhỏ và cho bà con lối xóm. Tuy ngắn, những mỗi câu, mỗi dòng, mỗi đoạn trong bức thư là một nét chấm phá để vẽ nên bức chân dung của một Người-Lính-Cụ-Hồ, một con người Việt Nam. Bản năng sinh tồn, trước cái chết có sinh vật nào không cưỡng lại? Nhưng người chiến sĩ ấy đã chuẩn bị cho mình một tư thế hết sức điềm tĩnh, tự tin bởi anh biết giá trị của hành động chết "cho Tổ quốc mai sau"! "Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh đã rụng xuống. Nhưng mẹ hãy coi như con vẫn sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau". Anh dặn đứa cháu đích tôn: "Trương, cháu phải cố gắng học tập cho thành người. Được sống trong hòa bình hãy luôn nhớ tới người chú ruột của cháu đã hy sinh". Và còn khôi hài: "nhớ là chú rất thích ăn thịt gà và chuối, xôi lắm đấy". Chỉ có tình yêu thật nồng nàn mãnh liệt, niềm tin son sắt thủy chung và lý tưởng cao đẹp của cả một thế hệ thanh niên Việt Nam mới thôi thúc anh rời giảng đường và con đường êm thuận đến tương lai để xung phong cầm súng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và viết ra những dòng như thế. Đọc những dòng chữ được viết cách đây 30 năm, khi cuộc chiến tranh đang vô cùng ác liệt mà cứ ngỡ nét mực Cửu Long nghiêng nghiêng ấy mới hôm qua. Ở đấy chứa chan niềm tin son sắt, rằng ngày mai đất nước sẽ thống nhất. Ở đấy, khung cảnh thanh bình như chính ngày hôm nay: "Ngày thống nhất, em hãy vào nam tìm anh. Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh hy sinh. Từ thị xã, qua cầu ngược trở lại hỏi thăm đường về thôn Nhan Biều I. Nếu tính xuôi theo dòng nước thì mộ anh ở cuối làng". Và "Em hãy đọc thư này cho mọi người trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi lời chúc sức khỏe tất cả những người quen thuộc trên quê hương trong buổi lễ truy điệu lịch sử này". Tháng trước, một cựu binh Mỹ từng tham chiến ở đây đã cúi đầu trước những di vật chiến sĩ Thành cổ, ông đã ôm mặt khóc khi cô hướng dẫn viên dịch bức thư của chiến sĩ Lê Văn Huỳnh và thốt lời rằng: "Bây giờ tôi mới hiểu vì sao họ đã chiến thắng. Họ đã biết trước tất cả". Vâng, các anh đã biết trước tất cả, rằng dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ hòa bình thống nhất, dân ta sẽ được ấm no hạnh phúc. Kể cả những đổi thay trên trận địa anh nằm, và những lời anh dặn dò người thân. Nếu còn sống, Lê Văn Huỳnh cũng sẽ như đồng đội là các anh Lê Văn Cường đơn vị C17, E95, F325, nay là Tiến sĩ ở Trường Đại học KTQD Hà Nội, Lê Xuân Tường ở C3, D1, E101, F325 nay là cán bộ quản lý Ngân hàng Hà Nội và Nguyễn Văn Hùng ở C1, E101, F325 nay là Phó Giám đốc Công ty Tư vấn Bộ GTVT... cùng rủ nhau về chiến trường xưa. Họ đã đi tàu qua sông Thạch Hãn, vào ga thị xã Quảng Trị qua bên kia sông để tìm về thôn Nhan Biều I tìm anh. Ba mươi năm, miền quê từng bị hủy diệt tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã đổi thay, thanh bình và trù phú. Trên đống đổ nát của Thành cổ Quảng Trị, nơi "Huân chương khó đủ từng viên gạch" ấy, bây giờ là một thị xã sầm uất, một trung tâm kinh tế, thương mại lớn thứ hai của tỉnh Quảng Trị hãnh diện soi mình bên dòng Thạch Hãn trong xanh. Chắc các anh biết và mãn nguyện lắm rồi. Bức thư thứ hai: Có một câu chuyện rằng, năm ngoái khi nghiệm thu công trình đường ống dẫn nước trong khu Thành cổ thì gặp lỗi. Chuyện ấy thật hiếm có, bởi lực lượng thi công tại đây luôn tâm niệm là đang làm việc thiện ở cõi thiêng cho nên rất cẩn thận. Vậy mà có một chỗ đường ống lại bỗng nhiên cao hơn thiết kế đến 30 cm. Nhà thi công quả quyết là họ đã kiểm tra rất kỹ, giám sát bên A cũng thừa nhận họ làm thật nghiêm túc. Thật lạ! Họ quyết định đào sâu xuống và phát hiện dưới đó một căn hầm trú