Nhanh tay [Bình chọn] điểm du lịch lý tưởng Tỉnh Quảng Trị

Discussion in 'QUẢNG TRỊ THÂN YÊU' started by Minhvip, Mar 9, 2011.

?

Điểm du lịch lý tưởng Tỉnh Quảng trị

Poll closed May 9, 2011.
Làng địa đạo Vịnh Mốc và biển Cửa Tùng 7 vote(s) 46.7%
Đảo cồn cỏ 5 vote(s) 33.3%
Thành cổ Quảng Trị 3 vote(s) 20.0%
Di tích lịch sử Dốc Miếu 0 vote(s) 0.0%
Dải lụa Trường Sơn 1 vote(s) 6.7%
Cầu Hiền Lương 1 vote(s) 6.7%
Multiple votes are allowed.
  1. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Nhanh tay cho ý kiến[Bình chọn] điểm du lịch lý tưởng Tỉnh Quảng Trị

    BÌNH CHỌN
    Mục đích :làm nổi bật các địa điểm du lịch kũng như lịch sử đã trải qua của mảnh đất Quảng Trị,chia sẻ giao lưu cho nhau hiểu đươc giá trị tiềm năng phát triển của một số điểm du lịch sau một vài năm tới
    Tiêu chí bình chọn:cảnh quan thiên nhiên đẹp tạo được cảm giác thoải mái khi đến
    :ý nghĩa của điểm du lịch

    :lịch sử gắn liền

    01:Làng địa đạo Vịnh Mốc
    [IMG]
    Địa đạo Vĩnh Mốc và biển Tửa Tùng

    Toà lâu đài cổ trong lòng đất Quảng Trị


    Làng địa đạo Vịnh Mốc - Một toà lâu đài cổ trong lòng đất Quảng Trị. Vịnh Mốc (thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là một làng chài khiêm nhường có gần 100 nóc nhà nằm trên bờ biển phía đông nam thị trấn Hồ Xá chừng 13km, cách bãi tắm Cửa Tùng 7km về phía Bắc, cách đảo Cồn Cỏ anh hùng 30km về Cửa Tùng - nữ hoàng của các bãi biển
    Trăng mật .
    Từ cầu Hiền Lương, chiếc cầu nối đôi bờ Vĩnh Linh và Gio Linh , đi khoảng 10 km về phía Đông Bắc, bạn sẽ thấy bãi biển Cửa Tùng xinh đẹp, nơi được mệnh danh là “Nữ hoàng của các bãi biển”.

    Nằm phía Bắc cửa biển, Cửa Tùng là một bãi cát thon dài, phẳng mịn, nằm phơi mình dưới làn nước xanh trong vắt. Khác với các vùng bờ biển miền Trung khác, hay xảy ra những trận sóng to, gió lớn, bão tố thât thường, Cửa Tùng lại là nơi hiền hòa, kín gió, nơi neo đậu an toàn cho tàu thuyền đánh cá của ngư dân.
    Ôm lấy bãi biển Cửa Tùng là dải đồi đất đỏ bazan với những dải đá kéo dài ăn sâu ra biển cùng với bãi cát mịn màng. Hai bãi đá ngầm ăn sâu ra biển từ hai phía là Mũi Si và Mũi Lai tạo nên một cái vịnh nhỏ kín đáo và không có các dòng hải lưu cuốn xoáy
    [IMG]
    Đứng trên một đồi đất mà nhìn xuống Cửa Tùng, bạn có thể thỏa sức ngắm nhìn một quang cảnh tuyệt đẹp trải ra trước mắt. Một người Pháp đã từng mô tả Cửa Tùng như một bãi biển đẹp nhất trong ký ức của mình như sau:
    "[IMG]
    Cửa Tùng có cái sắc thái đặc biệt là nó được cấu tạo bởi một dải nguyên xanh tươi với độ cao 20 m dựng xiên thành bờ dốc trên một bãi biển có độ dốc thoai thoải và nhẹ nhàng...".
    Nét đặc biệt, độc đáo làm nên sự khác biệt của Cửa Tùng còn chính là ở độ dốc thoai thoải của bãi tắm. Bạn đi từ bờ ra phía ngoài khơi, lao mình vào vòng tay của biển, và có thể đi mãi như vậy đến nữa cây số mà nước mới chỉ ngang ngực. Một sự thú vị tuyệt vời! Nơi đây còn có nhiều hải sản quý và ngon nổi tiếng như mực nang, tôm he, tôm hùm, cá chim, cá thu, cá nụ và cá đé với cách chế biến món ăn rất đặc biệt của dân địa phương.

    Ban ngày, Cửa Tùng như một bức tranh sinh động thay đổi màu sắc từng giờ dưới ánh nắng mặt trời. Đêm đến là thời gian của gió trời và nhạc biển. Tiếng sóng ì ầm hòa cùng tiếng reo triền miên của rặng phi lao tấu lên bản nhạc bất tận của thiên nhiên Cửa Tùng.
    Đến với Cửa Tùng, bạn còn có cơ hội thăm địa đạo Vĩnh Mốc, cầu Hiền Lương... những di tích lịch sử nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, thăm ngôi nhà nghỉ mát của vua Duy Tân từ năm 1896, thăm quan nhà nghỉ của các cố đạo và tu sĩ, thăm làng biển cổ Cát Sơn, ….
    phía Tây. Cửa Tùng - nữ hoàng của các bãi biển
    Trăng mật .Từ cầu Hiền Lương, chiếc cầu nối đôi bờ Vĩnh Linh và Gio Linh , đi khoảng 10 km về phía Đông Bắc, bạn sẽ thấy bãi biển Cửa Tùng xinh đẹp, nơi được mệnh danh là “Nữ hoàng của các bãi biển”.
    Nằm phía Bắc cửa biển, Cửa Tùng là một bãi cát thon dài, phẳng mịn, nằm phơi mình dưới làn nước xanh trong vắt. Khác với các vùng bờ biển miền Trung khác, hay xảy ra những trận sóng to, gió lớn, bão tố thât thường, Cửa Tùng lại là nơi hiền hòa, kín gió, nơi neo đậu an toàn cho tàu thuyền đánh cá của ngư dân.
    Ôm lấy bãi biển Cửa Tùng là dải đồi đất đỏ bazan với những dải đá kéo dài ăn sâu ra biển cùng với bãi cát mịn màng. Hai bãi đá ngầm ăn sâu ra biển từ hai phía là Mũi Si và Mũi Lai tạo nên một cái vịnh nhỏ kín đáo và không có các dòng hải lưu cuốn xoáy.
    Đứng trên một đồi đất mà nhìn xuống Cửa Tùng, bạn có thể thỏa sức ngắm nhìn một quang cảnh tuyệt đẹp trải ra trước mắt. Một người Pháp đã từng mô tả Cửa Tùng như một bãi biển đẹp nhất trong ký ức của mình như sau: "Cửa Tùng có cái sắc thái đặc biệt là nó được cấu tạo bởi một dải nguyên xanh tươi với độ cao 20 m dựng xiên thành bờ dốc trên một bãi biển có độ dốc thoai thoải và nhẹ nhàng...".