ẩn có bốn bộ hài cốt liệt sĩ. Trong những di vật quen thuộc của người lính thì súng đạn và áo quần, ba-lô đều han gỉ hoặc mục rữa, chỉ có lá thư và những tấm ảnh vẫn còn nguyên vẹn vì được đựng trong bì ni-lon. Đó là di vật của liệt sĩ Lê Binh Chủng, Thượng úy, Chính trị viên phó của tiểu đoàn. Lần theo bức thư và tấm ảnh, các anh ở Ban quản lý di tích Thành cổ đã tìm về quê anh và chắp nối lại một câu chuyện đoàn viên đến rơi nước mắt. Lê Binh Chủng quê ở Nghệ An, trên đường hành quân vào nam chiến đấu, đơn vị anh đã dừng lại ở một làng quê thuộc huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Quân dân cá nước đã nảy sinh mối tình nồng thắm, sắt son giữa anh và cô giáo Lê Thị Biển Khơi. Chưa kịp làm lễ cưới, chưa kịp báo tin cho gia đình thì Lê Binh Chủng vượt Vĩ tuyến 17 vào Quảng Trị. Lá thư cuối cùng Lê Thị Biển Khơi gửi cho anh đề ngày 15-5-1972, báo tin họ sắp có con. Anh chờ ngày kết thúc chiến dịch để về thăm con, đặng thưa với bố mẹ hai nhà. Nhưng Lê Binh Chủng bơi qua sông vào Thành cổ và không về nữa. Hạnh phúc chỉ còn một nửa. Chị Lê Thị Biển Khơi cùng đứa con bắt đầu chuỗi ngày tháng đau buồn của mẹ góa, con côi và sự ghẻ lạnh của làng xóm, kể cả người thân về cảnh không chồng có con. Mãi đến ba mươi năm sau, bức thư, tấm ảnh của vợ mới đến tay gia đình anh. Một cuộc tìm về nguồn cội, một cuộc đoàn viên muộn màng đầy nước mắt, khi ông bà ôm đứa cháu nội mà cứ ngỡ như ôm lại con trai ngày nào, thằng cháu đã gần 30 tuổi. Danh phận của một người vợ, một đứa con của liệt sĩ đã được "minh oan" bởi tình yêu mãnh liệt mà người chồng, người cha gửi về từ... trong lòng đất! Có lẽ đó chỉ là hai trong số hàng vạn lá thư mà hàng vạn người lính Thành cổ Quảng Trị chưa kịp gửi đi trước trận đánh cuối cùng. Ba mươi năm rồi, những lá thư như thế tiếp tục được gửi về cho những người đang sống hôm nay và cho cả mai sau nữa. Nhưng có một điều thật kỳ diệu là những dòng chữ viết dưới làn đạn đó dù chưa kịp gửi đi thì người ở hậu phương năm xưa, những người đang sống hôm nay và các thế hệ mai sau đã, đang và sẽ còn cảm nhận được nhịp đập của trái tim các anh. (theo báo Nhân Dân )
Nghĩa trang huyền thoại Nguyễn Hoàn Hàng năm, cứ vào tháng Bảy, lượng khách đến viếng Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn tăng lên nhiều. Từng đoàn người lẫn trong mênh mang nghĩa trang, cung kính nhang khói và trò chuyện miên man với những mộ phần... Nhiều lượt khách đến viếng dâng hương tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn (sau tượng đài là cây "Bồ đề thiêng") Anh Nguyễn Văn Anh, phó trưởng Ban quản lý Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn (NTTS) cho biết: "So với 2-3 năm trước đây, lượng khách đến viếng NTTS hiện đã tăng 40-50%. Giờ đây, mỗi ngày có khoảng từ 7 đến 10 đoàn với trên 300 người đến viếng. Vào những đêm sáng trăng, thanh niên nam nữ đến hát hò đến khuya". Phải, đến với nghĩa trang không phải đến nơi chết chóc, không phải sợ hãi trước cái chết, mà chính cái chết hóa thành bất tử, phục sinh...Có đoàn khách từ Đà Nẵng đến, tôi đi theo đoàn. Giai điệu bi hùng, thống thiết của bài "Hồn tử sĩ" cất lên. Khóe mắt tôi bỗng cay nồng... Cây Bồ đề "thiêng" và mạch nước ngầm Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn đã được xây dựng hoàn tất giai đoạn I (từ năm 1999 đến 2002) với tổng mức đầu tư 28 tỷ đồng, bao gồm nhiều hạng mục như: Nâng cấp 10.263 vỏ mộ, xây dựng đài chính, vườn tượng, nhà khánh tiết, nhà đón tiếp... Trải qua nhiều năm xây dựng NTTS, có hai sự tích mang tính "huyền thoại": Cây Bồ đề "thiêng" và mạch nước ngầm. Tôi gợi chuyện: - Anh có biết cây Bồ đề mọc từ năm nào không? Thay cho câu trả lời, anh