    Nét đặc biệt, độc đáo làm nên sự khác biệt của CHãy một lần đến với Cửa Tùng, đến với những con sóng nhẹ xô bờ, đến với cát trắng mịn luồn qua từng kẽ tay, đến với rặng phi lao rì rào trong gió, với tiếng sóng biển rì rào đêm ngày, với những người dân hồn hậu, thân thương và cực kì hiếu khách để cảm nhận hết vẻ đẹp của vùng đất và con người nơi đây, để thêm yêu từng mảnh đất quê hương, đất nước!
    Cửa Tùng còn chính là ở độ dốc thoai thoải của bãi tắm. Bạn đi từ bờ ra phía ngoài khơi, lao mình vào vòng tay của biển, và có thể đi mãi như vậy đến nữa cây số mà nước mới chỉ ngang ngực. Một sự thú vị tuyệt vời! Nơi đây còn có nhiều hải sản quý và ngon nổi tiếng như mực nang, tôm he, tôm hùm, cá chim, cá thu, cá nụ và cá đé với cách chế biến món ăn rất đặc biệt của dân địa phương.
    Ban ngày, Cửa Tùng như một bức tranh sinh động thay đổi màu sắc từng giờ dưới ánh nắng mặt trời. Đêm đến là thời gian của gió trời và nhạc biển. Tiếng sóng ì ầm hòa cùng tiếng reo triền miên của rặng phi lao tấu lên bản nhạc bất tận của thiên nhiên Cửa Tùng.
    Đến với Cửa Tùng, bạn còn có cơ hội thăm địa đạo Vĩnh Mốc, cầu Hiền Lương... những di tích lịch sử nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, thăm ngôi nhà nghỉ mát của vua Duy Tân từ năm 1896, thăm quan nhà nghỉ của các cố đạo và tu sĩ, thăm làng biển cổ Cát Sơn, ….

    Vào năm 1965, trước sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ vào Vĩnh Linh, cũng như hầu hết các làng quê khác, Vịnh Mốc đã bị huỷ diệt hoàn toàn. Trước quyết tâm bám trụ quê hương, chi viện chi miền Nam, việc tổ chức phòng tránh cho con người đặt ra hết sức cấp thiết. Với ý chí "một tấc không đi, một li không rời", quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất, họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo mà địa đạo Vịnh Mốc là đại diện tiêu biểu nhất.
    Cuối năm 1965, các chiến sĩ đồn biên phòng 140, nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên khai sinh ra làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này.
    Toàn bộ địa đạo được đào trong lòng quả đồi đất đỏ có độ cao chừng 30m, rộng hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9m x 1,75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính dài 780m, có 13 cửa ra vào, được chống đỡ bằng cột nhà, gỗ và nguỵ trang khá kín đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường hầm.
    Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 - 10 mét dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời, tầng 2 sâu 12 - 15 mét là nơi sống và sinh hoạt của dân làng, tầng 3 có độ sâu hơn 30 mét là nơi trung chuyển hàng hoá, vũ khí ra thuyền lên đảo Cồn Cỏ.
    Để đảm bảo cho hàng trăm con người ăn, ở, sinh hoạt an toàn, tiện lợi, dọc hai bên đường hầm người ta khoét vào rất nhiều căn hộ, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 - 4 người ở. Ngoài ra trong đường hầm còn có hội trường (sức chứa hơn 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm phẫu thuật, trạm gác, máy điện thoại… đặc biệt có nhà hộ sinh, nơi ra đời của 17 đứa trẻ suốt trong hai năm 1967 - 1978.
    Việc tổ chức phòng tránh, bảo vệ địa đạo rất phức tạp, đòi hỏi tính tổ chức, tự giác cao, bởi lẽ không chỉ đạn bom trút xuống mà còn người nhái, gián điệp tìm cách xâm nhập. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại (từ 1965 - 1972), việc 17 đứa trẻ ra đời an toàn không một người nào bị thương đã nói lên sự lựa chọn đúng đắn, là sự tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây.
    Hơn thế nữa, vượt qua hoàn cảnh, họ không chỉ tồn tại mà còn tổ chức hàng trăm chuyến thuyền nan tiếp vận cho đảo Cồn Cỏ. Đảo Cồn Cỏ đứng vững và được Nhà nước tuyên dương anh hùng hai lần trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân làng hầm Vịnh Mốc.
    Đây thực sự là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc và lực lượng vũ trang. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn và luôn bị địch rình rập, đánh phá, quân dân Vịnh Mốc - Vĩnh Thạch đã đồng lòng góp sức, tổ chức khoa học hợp lý hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ.
    Với hơn 18.000 ngày công, đào và vận chuyển ra khỏi lòng đất hơn 6.000m3 đất đá, mỗi mét đường hầm thực sự là kết tinh tình cảm, trí tuệ, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân. Từ cụ già chế tác dụng cụ đến nồi nước chè xanh, bữa cơm đạm bạc của các mẹ, các chị và sức lực cường tráng của các chàng trai. Làng hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh, Quảng Trị một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
    Chiến tranh đã lùi xa, còn đó một làng hầm huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm tin, ý chí cho thế hệ hôm nay và mai sau về sức mạnh nội lực của dân tộc VN. Từ đây, tất thảy bạn bè và những người từng là "kẻ thù" đều phải thừa nhận sự thần kỳ của một đất nước, một dân tộc mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu. Có rất nhiều dòng cảm xúc về làng hầm này, tất cả đều công nhận "Làng địa đạo Vịnh Mốc giống như một toà lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất giấu kín biết bao điều kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra".
    Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bộ Văn hoá - Thông tin đã quyết định công nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt quan trọng. Hiện nay, địa đạo Vịnh Mốc là điểm thu hút mọi du khách đông nhất trong tuyến du lịch nổi tiếng và độc đáo.
    02:Đảo cồn cỏ

    [IMG]
    Đảo Cồn Cỏ


    Tượng đài san hô đỏ

    TTCN - Nhỏ nhoi như một bông cỏ Mặt Trời, những năm đánh Mỹ ác liệt, đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị) lọt thỏm giữa vòng vây quân thù… Đã bao nhiêu người hi sinh, bị giặc bắt cầm tù, đã bao nhiêu thuyền nan bị đánh đắm...
    Và trong những năm tháng ấy, trong những người cảm tử mở đường máu tiếp tế cho đảo, có ai lãng mạn với mơ mộng mà giờ đây đang ngày ngày trở thành hiện thực: Cồn Cỏ đã trở thành “Đảo thanh niên”, hàng trăm cô gái, chàng trai tình nguyện ra đảo xây cơ lập nghiệp, những tổ ấm gia đình và tiếng khóc trẻ thơ đã cất lên trên hòn đảo chỉ rộng 4 cây số vuông. Cồn Cỏ đã trở thành một hòn đảo hòa bình và du lịch, một hòn đảo lao động và dựng xây... Nhưng giờ đây ai còn nhớ đến những năm tháng chiến tranh mịt mù bom đạn ấy?
    Tôi có một suy nghĩ nho nhỏ. Các nghệ sĩ điêu khắc có làm một tượng đài ghi nhớ những người đã hi sinh vì Cồn Cỏ, có thể lấy hình tượng nhành san hô đỏ để cách điệu thành biểu tượng tôn vinh, ca ngợi lòng quả cảm, đức hi sinh và sự thanh cao, thanh khiết của lý tưởng chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Bởi vì máu của những người con gái, con trai cảm tử đã tan hòa vào đại dương mênh mông sâu thẳm, đã đọng kết trên những nhành san hô đỏ ngời, tuyệt đẹp.
    San hô đỏ là loài hiếm gặp, dân biển có khi một đời lặn lội cùng sóng gió cũng chỉ may mắn được ngắm nhìn nó đôi lần khi ôm tảng đá nặng vài chục ký gieo mình vào làn nước thăm thẳm để khám phá bí ẩn muôn vàn của đại dương. San hô đỏ là loài linh thiêng, dân biển không ai dám đem nó về trưng bày bao giờ, sợ oan hồn những kiếp người lưu lạc đời đời của biển cả trú ngụ trên những nhành hoa đó theo về quấy nhiễu. Tôi vốn dại dột và liều lĩnh nên có lần mất đúng buổi sáng hì hục ngoi lên lặn xuống dưới nước để lấy một nhành san hô đỏ độc đáo. Với những kẻ như tôi yêu biển bằng câu thơ “Anh không xứng là biển xanh” thì đây quả là một diễm phúc.
    Nhành san hô đỏ lộ ra dưới ánh mặt trời càng thêm đỏ thắm rực rỡ. Ở dưới nước, nó đã lung linh với những rong rêu và cá vàng bơi lượn. Đặt lên mạn thuyền, tiếp xúc với không khí, với gió, với mặt trời, nó nồng nàn, ngời chói hơn...
    Tôi đang say mê với những dáng nét kỳ ẩn, điêu khắc của nó, không biết nó đã bao tuổi thì ông lão ngư dân tóc bạc, chủ thuyền, nghiêm nét mặt: “Chú trả lại Ngài nhành san hô đỏ ấy đi!”. Tiếc một tạo vật kỳ khôi, tôi bướng bỉnh lắc đầu. Ông lão nói cứng: “Chú không trả, tôi thả cả chú và nhành san hô xuống biển đó!”. Tôi vội nói: “Không phải tôi mang về nhà đâu!”. “Rứa chú mang đi mô?”. “Tôi sẽ đặt nó dưới Đài tưởng niệm liệt sĩ Cồn Cỏ...”. Ông lão cười, giãn nét mặt: “Ừ, rứa thì được! Cùng là con cháu của Ngài cả!”.
    Thế rồi đúng như vậy, tôi đã không mang nhành san hô diễm tuyệt đó để có dịp “galăng” với một nàng văn khoa mộng mơ và yêu biển. Sẽ là phù phiếm quá đỗi cho những toan tính vặt vãnh ấy của tôi. Nhưng một tượng đài san hô đỏ rực cháy trên bờ Cửa Tùng hoặc trên điểm cao 63 Cồn Cỏ sẽ chẳng bao giờ là phù phiếm cả. Bởi nó sẽ lưu giữ cho đời sau những kỳ tích và chiến thắng cùng những kỷ niệm đau buồn của chiến tranh. Để cho con cháu chúng ta vài trăm năm nữa biết đến cội nguồn xứ sở đất đỏ bazan nhiều bão dông, bom đạn, có động Lòi Reng như con voi phục một ngày bắn rơi sáu tàu bay Mỹ, có “Cồn Cỏ nở đầy hoa thắng trận” và có những đoàn cảm tử đêm đêm...
    Một ngày chủ nhật năm 2003, tôi đứng trên đồi Hải Phòng - điểm cao 63, nơi ngày xưa Thái Văn A đứng gác. Gió lồng lộng, sóng biển dạt dào như vỗ nhịp cho những dãy núi mờ xa một vũ điệu trường sinh bất tử phía đất liền. Quay ống kính viễn vọng có độ phóng đại lớn thỏa thuê ngắm nhìn bến bờ Tổ quốc từ vị trí của một người lính gác, tôi chợt nhận ra bấy lâu nay tầm nhìn của mình hạn chế quá.
    Trong mắt kính, hiện lên đường chân trời mảnh như một nét mi, những con sóng trắng miên man gần như có thể với tay chạm được. Và, từ phía đồi Hà Nội bên kia, men theo chiến hào đỏ au đất đỏ bazan là bóng dáng một người quen quen đang hướng về đài tưởng niệm trên đỉnh đồi. Ai thế nhỉ? À, phải rồi, chính là ông lão ngư dân suýt quẳng tôi xuống biển hôm nào. Chợt nhớ ra tôi đã có lần nghe kể ông lão có một người con trai hi sinh năm 16 tuổi trên con đường máu năm xưa. Trên đôi tay đen sạm của ông lão lộng lẫy một nhành đỏ kiêu sa. Ôi chao, loài san hô đỏ!
    Như là người của thế kỷ sau, tôi mộng mị ngắm nhìn ông lão ngư dân già nua, khắc khổ đang hóa đá dưới chân tượng đài, và nhành san hô đỏ đang tỏa rạng trong bóng một ánh hào đỏ thắm, linh thiêng.

    03:Thành cổ Quảng Trị

    [IMG]



    Thành cổ Quảng Trị nằm ngay ở trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam.
    Đây vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945. Theo các nguồn tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (nay là Phường 2 thị xã Quảng Trị).

    Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm 1827, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành cổ Quảng trị có dạng hình vuông với chu vi tường thành là 481 trượng 6 thước (gần 2000m), cao 1 trượng 94m), dưới chân dày 3 trượng (12m). Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo,đài cao, nhô hẳn ra ngoài.

    Các cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt thành. Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính …

    Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các hoạ tiết: rồng, mây, hoa, lá …

    Đây là nơi để Vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì Thành cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn... Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người yêu nước.
    Chiến công ở Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng. Thành Cổ là nơi hy sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng. Thành Cổ Quảng Trị được bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986. Năm 1994, Thành Cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng. Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạt thành, lao xá, cổng tiền, hậu...

    Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạt thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm. Hiện nay Thành cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực: - Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom …

    Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta. - Khu phục dựng thành cổ nguyên sinh: ở phía đông bắc, thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn. - Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh, hồ nước, sân chơi … Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế.

    04:di tích lịch sử Dốc Miếu
    [IMG]