Anh đi tìm cuốn sổ lưu niệm của nghĩa trang đưa cho tôi xem. Những trang đầu của cuốn sổ lưu niệm trang trọng in bài viết của trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn về NTTS, trong đó có nhắc đến hai sự tích huyền thoại nói trên. Gấp lại trang văn của đồng chí Đồng Sỹ Nguyên, tôi tìm đến khu tượng đài chính dựng trước cây Bồ đề. Sau tượng đài "Tổ quốc ghi công", cây Bồ đề vừa tỏa rợp bóng mát, vừa giang rộng cánh tay ôm lấy tượng đài, chở che, đôn hậu như vòng tay của Mẹ Việt Nam. Vào cuối năm 1976, lúc chuẩn bị khánh thành NTTS cây Bồ đề này đã được phát hiện, lúc đó, cây cao 0,8m, tự mọc ở phía mặt sau Đài tưởng niệm.Đồng chí Đồng Sỹ Nguyên đã giao Ban quản lý nghĩa trang đắp đất quanh gốc cây Bồ đề, rào cây lại và trông coi cẩn thận. Hàng năm, cây Bồ đề tự mọc hiếm có này đã lớn lên rất nhanh. Vào năm 1999, lúc Bộ LĐTBXH cho biết thiết kế cải tạo, nâng cấp Đài tưởng niệm, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên đã đưa ra yêu cầu: Bất luận trong trường hợp nào, cây Bồ đề vẫn phải được giữ gìn nguyên vẹn. Điểm đặc biệt của cây Bồ đề này là thân có 3 cành phát triển đều nhau, ôm hẳn 3 cạnh của Đài tưởng niệm (cũ), mà theo thiết kế cũ, 3 cạnh của Đài tượng trưng cho 3 miền Bắc - Trung - Nam. Tiếng lành đồn xa, một số nhà sư đã đến cầu kinh ở Đài tưởng niệm và gốc cây Bồ đề "thiêng". Theo các nhà sư, đây là cây Bồ đề tự mọc đẹp kỳ lạ, hiếm thấy. Và cây Bồ đề này đã ngát thơm hương triết lý trong những trang văn xúc động thẳm sâu của đồng chí Đồng Sỹ Nguyên: "Đây là một sự tích có huyền thoại, một phúc âm, một điềm lành của liệt sĩ an nghỉ nơi đây. Hàng ngày có hàng trăm gia đình liệt sĩ đến viếng, khách du lịch trong, ngoài nước đến tham quan, ai cũng muốn ngắt một lá cây Bồ đề thiêng cho vào túi để lấy phúc. Mong rằng mọi người cùng nhau giữ lấy cây Bồ đề thiêng, tài sản của liệt sĩ Trường Sơn an nghỉ nơi đây, đừng hái lá, bẻ cành ảnh hưởng tới sự phát triển tôn nghiêm của cây, để phúc đức của liệt sĩ Trường Sơn đời đời ban tặng cho chúng ta". Nằm bên cạnh đường vào NTTS và phía trước mặt Đài tưởng niệm là hồ nước bốn mùa xanh thẳm bóng cây. Năm 1975-1976, bộ đội Trường Sơn đã đào hồ nước này để vừa trữ nước mưa, vừa tạo cảnh quan mát mẻ cho nghĩa trang. Ai cũng lo vào mùa nắng hạn gay gắt ở miền Trung, nước hồ sẽ cạn kiệt. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Khi bộ đội ta đào xuống sâu gần 2m, bất ngờ bắt gặp một mạch nước ngầm rất mạnh. Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã quyết định cho đào hồ sâu hơn, rộng hơn. Từ đó, cả trong những năm hạn hán, nước hồ có vơi nhưng vẫn không khô kiệt. Để tạo thêm vẻ đẹp cảnh quan, ở chỗ gần mạch nước ngầm, bộ đội Trường Sơn đã đắp một đảo nhỏ, dựng lên tượng một cô giao liên duyên dáng. Vẻ đẹp của hồ nước độc đáo này đã ánh lên lấp lánh, lung linh trong trang viết của trung tướng Đồng Sỹ Nguyên: "Đây lại một phúc âm nữa của liệt sĩ Trường Sơn ban tặng. Mong du khách, đồng bào hãy gìn giữ vệ sinh, đảm bảo hồ nước luôn trong xanh, soi bóng hàng cây đa loại quanh hồ, tắm mát hương hồn liệt sĩ". Đóa hoa vô thường Lên khu tượng đài chính của nghĩa trang dựng phía trước cây Bồ đề thiêng, tôi đã dừng lại khá lâu với cụm tượng bằng đá ghép khắc tạc sống động vóc dáng huyền thoại hào hùng của chiến sĩ Trường Sơn trên nhiều mặt trận: Phá bom mở đường, dùng hỏa lực tấn công địch, lắp đặt nối thông đường ống dẫn dầu, đảm bảo thông tin liên lạc...Bên những nét hùng tráng, tôi đặc biệt chú ý cụm tượng đá này còn đặc tả một nét lãng mạng trữ tình: hình một nữ chiến sĩ Trường Sơn vai mang súng, tay cầm một đóa hoa rừng Trường Sơn ngắm nghía, thưởng ngoạn. Quả đúng là "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh" và đánh với một phong thái lãng mạn cách mạng: "Ngắt một cánh hoa rừng cài lên mũ ta đi". Thời trước, ông cha ta đã để lại những tượng đài phụ nữ buồn thương đẫm lệ Chinh phụ ngâm, Hòn vọng phu. Thời đánh Mỹ đã có những tượng đài bà mẹ bi hùng: "Nước mắt mẹ không còn, để khóc những đứa con, lần lượt ra đi, đi mãi mãi...". Khi đất nước hòa bình, người phụ nữ vẫn lặng lẽ âm thầm hy sinh. Chị Đoàn Thị Hồng, quê ở Đồng Hới, Quảng Bình, đi bộ đội rồi về làm nhân viên quản trang NTTS là người phụ nữ mang nặng một nỗi đau tưởng chừng vượt quá sức chịu đựng. Ngay trong thời bình, chị vẫn phải chịu nỗi đau mất chồng vì chiến tranh, mất con vì tai họa bất ngờ, trong cùng một năm. Chồng chị, anh Nguyễn Duy Sanh là thương binh loại A, được công nhận năm 1983. Một đầu đạn quái ác vẫn găm vào phổi anh vẫn không sao cắt được vì bác sĩ bảo sức khỏe không cho phép. Vết thương mang đầu đạn cứ lở loét mỗi ngày một nặng thêm, người anh nổi cơn sốt rét ác tính, da cứ vàng đi. Cho đến năm 2002, đầu đạn chuồi xuống phổi, cướp mất đi hơi thở của anh. Trước lúc anh mất chừng hai tháng, thằng nhỏ con của anh chị vốn bị bệnh động kinh đã ngã suối chết đuối. Đau thương đến tận cùng tê tái khiến chị không khóc nổi nữa. -Chị nghĩ, thằng cu chị chắc bị di chứng của chất độc màu da cam-Chị nói với nỗi tức tưởi không nguôi. Miên man chuyện chồng con, chị kể đứa con gái đầu vừa rồi vào Sài Gòn thi đại học luật đã bị móc túi, mất đứt một triệu sáu mẹ đã chắt bóp, giành dụm. Ngày thi đã cận kề, con gái mếu máo điện ra xin tiền mẹ, chị phải xoay xở gửi gấp vào cho con thêm một triệu nữa. Chuyện đời kể cũng đáng để suy ngẫm: Mẹ vừa chưa ra khỏi di họa của chiến tranh, con chập chững vào đời đã phải đối mặt với mặt trái cuộc sống. Dẫu sao, tôi vẫn mừng vì chị Hồng đã xây được nhà, nền nhà đã láng xi măng cho tôi ngồi bệt thoải mái để cảm nhận những đổi thay trong đời sống của người quản trang. Nhưng nắng Trường Sơn vẫn cứ rưng rưng trước sân nhà chị Hồng. Và bỗng nhiên tôi tình cờ bắt gặp cạnh sân nắng, phía bên phải vườn nhà chị một cây quỳnh vàng lá vì cháy nắng, cây quỳnh đứng một mình, không có bóng cành giao và có lẽ cũng không người chăm sóc. Nhưng quỳnh không chịu héo mà cứ cháy đến rưng rức, nhức nhối. Chao ôi, cả đến đôi ba khoảnh khắc thư nhàn ngồi chờ một đóa quỳnh nở để chiêm nghiệm về lẽ vô thường của trời đất, chị Hồng cũng không có được nữa ư! Nhưng có hề chi, đời chị đã như một đóa hoa rừng tươi thắm trong tay cầm ngắm nghía của nữ chiến sĩ Trường Sơn, như hình ảnh đã được tạc sâu vào đá trong vườn tượng nghĩa trang, đóa hoa vẫn nở bất chấp nắng mưa, bão giông, sấm sét, lửa đạn vô thường. Làm quản trang đã lâu, chắc chị có nhiều kỷ niệm nghề nghiệp, nhiều niềm linh cảm, nhiều nỗi động lòng trắc ẩn...mà những nghề khác không có được? -Tôi dò hỏi "bí mật nghề nghiệp" của chị. - Có chứ. Có lúc tôi nằm mơ thấy một ông đội mũ có sao, bị thương lòi ruột ở phía bên phải, bảo: "Người nhà tôi sắp vào thăm đấy". Sáng hôm sau khoảng lúc 9 giờ, thấy có hai người con đến thăm mộ bố, tôi bèn hỏi bố các cháu hy sinh trong trường hợp nào. Hai người con đáp: "Bố cháu bị thương ở bên phải, bị lòi ruột ra". Thật đúng y như tôi đã nằm mơ. Tôi còn nhớ tên khắc trên phần mộ liệt sĩ đó là Nguyễn Thế Hường, quê ở Hà Bắc. Chị Hồng say sưa kể như đưa tôi vào một thế giới cổ tích mộng mị. Có hôm, một chị ở đường xa đến viếng mộ liệt sĩ, gặp lúc trời mưa to quá, không thể đốt giấy tiền được, chị đã gói giấy tiền lại trong ni lông cho khỏi ướt, rồi nhờ tôi đợi tối tạnh mưa lên đốt giúp cho chị. Tôi bận việc chưa lên đốt được. Đêm đó, tôi nằm chộ liệt sĩ quở