    Từ nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn xuôi về đồng bằng có 2 lựa chọn: theo đường 9 về Đông Hà, hoặc lên đường 74 xuôi về QL 1, qua dốc Miếu, thăm hàng rào điện tử McNamara, đến Hiền Lương khép lại vòng hành trình.
    Đường 74 không rộng, nhựa phủ phẳng lì chạy giữa bạt ngàn rừng cao su. Qua Gio An (huyện Gio Linh), biết chuyện bài hát ''Tiếng đàn Talư'' của nhạc sỹ Huy Thục ra đời tại đây. Quảng Trị có cao su nhờ cú ''liều mình'' của ông Lê Mậu Lộ, Giám đốc đầu tiên của Công ty Cao su Quảng Trị, nguyên Giám đốc Ty Nông nghiệp Bình - Trị - Thiên trực tiếp về thực hiện ý tưởng của mình.
    Thời bấy giờ, không ai tin nổi Quảng Trị trồng nổi cao su. Kinh nghiệm trồng cao su như người Pháp nghe đâu cũng ''thất thủ'' trên mảnh đất nắng, gió này.
    Vậy mà bây giờ ở Quảng Trị có 10.000ha cao su. Cây cao su phủ bạt ngàn huyện Gio Linh. Ở Vĩnh Linh, cây cao su được chia cho dân trồng, làm giàu nhờ thứ ''vàng trắng'' nổi tiếng của vùng Đông Nam Bộ.
    Dốc Miếu nằm trên QL 1A. Nguyên gốc, vùng này có tên Ba Dốc, vì địa hình gồm 3 con dốc liên tiếp nhau. Trước, đường qua Ba Dốc ngoằn ngoèo chạy men theo sườn dốc.
    Địa lợi đến vậy nên người Pháp khi kéo được pháo lên chiếm đỉnh cao, từng ''ngạo nghễ'' tuyên bố: "Sẽ không có viên đạn nào bắn nổi qua dốc Miếu''.
    Người bạn già đồng hành cùng tôi bảo: "Họ tuyên bố vậy mà đúng thật. Khi đánh dốc Miếu, ta phải dùng đường biển vào, vòng sau lưng dốc Miếu đánh lên''.
    Nhưng đến năm 1968, không cần dùng tới đường vòng. Pháo được kéo sát vào chân dốc Miếu. Ngay loạt đạn đầu, dập trúng kho xăng bốc cháy phừng phừng, làm tâm điểm cho pháo ta đồng loạt điểm hoả. Cùng thời gian này, căn cứ Cồn Tiên thất thủ. Gọng kìm bảo vệ hệ thống phòng ngự vỡ tan, mở rộng đường vào thị xã Đông Hà.
    Nay, dốc Miếu - Cồn Tiên lại trở thành tài sản quý trong hành trình du lịch tour DMZ của Quảng Trị. Ba Dốc giờ cũng không còn quanh co. QL 1A xẻ núi, xe cán thẳng qua Dốc Miếu, ngẩng đầu thấy tượng đài chiến thắng giao liên sừng sững ngay bên đường. Nếu khéo nhìn, vẫn thấy con đường qua dốc Miếu khi xưa giờ cắt đoạn len lỏi giữa các khu dân cư. Nhiều nơi vẫn còn nhìn thấy dấu vết đổ nhựa.
    Đổ qua dốc Miếu, đã thấy dấu vết của hàng rào điện tử McNamara vẫn còn lưu lại. Dù ngút ngàn mắt bây giờ, chỉ là màu xanh của lúa mới, của cây vừa trồng lại, của trường học, nhà dân, khu tưởng niệm mới được phục hồi dăm chục năm nay. Trên vùng đất phẳng lỳ, thẳng băng nhìn hút mắt, vẫn còn nhìn thấy dấu vết của bàn tay con người sắp đặt. Vết thương chỉ như mới vừa lành trên cơ thể đất Gio Linh, chưa thể hoàn toàn xoá sẹo.
    Khi Mc Namara quyết định xây dựng phòng tuyến kiểm soát nổi tiếng mang tên ông ta tại Việt Nam, từ năm 1959 phía bờ Nam đã bắt đầu kế hoạch tách dân, bào đất. Qua năm 1960, vành đai trắng bắt đầu phát huy hiệu lực. Một vùng đất trắng rộng 8km tính từ bờ Nam sông Bến Hải vào sát chân Dốc Miếu, kéo dài từ sát biển lên đến thượng nguồn Bến Hải bị ''bào'' sạch cây, không còn dân ở.
    Trên vùng đất bị bỏ hoang này, chỉ có mỗi cỏ năn (một giống cỏ giống thân lác dùng dệt chiếu - NV) là còn mọc nổi. Mỗi chuyển động đều bị kiểm soát. Tại mỗi căn cứ, đồn bốt được kiểm soát bằng hệ thống điện ''sờ vào là dính luôn''. Người Mỹ tuyên bố: Vùng đất bất khả xâm phạm.
    Năm 1973, hàng vạn ngày công sức dân và quân đã được huy động để ''dựng dậy'' cánh đồng trắng từ dốc Miếu trở ra. Cỏ năn phải dùng máy cắt trụi, sau đổ lên xe tải chở đi. Đất được bóc lớp bề mặt, đem đổ. Phần đất sâu được cày xới lại. Hệ thống thuỷ lợi kéo dọc ngang trên cánh đồng mới. Một kỳ công để dựng dậy sự sống trên vùng đất trắng tưởng chừng đã bị huỷ diệt.
    Bây giờ, lúa đã lại phủ xanh trên vùng đất trắng xưa. Người dân đã lại tìm về gầy dựng lại cuộc sống trên ''mảnh đất chết'' xưa. Nhưng hiển hiện, phần lớn vẫn còn những thân cây mọc thấp. Dấu vết cỏ năn vẫn xen lẫn giữa ruộng lúa xanh rì. Trường học mọc lên, bên cạnh đài tưởng niệm những người lính đã nằm xuống để thế hệ hôm nay có được sự an bình trên vùng đất cũ.

    Trường Giang - Bích Ngọc (Trích đoạn từ www.vnn.vn)