trách: "Sao chị chưa đốt giấy cho tôi?". Sáng mai, tôi đã giục ông xã tôi lên đốt. Kể ra những chuyện này, xin đừng ai vội cho đó là chuyện mê tín. Quy luật tâm lý cho thấy rằng, điều gì ám ảnh nhiều, điều đó sẽ đi vào trong giấc mơ. Không, tôi không hề giản đơn nghĩ rằng chị Hồng mê tín, chính xác hơn, chị đã mang một nỗi ám ảnh nghề nghiệp sâu sắc mà nếu thiếu nó, người ta không thể nào hành nghề được, nhất là đối với những nghề đòi hỏi rất cao đến thiên chức, đến lương tâm và đặc biệt, cả đến nước mắt nhân bản nữa, như nghề quản trang. Mai này, Nghĩa trang Vào lúc tôi cùng anh Anh và bao nhiêu khách có mặt trong những tháng ngày cao điểm hành hương về nguồn đang lắng theo điệu nhạc "Hồn tử sĩ" ở NTTS chính là lúc anh Lê Vũ Bằng, giám đốc Sở LĐTBXH tỉnh đang ở Hà Nội để dự một cuộc họp giữa Bộ LĐTBXH với các Bộ, ngành liên quan về việc lấy ý kiến đóng góp cho Dự án đầu tư xây dựng giai đoạn II NTTS (còn gọi là Khu lâm viên gợi nhớ Trường Sơn). Dự kiến, dự án này sẽ được đầu tư sớm nhất là trong năm 2004. Thực hiện dự án này, sẽ có một cõi Trường Sơn huyền sử được tái hiện nguyên mẫu sinh động trên thực địa, với nhiều hạng mục thể hiện huyền thoại Trường Sơn như : Hầm chỉ huy Bộ Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn, đường gùi thồ, đường giao liên, đường ống dẫn dầu, đường kín, đường cầu nghi binh, bản đồng bào dân tộc, dấu ấn Trường Sơn bên sông Bến Hải, đảo lán nghỉ giữa hồ... - Có một tiện lợi là đường Hồ Chí Minh đã mở ngay trước mặt NTTS, khách đến càng đông hơn-Trong lời anh Anh nói, tôi nghe có một niềm dự cảm rủ rê-Khách đi theo đường Hồ Chí Minh về viếng Nghĩa trang rồi ra Phong Nha, di sản thiên nhiên thế giới gần hơn đi đường Quốc lộ I khoảng 40-50km, khách sẽ còn tăng. Niềm dự cảm sẽ trở thành hiện thực, rằng một ngày không xa nữa, khi Cõi Trường Sơn được phục dựng hoàn chỉnh (thông qua đầu tư giai đoạn II), NTTS sẽ vẫn mãi là địa chỉ đỏ của khách hành hương, sẽ vừa là địa chỉ lý tưởng của loại hình du lịch hồi tưởng. Mấy năm gần đây, tôi đã thấy hình ảnh chiếc mũ tai bèo có thêu chữ "Kỷ niệm Trường Sơn" do người Huế làm được đưa ra chào hàng với khách đến viếng Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Để khai thác tốt lợi thế phát triển kinh tế - du lịch - dân sinh của tuyến đường Hồ Chí Minh, cần có thêm nhiều sản phẩm du lịch phong phú khác nữa, ngoài chiếc mũ tai bèo, tại sao không? (theo báo Lao Động)
Thơ từ hồ sơ chiến tranh Bruce WeiGL (Nhà thơ, dịch giả, nhà lý luận phê bình Văn học Mỹ) Thời kỳ cuối 1966 đến cuối 1972 là lúc diễn ra những trận đánh dai dẳng và ác liệt nhất, đặc biệt những năm 1967, 1968, khi có tới hơn nửa triệu lính Mỹ sang VN. Các đơn vị quân đội Mỹ đã thu thập được tại chiến trường nhiều tài liệu của quân nhân VN, trong đó có cả nhật ký riêng, thư từ, và thật bất ngờ là rất nhiều thơ. Số tài liệu này đã được chuyển về Sài Gòn để phân tích, dịch, phân loại và chụp lại trên microfilm cỡ 35mm để lưu trữ. Bản gốc đã mất đi khi Sài Gòn sụp đổ, chủ yếu do quân Mỹ phá huỷ trước khi rút chạy. Các bản chụp microfilm được lưu tại Kho Lưu trữ Quốc gia ở Washington D.C. Trung tâm William Joiner về Nghiên cứu Chiến tranh và Hậu quả xã hội thuộc Trường ĐHTH Massachusetts ở Boston đã mua lại một bản chụp. Các bài thơ ở đây được trích ra từ những cuộn phim dài 19 dặm này. Chúng đã đem lại cho ta những ý niệm đặc biệt về bản thân những người lính. Thử tưởng tượng về những người đã giữ những cuốn nhật ký này suốt thời gian chiến tranh khốc liệt và đằng đẵng... Những bài thơ ở đây được viết ra dưới nhiều hình thức khác nhau, từ thể thơ tự do tới các hình thức dân gian. Cũng như hầu hết những vần thơ được viết dưới chiến hào trong thời Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, các vần thơ này thường đầy cảm tính và rất riêng tư. Nhưng điều quý giá nhất là tính chân thực trong sự trải nghiệm của những người lính - nhà thơ: Đấy là sự tích tụ trên trang giấy nỗi gian khổ, niềm khao khát trong những năm tháng chiến tranh mà nội dung của nó rõ ràng và trực tiếp tới mức tâm trí người đọc không thể không bị cuốn hút, thậm chí bị biến đổi, bởi những vần thơ này. Qua thơ, những người lính - nhà thơ (mà nhiều người đã khuất) có được tiếng nói riêng tư của mình. Đọc thơ họ, ta có thể chứng kiến cuộc đấu tranh thường ngày trong mỗi người. Vừa dịch vài bài thơ đầu tiên, tôi đã sững sờ bởi những gì họ trải qua. Những người lính Việt Nam chịu đựng sự khát khao người yêu xa cách, sự căng thẳng, gian khó trong những ngày tháng chiến đấu dài dằng dặc... Giờ đây, dù chẳng còn cách nào để tìm hoặc xin phép hoặc cảm tạ các tác giả, chúng tôi hy vọng rằng những bài thơ rút từ tuyển tập dịch này tự nó là sự tưởng nhớ tới họ. Những người lính - nhà thơ này đã viết trong hoàn cảnh khốc liệt nhất những vần thơ mà sự trong trẻo, cảm xúc sâu sắc của chúng là bằng chứng đầy ấn tượng về vị trí của thơ ca trong tâm hồn người VN. M.Y dịch Bàn tay (trích) Nguyễn Văn Lục Bàn tay nào dìu em vào lối mộng? Bàn tay nào ve vuốt tóc em đây? Bàn tay nào xoa ngực em xúc động? Bàn tay nào đưa em lên ngàn mây? (...) Ừ, bàn tay nầy, Bàn tay nầy đây Bàn tay gân guốc Từng đốt ghi tháng ngày. Bàn tay thuở xưa quen tìm vú mẹ Thì bây giờ mùi xa ngọt mờ phai Bàn tay thuở xưa say tìm vú mẹ Thì bây giờ đang luồn trong áo ai? Bàn tay phiêu du khắp cùng ngõ ngách Dù quần xắn áo cài Dù mày cau môi mím Cố gói những gì em mơ Em say. Gặp nhau Khuyết danh Tối qua dưới ánh trăng vàng Anh đang mang súng theo đoàn hành quân Gặp cô thôn nữ xóm Vân Quẩy đôi thúng gạo nuôi quân qua cầu. Tình cờ ta lại gặp nhau Phải chăng là mối tình đầu nên duyên? Mỉm cười e thẹn ngẩng lên Nhìn đôi má lúm đồng tiền thầm yêu...Ngày 20, tháng 4, 1966 Rừng đêm (trích) Đức Thành (Kỷ niệm chiến trường) Qua bao nhiêu ngày tháng giẫm chân ở chiến trường Chịu bao nhiêu những khó khăn gian khổ Đấy là trui rèn người giải phóng quân Phải biết và quen với tiếng nổ long trời Và mùi thuốc đạn. Bạn ơi! Tôi cực lắm bạn ơi! Tôi là người con của dân tộc Việt Nam Hàng trăm năm nay bị đô hộ Hết giặc Pháp tới Mỹ Giờ đây tôi phải lăn vùi Hầu cứu lấy quê hương thanh bình và yên vui. (...) Tôi đã chịu từng cơn kinh khủng của bom đạn Đổ trút trên đầu tôi Hay có những hôm mưa tầm tã Mà tôi phải đứng ngoài mưa ướt cả đêm Chịu đói bụng cả đêm trường. (...) Bạn ơi! Mẹ tôi đã già rồi Còn đang đợi con ở chốn quê hương Hằng đêm mẹ tôi chờ tôi về Để mẹ tôi còn thấy tôi rồi chết. Xóm làng tôi ngày đêm chịu cảnh chiến tranh. (...) Đêm nay là một đêm Tôi cùng các bạn tôi phải ôm súng chặt Để ra tận chiến trường. Đêm đã dài mà tôi phải thức đào công sự. (...) Người tôi bị dồn dập nhiều đêm Nên đêm nay tôi mệt lừ Tôi gắng gượng lại cho thân thể tôi đảm bảo Chiến đấu tinh thần tôi còn hăng say Chưa bao giờ tôi lại nghĩ hoang mang sợ sệt. Các bạn ơi! Chúng ta là thanh niên của dân tộc anh hùng Dẫu cho cực khổ, chết chóc Nhất định ngày thành công sẽ về ta. Hy vọng Khuyết danh (Tặng Trần Mạnh Giang, người bạn quen thân gặp nhau trên đường chiến đấu) Nước suối vờn mây, mây hồng ấp núi Ta đã qua mấy núi mấy đèo Đầu gối Trường Sơn, chân mòn vết đá Sốt rét lên cơn mệt lả. Đi cứ đi vì cả ngày mai Ta đi trên vạn đường dài Vẫn thấy ngày mai trong ánh mắt. Khói lửa qua rồi quê ta hết giặc Ta hát bài ca xây dựng cuộc đời Dẫu bây giờ mỏi gối khàn hơi Vui tất cả cuộc đời ta làm việc. Làm