    05:Vóc dáng ''dải lụa'' Trường Sơn


    [IMG]
    Đi dọc huyền thoại
    Con đường mòn Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn là một huyền thoại trên dải đất hình chữ S. Đã gần 30 năm sau ngày đất nước thống nhất, huyền thoại Trường Sơn lại được tô đậm với con đường mà cả nước mong đợi. Nhiều người kể lại, năm 1973, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng mong đợi, đường Trường Sơn sẽ được mở rộng và kéo dài. Hơn 20 năm sau, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ký quyết định xây dựng con đường Trường Sơn công nghiệp hoá. Ông cho rằng, đường Trường Sơn sẽ hỗ trợ cho đường 1A năm nào cũng bị lũ lụt gây ngăn trở, đường Trường Sơn sẽ mở ra hướng khai thác tiềm năng kinh tế - xã hội phía Tây của Tổ quốc. Và năm tháng năm 2000, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ra lệnh khởi công con đường huyền thoại mang tên Hồ Chí Minh. Sau hơn 4 năm khởi công (4/2000), đến nay giai đoạn I của đường Hồ Chí Minh đã cơ bản hoàn thành. Công việc còn lại chủ yếu là sửa chữa và tôn tạo.
    Chúng tôi bắt đầu chuyến thực địa đường Hồ Chí Minh từ Thạch Quảng (Thanh Hoá). Cây cầu Cẩm Thuỷ sừng sững bắc qua sông Mã, điểm đầu tiên của chuyến thực địa. Trước đây khi chưa có cầu, nhân dân tỉnh Thanh qua đoạn này vẫn phải đi lại bằng phà. Từ khi khi cầu Cẩm Thuỷ nối nhịp, bà con các huyện Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Như Xuân, Thường Xuân đã không còn vất vả khi đi lại. Dọc hai bên đường Hồ Chí Minh nhánh đông từ Thạch Quảng (Thanh Hoá) đến Khe Sanh (Quảng Trị), dáng dấp của con đường xuyên Việt hiện ra với 2 làn xe chạy cùng những cầu, cống, hệ thống thoát nước, chống sụt trượt kiên cố hoá. Trên tuyến đường đã bắt gặp những khu phố, những thị tứ mới với nhà cửa san sát. Hơi thở của cuộc sống hiện đại đã tràn về hai bên đường Hồ Chí Minh, tới những bản làng heo hút dọc dải đất phía Tây xa xôi. Những đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô trên tuyến đường thuộc tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị đã bắt đầu biết mở quán bán hàng. Một thành viên trong Ban quản lý dự án đường Hồ Chí Minh cho biết, có những bản làng vùng sâu, từ khi có đường Hồ Chí Minh thì mới biết được hình dáng... cái ô tô như thế nào, được đi lại trên con đường nhựa ''nóng bỏng bàn chân'' như thế nào!
    Cách đây không lâu, đây là những vùng đất hoang hoá, khó khăn, cách trở, điện-đường-trường-trạm đều kém. Nay được ''dải lụa Trường Sơn'' vắt qua, những công trình, những nét văn minh đã về tới gần 200 xã đặc biệt khó khăn ở vùng xâu, vùng xa của đất nước. Con đường Hồ Chí Minh công nghiệp hoá cũng sẽ là tiền đề cho việc phát huy mọi nguồn lực ở địa phương. 10 triệu ha đất trồng cây công nghiệp dọc tuyến sẽ được quy hoạch lại. Các địa phương đã chuẩn bị dự án về các khu công nghiệp, đô thị, vùng nguyên liệu để xoá đói giảm nghèo, để tận dụng đất đai và nguồn nhân lực. Các làng thanh niên lập nghiệp dọc tuyến đường đã được thành lập và bắt đầu có hiệu quả. Đặc biệt, khi con đường Hồ Chí Minh mở ra, hệ thống tài nguyên gồm rừng, khoáng sản, thuỷ điện, thuỷ lợi... dọc dải miền Tây của Tổ quốc sẽ biến thành cơm, thành áo cho đồng bào 28 triệu dân thuộc 36 trên 54 cộng đồng dân tộc Việt dọc tuyến.
    Đồng hành chuyến thực địa với chúng tôi là bà Lê Minh Châu, Phó Tổng Giám đốc Ban quản lý dự án đường Hồ Chí Minh. Bà Châu cho biết, trong quá trình thi công các tuyến đường giai đoạn I, trong hàng triệu tấm lòng mong ngóng về con đường huyền thoại này thì có 2 người luôn dành sự quan tâm đặc biệt nhất. Người thứ nhất là nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người ký quyết định xây dựng đường Hồ Chí Minh. Từ khi khởi công đến nay, ông luôn theo dõi sát sao những tin tức từ Trường Sơn. Khi tuyến đường Hoà Lạc- Ngọc Hồi đã cơ bản xong, ông về thăm Trường Sơn, đi trên đường Hồ Chí Minh rộng thênh thang, rải nhựa phẳng lỳ ông liên tục vỗ đùi đắc chí: ''Đã quá! Đã quá!''.
    Người thứ hai là Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên. Ông từng là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Trường Sơn mở ra con đường mòn Hồ Chí Minh, nay ông là đặc phái viên của của Thủ tướng. Từ khi con đường chính thức được khởi công đến ngày hoàn thành cơ bản đoạn Hoà Lạc- Ngọc Hồi, vị tướng già Trường Sơn liên tục về thăm và sát sao kiểm tra từng công đoạn. Cả thời chiến tranh ông gắn bó với con đường mòn lịch sử, đến lúc về già ông vẫn một lòng đau đáu với con đường công nghiệp hoá mang nhiều ý nghĩa này.
    Lãng mạn Trường Sơn Tây
    Điều may mắn nhất đối với chuyến thực địa của chúng tôi là đường Hồ Chí Minh nhánh Tây đã hoàn thành. Thật không thể hình dung nổi, con đường mòn chỉ toàn cỏ dại, suối sâu, đèo cao và mây mù thời chiến tranh nay đã là con đường Tây Trường Sơn bằng bê tông uốn lượn vắt vẻo qua từng dãy núi phía Tây tổ quốc. Chúng tôi bắt đầu đi nhánh Tây từ địa danh một thời khói lửa Khe Sanh trở về ''hang tám cô'' linh thiêng trên ''đường 20 quyết thắng'' ở Quảng Bình. Gần 200km đường lúc ẩn trong sương mù Trường Sơn, lúc hiện ven đường biên giới nước bạn Lào. Và trên chặng đường ngắn ngủi Tây Trường Sơn nối Đông Trường Sơn ấy, chúng tôi cũng kịp ghi lại những lắng đọng khi được du hành dọc theo con đường huyền thoại.
    Người gây ấn tượng nhất đối với cả đoàn chúng tôi là anh Trương Thiếu Dư ở Công ty Lũng Lô thi công một đoạn trên tuyến đường Trường Sơn Tây. Ngay đến cả cái tên của anh cũng lạ lẫm làm người ta tò mò. Họ Trương, đã Thiếu còn lại Dư. Anh là chỉ huy công trình của một công ty hàng đầu cả nước về thi công những công trình giao thông trên địa bàn hiểm trở, phức tạp. 4 năm nay, từ khi dấu chân của công nhân Lũng Lô đặt trên đường mòn Hồ Chí Minh nhánh Tây đúng nghĩa, anh đã làm người ta nhắc đến nhiều nơi miền rừng heo hút Trường Sơn Tây. Là một chỉ huy công trình nhưng Trương Thiếu Dư biết làm thơ, làm nhạc, làm ca sĩ. Bên cạnh khối lượng công việc đồ sộ của người chỉ huy, từng đêm Trương Thiếu Dư đã giành hẳn cho mình một khoảng lặng để du ca theo tiếng thơ, tiếng nhạc, tiếng hát giữa ngút ngàn Trường Sơn. Anh đã làm rất nhiều thơ, nhiều nhạc về Trường Sơn. Thành tựu cầm tay cho đến lúc này của anh là một đĩa nhạc, hàng trăm bài thơ và những ca khúc trữ tình về Trường Sơn trong bộ phim tài liệu về công nhân Lũng Lô thi công nhánh Tây.
    Trung tá Trương Thiếu Dư cùng đi với chúng tôi lên đỉnh Sa Mù, một trong những nơi đặc biệt nhất của nhánh Tây. Giữa mịt mùng mây gió Trường Sơn, anh hát, đọc thơ tự nhiên mà say sưa. Chất giọng Quảng Bình ấm nóng ngân vang giữa đỉnh Sa Mù. Đoạn đường này đơn vị anh đã thi công rất vất vả. Mỗi năm Trường Sơn Tây mưa đến 6 tháng. Những tháng còn lại là mây mù. Khi thi công đứng cách vài mét đã không nhìn thấy mặt nhau. Ngày xưa khi công ty Lũng Lô mới tiếp quản, đi từ thị trấn Khe Sanh lên Sa Mù mất đúng 1 ngày đường cho 4,5 cây số. Bây giờ vừa đi vừa... ngắm mây cũng chỉ mất hơn 1 tiếng đồng hồ. Và cũng chính đỉnh Sa Mù cao 1.050m này, công nhân Lũng Lô đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi. Do địa chất phức tạp, mặc dù được khảo sát kỹ càng nhưng đoạn này vẫn khó thi công, khi làm xong thì lại sụt trượt. Thế là khi làm xong đỉnh Sa Mù, anh vận công việc vào thơ: ''May mà chỉ một Sa Mù- Mà ta với Bộ đã ù cả tai''. Nhưng nói đến Trương Thiếu Dư, điều mọi người thú vị nhất là sau khi tuyến đường nhánh Tây hoàn thành, anh có lẽ thành người... ký nhiều nhất Việt Nam. Là một chỉ huy công trình, anh phải ký đến 8.000 chữ ký.
    Chúng tôi được nghe chính chị Lê Minh Châu, Phó Tổng Giám đốc BQL dự án đường Hồ Chí Minh và các lực lượng thi công kể nhiều về chuyện tâm linh ở dọc rải Tây Trường Sơn. Thượng tá Hà Văn Choang của công ty Lũng Lô kể. Khi các anh thi công đến đoạn đường rẽ đi Lào mà ngày xưa bộ đội Trường Sơn mượn đường trên đất bạn, gặp một mỏm đất rất bình thường mà tất cả các loại máy móc của công ty có đều không thực hiện được. Có dịp đi qua nghĩa trang Trường Sơn, các anh đã thắp hương xin vong linh đồng đội ''giúp đỡ''. Về thực địa anh lại tục thắp hương. Thật diệu kỳ, mỏm đất đã ''cho phép'' thi công. Và trong quá trình làm, đơn vị tìm được 4 hài cốt. Hiện nay 4 hài cốt đã được quy tập tại nghĩa trang Trường Sơn.
    Không chỉ công ty Lũng Lô, nhiều đơn vị khác thi công tuyến đường Tây cũng gặp phải chuyện tương tự. Vì thế, cứ mỗi lần đặt nhát khoan đầu tiên xuống con đường huyền thoại này, các đơn vị đều có nén nhang thắp cho những linh hồn đồng đội còn lưu lạc đâu đó dọc dãy Trường Sơn. Chị Lê Minh Châu tâm sự, với BQL dự án đường Hồ Chí Minh, mỗi lần đi qua ''hang tám cô'', nghĩa trang Trường Sơn hay những địa danh nổi tiếng trong chiến tranh họ đều có chút lòng thành kính dâng. Điều này đã trở thành nét ứng xử đối với mỗi cá nhân tham gia xây dựng, thi công nhánh Tây nói riêng và cả tuyến đường Hồ Chí Minh nói chung.
    Gắn bó với tuyến đường Hồ Chí Minh từ khi khởi công đến nay, có một điều đặc biệt chị Lê Minh Châu đã đúc kết. Đó là rất nhiều người tham gia xây dựng, thi công tuyến đường huyền thoại này... được lên chức, riêng các đơn vị ở tỉnh Nghệ An đã là 30 người. Anh hồn những chiến sĩ hy sinh dọc tuyến đường mòn mang tên Bác đã phù hộ cho họ? Đó là một điều may mắn, nhưng ý nghĩa...