thân cầu nối tiếp ngày mai Đất nước Việt Nam biển rộng sông dài Đường tiếp nối đi về muôn mạch sống Trong gian lao cần bài ca hy vọng. Ngày 23 tháng 2, 1967 Năm 1967, Bruce Weigl, 18 tuổi, được điều đến VN để "đốt những xóm làng và giết những người dân vô tội mà chẳng có bất cứ một lý do nào". Năm 1968, trở về Mỹ, ông trở thành một trong những cựu chiến binh đấu tranh tích cực nhất trong phong trào phản chiến. Xuất thân từ một gia đình công nhân Mỹ nghèo đến mức không có tiền để đến trường, giờ đây Bruce Weigl đã trở thành một tiến sĩ văn học, một giảng viên đại học, một nhà thơ - nhà văn - dịch giả rất được yêu thích ở Mỹ. Ông nói: "Trước khi sang VN, tôi là một thanh niên Mỹ thất học, chỉ quan tâm đến bóng chày, bóng rổ và bóng đá Mỹ, chứ không có chủ kiến gì về chiến tranh. Nhưng chính tâm trạng đổ vỡ trong thời gian tham gia cuộc chiến ở VN đã bắt tôi phải đối diện với nội tâm của chính mình để tìm ra câu trả lời cho những gì đang diễn ra xung quanh. Và con đường đó đã đưa tôi đến với thi ca". Cuốn "Thơ từ hồ sơ chiến tranh" do ông chọn và dịch từ tài liệu về những chiến sĩ VN bị mất tích hoặc hy sinh trong chiến tranh (xuất bản năm 1994 tại Mỹ) đã gây tiếng vang lớn. Phương Duy
"Hộp thư của cõi thiêng" Người ta gọi Trần Khánh Khư là "hộp thư của cõi thiêng", bởi 10 năm rồi, anh đã giúp nhiều liệt sĩ "trở về" với gia đình, hàng trăm người gặp lại đồng đội và cả những oan khuất, thiệt thòi của họ cũng từ đây mà được giải tỏa. Gặp lại "nụ cười Thành cổ" Trong số những bức ảnh nổi tiếng về chiến dịch 82 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị hiện đang trưng bày tại nhiều bảo tàng lịch sử cách mạng thì Nụ cười Thành cổ của Nghệ sĩ Ðoàn Công Tính, nguyên phóng viên chiến trường của báo Quân đội nhân dân với hình ảnh người lính đang ôm súng cười trước ống kính đã đặc biệt gây xúc động với mọi người. Trên cái nền tan hoang của một góc Thành cổ, khẩu súng nóng bỏng, gương mặt nhễ nhại mồ hôi, xạm đen đất bụi và khói bom là một nụ cười thật tươi tắn, hồn nhiên sau vành mũ tai bèo. Trong gian khổ hy sinh, nụ cười rạng rỡ của anh càng khiến người xem cảm nhận rõ sức sống thật mãnh liệt, tràn trề niềm tin người lính. Nụ cười Thành cổ đã trở thành một biểu tượng đẹp của bản lĩnh, tâm hồn Việt Nam khiến bè bạn khâm phục và kẻ thù khiếp sợ. Người lính ấy là ai trong hơn mười nghìn chiến sĩ bảo vệ Thành cổ? Anh còn sống hay đã nằm lại đất này? Tưởng chừng không ai trả lời được, vậy mà sau ba mươi năm "chủ nhân" của nụ cười Việt Nam đó đã được tìm thấy. Anh là chiến sĩ Lê Xuân Chinh, thuộc C16 Thông tin, E48, F320 quê ở Thái Thụy, Thái Bình. Xác định nhân vật đã khó, đi tìm nhân vật lại càng khó hơn, bởi sau hàng chục lần đi lại, hàng trăm bức thư, cuộc điện thoại liên lạc, người ta mới tìm ra Nụ cười Thành cổ lưu lạc ở tít tận đội 4, xã Thanh Yên, huyện Ðiện Biên, tỉnh Lai Châu, với một gia cảnh cực kỳ thiếu thốn. Chuyện là, sau khi bị thương nặng, Lê Xuân Chinh được đồng đội đưa ra tuyến sau điều trị. Chiến tranh kết thúc, anh về quê và trên một chuyến xe đò, bọn móc túi đã vét sạch ba-lô của anh, kể cả toàn bộ giấy tờ, bởi vậy trong hồ sơ của cơ quan chính sách, anh chỉ là một người lính xuất ngũ không hàm, không hiệu. Là lao động chính trong một gia đình đông con, vết thương cũ thường tái phát, ba chục năm rồi mà anh vẫn không thoát nổi đói nghèo, dù đã đưa gia đình lên tận vùng kinh tế mới Lai Châu làm ăn... Thế rồi một cuộc hội ngộ của những người lính sau ba mươi năm thất lạc nhau đã diễn ra trong nước mắt. Lê Xuân Chinh may mắn gặp lại Nghệ sĩ Ðoàn Công Tính, người đã chụp bức ảnh ấy, được gặp các đồng chí là chỉ huy của anh hồi ở Thành cổ Quảng Trị và nhiều đồng đội cũ. Anh được đích thân các chỉ huy cũ của mình (có cả các vị tướng) dẫn đến tận cơ quan chính sách để phục hồi hồ sơ quân nhân, được làm thủ tục chế độ thương binh, được rất nhiều đồng đội cũ ở Thành cổ giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Chân dung của một... "hộp thư" Ðó là một trong những câu chuyện xúc động thời hậu chiến, ngỡ chỉ có phép mầu mới làm được. Nếu đúng vậy thì "phép mầu" đó là một cán bộ của Bảo tàng Thành cổ Quảng Trị, anh Trần Khánh Khư. Sinh ra trong một gia đình có đến bốn hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, tất cả 10 người trong nhà đều là du kích, bố và ba người anh là liệt sĩ, mẹ là một cựu tù chính trị, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và bản thân là một đội viên du kích từ khi 13 tuổi, tham gia hàng trăm trận chiến đấu và bị thương trong những năm tháng ác liệt ở chiến trường Quảng Trị, Trần Khánh Khư có mối đồng cảm máu thịt với những người lính. Ngoài công việc quản lý khu di tích, anh Khư lặn lội về nhiều vùng quê, nơi từng diễn ra nhiều trận ác liệt, từng chôn cất nhiều liệt sĩ, nơi tập kết của bộ đội ta trước giờ nổ súng để tìm tòi, hỏi han từng chi tiết, sưu tập từng kỷ vật người lính để lại và chắp nối các sự kiện liên quan đến từng ngày trong 82 ngày đêm "mùa hè đỏ lửa" năm ấy. Mỗi kỷ vật hay từng sự kiện tìm được, anh đều làm nó sống dậy để "tìm đường" trở về. Hầu như ít có cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ nào ở Thành cổ và vùng ngoại vi mà không có mặt anh. Anh là một giao liên đưa đường, dẫn lối cho nhiều cựu chiến binh đi tìm đồng đội. Anh trở thành một hộp thư, một địa chỉ hẹn hò của những người lính Thành cổ gặp lại nhau sau ba chục năm trời. Ba mươi năm rồi kể từ khi những người lính từng đêm bơi qua sông Thạch Hãn vào Thành cổ để chia sẻ cùng nhau cái tàn khốc tận cùng của bom đạn giặc thù. Họ không kịp hỏi tên nhau, không kịp chuyền nhau bi đông nước. Nhưng lại nhớ rất rõ đêm ấy, hướng ấy, có "thằng" bắn mấy quả B41 chia lửa cứu nhau, rồi ở góc thành phía đông, nhờ "thằng" nào đạp xuống hố bom mà mình tránh được đạn... Mãi đến bây giờ, tìm về Thành cổ, qua "hộp thư" Trần Khánh Khư mà họ choàng lấy nhau cười, khóc. Họ bây giờ, dẫu có người thành đạt, có người vẫn chật vật với miếng cơm manh áo, có người đến bằng ô-tô con lại có người vừa tụt xuống trên chuyến tàu chợ lúc ba giờ sáng... nhưng giọt nước mắt đẫm ướt vai nhau là của những người lính Thành cổ, hồn nhiên trai trẻ một thời. Mỗi lần như thế, Trần Khánh Khư cảm thấy thật hạnh phúc và đó là nguồn động viên lớn nhất để anh tiếp tục công việc làm một "hộp thư" của mình. Hơn 10 năm nay, qua "hộp thư cõi thiêng" ấy mà hàng trăm người lính Thành cổ đã tìm thấy nhau, kể cả với những đồng đội đã hy sinh. Từ một lá thư chưa kịp gửi mà liệt sĩ Lê Văn Huỳnh ở Kiến Xương, Thái Bình đã tìm về được với gia đình. Từ một tấm ảnh mà vợ, con của liệt sĩ Lê Binh Chủng ở Nghệ An được minh oan, hay từ một chiếc thắt lưng mà đồng đội tìm được hài cốt liệt sĩ Chu Văn Tiến quê ở Gia Lâm, Hà Nội... Và để có được những cuộc trở về đó, Trần Khánh Khư đã bỏ ra không biết bao nhiêu thời gian xuôi ngược đó đây. Riêng với Nụ cười Thành cổ Lê Xuân Chinh, anh Khư đã phải gọi cả trăm cuộc điện thoại đường dài, đã gặp hàng chục cựu chiến binh Thành cổ, liên lạc hàng chục lần với các cơ quan, đơn vị liên quan ở trung ương, ở Thái Bình, Lai Châu... Tìm được người rồi, trước gia cảnh khó khăn, anh lại lặn lội đến các địa chỉ quen thuộc để vận động, quyên góp kinh phí đặng giúp người lính Thành cổ năm xưa vượt qua khó khăn của cuộc sống hằng ngày. Việc làm của anh Trần Khánh Khư thật đáng trân trọng!