    06:Trò chuyện với Hiền Lương

    [IMG]
    Cụm di tích đôi bờ Hiền Lương



    (VietNamNet) - Hai chiếc cầu Hiền Lương cùng in bóng mình xuống dòng Hiền Lương, trong bóng nước không thể phân biệt đâu là cầu bê tông đâu là cầu bằng sắt. Cả hai bóng hai cầu đều xao động trong sóng nước, cùng chụm đầu vào phía bờ Bắc thành hình chữ V đậm nét... Tôi đang đứng ở Hiền Lương, tháng Tư năm hai ngàn lẻ năm.
    …Bên ven bờ Hiền Lương, chiều nay ra đứng trông về, mây lặng lờ trôi... Phải, đến bây giờ, sau hơn bốn mươi năm kể từ ngày nhạc sĩ Hoàng Hiệp ôm cây đàn măng-đô-lin hát bài Câu hò bên bến Hiền Lương nổi tiếng, mây vẫn lặng lờ trôi...
    Những áng mây tinh khôi phiêu bồng như những bóng thuyền trôi bất tận giữa bầu trời tháng Tư, tôi thấy lòng mình nôn nao hoài niệm. Nỗi hoài niệm bé con của tôi ấy chắc cũng chỉ là một nét trầm tư của người lính nơi tượng đài Người lính giữ cầu Hiền Lương hôm nay. Chỗ ấy ngày xưa là nền móng cũ của Nhà liên hợp được xây dựng trong mong muốn thống nhất hai miền Nam - Bắc theo tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954.
    “Nhà liên hợp” không được dùng đến vì âm mưu chia cắt đôi bờ vĩnh viễn của Mỹ, Diệm. Thế là người Việt Nam đành phải làm cuộc kháng chiến trường kỳ suốt hai mươi mốt năm thống nhất Tổ quốc. Sau ngày toàn thắng, có đám rước dâu qua cầu Hiền Lương, nhà thơ Cảnh Trà đã rung động mà viết lên một bài thơ dài:
    “...
    Cầu vừa mới bắc xong, sơn còn tươi roi rói
    Đôi bờ xanh lúa mới đã ngậm đòng
    Nhìn hai họ qua cầu mà nước mắt rưng rưng
    Mà sung sướng vui như đàn trẻ nhỏ
    Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa Cam Lộ
    Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau
    Gió lâng lâng sóng vỗ chân cầu
    Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái
    “Bước đến Hiền Lương sao chặng đường nghẹn lại
    Đáo tới bờ Bến Hải sao gác mái tình duyên...”
    Đám cưới hôm nay cũng tự nhiên như là hoa, là lá
    Như là chị lấy chồng như là tôi lấy vợ
    Mà hay chưa bỡ ngỡ như chiêm bao
    Tôi nhìn sông, nghe sông chảy rì rào...”.

    Tôi nhìn sông, sông vẫn chảy rì rào... Không biết từ thế kỷ XI xa xưa, khi Lý Thường Kiệt ruổi ngựa vào Nam vẽ bản đồ Đại Việt nơi miền địa đầu Tổ quốc, Người đã lội qua sông Hiền Lương ở quãng nào? Thuở ấy, sông có như bây giờ, có rì rào những gợn sóng con bé nhỏ, theo đầu ngọn Nồm, ngọn Nam mát rượi từ Cửa Tùng dào dạt vờn lên? Nhưng từ thuở ấy, sông Hiền Lương đã chính thức nằm ngoan hiền trong bản đồ nước Đại Việt, một dòng sông nhỏ, gầy... Tôi dám chắc điều ni, là khi Người đưa nét vẽ cuối cùng lên tấm lụa điều tạc hình hài dòng Hiền Lương, thì Người cũng không thể ngờ rằng trong nhiều thế kỷ nữa, dòng sông nhỏ gầy nớ phải đắm mình trong nhiều cơn binh đao lửa khói, máu người nhuộm đỏ cả dòng sông...
    Đến thế kỷ XVII, thời Trịnh, Nguyễn phân tranh, sông Hiền Lương lại trở thành chiến trường loạn lạc. Vợ mất chồng, mẹ mất con, giáo gươm rơi đầy nẻo đất. Bi thương!...
    Nhưng còn bi thương hơn, là cuộc chiến tranh cuối thế kỷ XX, sông Hiền Lương thành vết dao chia cắt, bao nhiêu gia đình tan hoang, bao nhiêu người nằm xuống. Người Việt đau đớn, đau đáu bờ bên ni trông qua bên tê bờ Hiền Lương...
    Tôi lớn lên khi cuộc chiến tranh tàn khốc ấy đang vào hồi kết thúc. Người Việt đã qua sông trong một đêm không trăng năm 1973, trên chiếc cầu phao bộ đội công binh bắc tạm. Bấy giờ, Hiệp định Paris đã có hiệu lực, giới tuyến quân sự tạm thời được dời chuyển vào sông Thạch Hãn, cách Hiền Lương 35 km, ngăn cách một bên là Chính phủ cách mạng Miền Nam, một bên là chế độ Sài Gòn. Dĩ nhiên, khi đó tôi vẫn là một công dân bé nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người qua sông nhiều quá, tôi mở to đôi mắt bé con nhìn qua vai áo mẹ tôi đang bế mà ngắm nhìn từng đoàn người, đoàn xe màu xanh lá cây, những khẩu pháo nòng dài nườm nượp qua sông. Khi đó tôi chẳng hiểu gì đâu, nhưng kỷ niệm đã khắc vào trí nhớ ngây thơ của tôi. Tôi cũng không thể ngờ rằng những chiếc trụ cầu bê tông còn sót lại giữa lòng sông ấy từng nâng đỡ một chiếc cầu sắt Be-lây giản dị. Trên cầu có 894 miếng ván; giữa cầu có vạch sơn trắng rộng 1cm. Vạch sơn ấy, hiểu theo nghĩa hình ảnh, chính là vĩ tuyến 17 chạy qua! Hơn hai mươi năm để người Việt vượt qua một dòng sông nhỏ gầy, chỗ rộng nhất chưa đến 200m; hay bước qua vạch sơn trắng oan nghiệt này?...
    “Trong những ngày xuống đường tranh đấu đòi thống nhất hai miền của phong trào học sinh, sinh viên Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có lần cùng bạn hữu đã bơi ra giữa dòng Hiền Lương, ôm lấy trụ cầu, uống một ngụm nước rồi hét to: “Hoà bình cho Việt Nam! Hoà bình cho Việt Nam!”. Rồi sau đó, Hoàng trở về Huế, nhảy rừng làm kháng chiến... Cùng thời đó ở bên bờ Bắc có ông nhà văn Hà Nội là Nguyễn Tuân lặn lội từ núi rừng Tây Bắc, mỏ than Quỳnh Nhai, đảo Cô Tô tuốt thẳng vào Vĩnh Linh. Nhấm một hạt tiêu cay nồng, Nguyễn đi khắp “Khu phi quân sự” gặp những bà mạ, những o, những eng, những đồng chí bộ đội giới tuyến mà hỏi chuyện mà ghi chép. Rồi sau đó, Nguyễn đã cống hiến cuộc sống những trang văn chất đầy nỗi hờn căm ngùn ngụt vào cái thằng Mỹ thằng Diệm đang tâm chia cắt đôi bờ, xót xa lắm lắm cho cây cầu Hiền Lương tội tình chi mà nỏ có bóng người qua lại?”.
    Kể với sông Hiền Lương của tôi câu chuyện này, vì những bậc ký tài ba Hoàng, Nguyễn từng kể về sông rất nhiều, đã gây vô vàn là rung động trong muôn người... Còn với sông, có khi sông nỏ nhớ mô! Nhìn sông vô tâm thế kia, lấp lánh, bàng bạc trong những đêm trăng muối... Đấy là thứ ánh trăng đẫm hơi muối từ biển Cửa Tùng phả lên, trộn lẫn vào những sương mơ, dịu dịu trên gương mặt sông. Còn thứ muối hoa (chữ của Nguyễn Tuân) trên những cánh đồng muối Di Loan xưa nữa, vẫn còn bảng lảng trên Khu phi quân sự xưa không tan đi, không tan... Đồng muối Di Loan chừ chỉ còn trong nỗi nhớ, nhưng còn cái ánh hoa muối rực lên dưới nắng, cái hơi hoa muối còn bảng lảng trong đêm sâu thấm lên đầu lưỡi, thì e đấy chính là vị máu! Đồng muối Di Loan sát ngay cạnh Bến đò “B”. Bến đò này trong những năm chiến tranh là nơi tiễn người Việt qua sông vào Nam chiến đấu. Người đi không trở lại... người thì qua, có người không qua nổi một lần đò mà hi sinh ngay tại bến sông. Nhiều lắm! Dân làng Di Loan cặm cụi lấy nước sông Hiền Lương, nước biển Cửa Tùng mà làm muối. Nước đã thấm máu rồi làm sao gạn được? Thế là cái chất máu của bao người trai trẻ đã theo vào hạt muối trắng trinh trong... Đến chừ dù đồng muối Di loan đã bị chiến tranh tàn phá không còn, nhưng những tính chất đặc biệt của loài muối hoa Di Loan đó thì vẫn còn, vẫn vương vấn trong không gian “Khu phi quân sự” khi xưa. Tôi nhớ đến Long, người bạn của tôi đã hy sinh ngoài biển Trường Sa năm 1989. Sau khi Long hi sinh, mỗi lần tôi ra biển, bỗng dưng lại nhớ đến Long, thấy nước biển xanh mà nghi ngờ, không thật lắm vì dù răng đi nữa biển Đông cũng thấm thêm giọt máu Long rồi... Long, chính là trai làng Di Loan đó...
    Chuyện Long hi sinh ngoài Trường Sa, e rằng sông không biết? Cũng chẳng có gì lạ đâu, hồi chiến tranh khốc liệt người Vĩnh Linh giới tuyến đã trằn lưng mà gánh chịu đạn bom. Tính ra mỗi đầu người "lĩnh" tám tấn bom đạn các kiểu. Rồi người Thanh, người Nghệ... đã từng vô đây chung nỗi gian truân. Chiều ăn vội bát cơm độn sắn độn khoai, đêm vượt sông vô Gio Linh, Cửa Việt đánh đồn giặc. Nhanh thì sáng hôm sau trở về; chậm thì phải vài ba ngày nhưng chẳng bao giờ về đủ. Hẳn là có người đã nằm lại, chỉ thương bác lái đò, o giao liên chở quân đi quân về lần mô cũng hỏi: "Răng mà chỉ còn chừng ni chú thôi, hả?". Lần mô cũng hỏi rứa thôi mà không ai trả lời được. Ôi chao, có khi những hi sinh thật cần thiết, thật lớn lao nhưng sao khó trả lời! Họ nhìn vào sông đấy... Chuyện ni thì sông nhớ... Rồi đến cái năm đó chộn rộn ngoài Trường Sa, máu Việt lại đổ ngoài Trường Sa thì Long bạn tôi đã anh hùng nằm xuống. Bạn tôi hoá thân vào biển cả thì cũng giống như người Vĩnh Linh hoá thân vào đất đỏ ba-zan, tất cả để cho xứ sở mình mặn mòi một thứ muối chiết ra từ máu. Để cho người ta mỗi khi đến đây, đi trên đất này, thấy cái bàn chân nó nóng rẫy lên, rằng, đến gieo trồng, xây nhà dựng cửa thì được chớ đừng đem gươm giáo vào cắm xuống, sẽ không yên!".
    Một thời gian dài tôi sống trên biển Cửa Tùng, tức là nơi cái Vĩ tuyến 17 bắt đầu chạm vào Biển Đông. Nhà tôi ở nằm ngay trên nền móng cũ của Đồn Liên hợp Cửa Tùng, đối diện với đồn cảnh sát Cát Sơn bên bờ Nam xưa. Từ chỗ tôi nhìn qua bên nớ mỗi sớm thấy trắng cát và dương thuỳ đương xanh. Dân Cát Sơn đi chợ Do đứng đợi đò nơi cái lưỡi cát dịu dàng đằm thắm: "Chao, răng mà cái móng cửa năm ni dài ra dữ rứa, hè?". Móng cửa chính là cái lưỡi cát, doi cát dịu dàng đằm thắm đó. Mỗi mùa nó lại khác, thành ra cửa sông Hiền Lương lúc rộng lúc hẹp. Cái lưỡi cát dịu dàng ni từng đã in nhiều dấu chân của người lính hai miền sang thay phiên gác ngày xưa theo quy chế "Khu phi quân sự". Rồi ông nhà văn Nguyễn Tuân đã nhìn thấy cảnh này: "Mỗi ngày nước thuỷ triều biển Cửa Tùng dâng lên, lại xoá đi những vết chân hai người lính hai chế độ in dấu trên cát sông của cả hai bờ". Thiên nhiên vô tư, rộng lượng và nhân từ đã mặc nhiên xoá đi... Đấy chính là ý nguỵên của thiên nhiên! Ý nguyện của thiên nhiên, suy cho cùng là ý nguyện của Nhân Dân! Ý nguyện của Nhân Dân có khi, có lúc vào một thời khắc lịch sử chỉ giản dị là một dòng sông nhỏ gầy, chảy vô tâm giữa hai bờ đất đai xứ sở, và đừng ai bận tâm...
    Ở đảo Cồn Cỏ vào ngày trời trong, buổi chiều ngắm vô đất liền Cửa Tùng thấy sông nhuốm màu hoàng hôn đỏ thắm; rồi nghĩ rằng nếu con thuyền nào ra biển lúc ấy, hẳn sẽ được tắm một màu đỏ ý nghĩa. Chỉ là là một vết đỏ mảnh mai nơi đường chân trời nhưng đã cho tôi hình dung trong bao thế kỷ, hôm nay và mai sau cái vết đỏ ấy sẽ mãi mãi tồn vinh không tan được, cùng với hơi hoa muối đồng Di Loan, không tan được, cùng với những giọt nước mắt khổ đau của người hai bên bờ Hiền Lương.
    Hai bên bờ Hiền Lương là đất đai nước Việt Nam. Hai bên bờ Hiền Lương có người mẹ nghèo đêm đêm trong căn hầm kèo tăm tối, bên ánh sáng mờ đỏ quạch chiếc đèn dầu hoả, mẹ ngồi vá cờ Tổ quốc. Lá cờ Tổ quốc rộng 108 mét vuông, nặng lắm, sức mẹ đã già, tay mẹ đã run... Thế mà đêm đêm mẹ cứ miệt mài chăm chỉ cho Tổ quốc vẫn nguyên lành trên đỉnh cột cờ cao 34,5 mét, nơi đầu cầu giới tuyến, cho đồng bào bên nớ mỗi sớm ra sông gánh nước nhìn sang thì thấy miền Bắc gần lắm, Cụ Hồ gần lắm và cái ngày thống nhất là không thể khác, không thể không đến! Để cho bọn địch thấy rằng bom đạn của chúng là không thể nào huỷ diệt nổi... Tên mẹ là Nguyễn Thị Diệm ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành. Mẹ giờ đã không còn... Năm 1992, sức lực cạn kiệt, mẹ dặn con cháu: "Tau chết, bay cho tau nằm ngoài Cồn, chỗ nớ trống trải... Khi mô Nhà nước xây lại Cột cờ Hiền Lương, tau nhìn...”. Mẹ Diệm đã được con cháu đặt nằm ngoài Cồn, đúng như ý nguyện của mẹ, nhưng còn lá cờ to hơn trăm mét vuông thì xin mẹ lượng thứ, xin mẹ chờ thêm một thời gian nữa dù là đã quá muộn màng... Khi mô xây xong cụm di tích - tượng đài Cầu Hiền Lương, mẹ sẽ thoả lòng mà ngắm lá cờ to đúng bằng lá cờ ngày xưa của mẹ... Bóng cờ đỏ thắm sẽ trải đến nơi mẹ nằm, bóng cờ sẽ in xuống dòng Hiền Lương. Mẹ hãy tin là như thế, bởi đó cũng là một ý nguyện của Nhân Dân, mẹ nờ...

    Tháng Tư này đã tròn 30 năm Tổ quốc toàn vẹn thống nhất từ Bắc chí Nam. Xe qua cầu Hiền Lương mới hôm nay chỉ mất cỡ chục giây đồng hồ, phóng thẳng không cần giảm tốc độ. Cầu Hiền Lương mới được khánh thành tháng Tư năm 1999, là chiếc cầu hiện đại, thi công bằng công nghệ đúc đẩy, mặt cầu rộng thênh thang, phẳng lỳ. Ban đêm đèn cao áp sáng bừng một khúc sông. Tôi được biết trong số thợ cầu có những người từng đi B, từng vượt sông Hiền Lương ở một quãng sông nơi thượng nguồn, hạ nguồn trong những đêm chiến tranh. Thật tiếc đã không gặp được họ để hỏi han, trò chuyện rồi ngắm chiếc cầu Hiền Lương màu trắng đang vươn qua dòng sông như một cánh tay người Việt. Và bên đó, vẫn còn im lìm chiếc cầu sắt “Be-lây” thương nhớ bùi ngùi, vừa được phục hồi nguyên dạng chiếc cầu cũ năm xưa. Hai chiếc cầu cùng trên một khúc sông, chỉ cách nhau vài mét. Hai chiếc cầu Hiền Lương cùng in bóng mình xuống dòng Hiền Lương, trong bóng nước không thể phân biệt đâu là cầu bê tông đâu là cầu bằng sắt. Cả hai bóng hai cầu đều xao động trong sóng nước, cùng chụm đầu vào phía bờ Bắc thành hình chữ V đậm nét...
    Trời trưa tháng Tư nắng gắt, gió Lào thổi về ngùn ngụt từ Trường Sơn, vậy mà vẫn có đoàn xe hoa lộng lẫy qua cầu. Đám cưới mùa này e là vất vả, nhưng tình yêu thì kể gì năm tháng? Lại nhớ đến đám cưới xưa cách xa đúng 30 năm, đám cưới mà nhà thơ Cảnh Trà đã tình cờ theo dòng đưa dâu ấy... Trong bao nhiêu năm, bao nhiêu đám cưới qua cầu? Tôi ước ao chi giờ được gặp lại họ, chàng trai Gio Linh và cô gái vùng Cùa ấy, để biết bây chừ họ sống ra sao, chắc là hạnh phúc?
    Và tôi nhớ đến cái đám cưới cách chúng ta mười thế kỷ, nàng Huyền Trân biền biệt ra đi, để lại vùng đất Ô, Lý hiểm trở, dằng dặc nhớ thương nơi địa đầu Tổ quốc. Chao ôi, lịch sử đã bắt đầu bằng một câu chuyện tình...
    minhvip.qtn<changtraidacam_leminh5690.>
    07:biển cửa tùng
  2. ducvuong25 Thành viên

    1 phiếu cho thành cổ Quảng Trị, một nơi mà cả nước ko ai ko biết đến cùng với sông Thạch Hãn. Trong các địa danh trên em mới đi có Thành Cổ thôi :d
    pé_như and Minhvip like this.
  3. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Điểm du lịch đẹp nhất vẫn là về ngâm mình trong nước biển Cửa Tùng ăn uống no say sau đó đi thăm quan địa đạo Vịnh Mốc là lý tưởng nhất
    1 phiếu cho:01 Địa đạo Vịnh Mốc và biển Cửa Tùng
    pé_như likes this.
  4. doanlong Thành viên

    Bình chọn? Bạn phải đưa ra được tiêu chí, mục đích của việc bình chọn chứ bạn chỉ mới giới thiệu như vậy thì làm sao mà bình chọn?
    Cảm ơn bạn vì đã có công sưu tầm 1 bài giới thiệu rất hay về các địa danh của QT, cố gằng phát huy nhé
    pé_như and Minhvip like this.
  5. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Cảm ơn đã góp ý..... mình sẽ sửa lại
  6. pé_như Thành viên

    Địa danh nào cũng nổi tiếng hết mà anh ^^!

    E cũng bầu 1 phiếu cho Thành Cổ Quảng Trị

    Vị trí


    Thành Cổ Quảng Trị nằm ngay ở trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam.

    Đây vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945. Theo các nguồn tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (nay là phường 2 thị xã Quảng Trị).


    Kiến trúc
    Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm 1827, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành Cổ Quảng Trị có dạng hình vuông với chu vi tường thành là 481 trượng 6 thước (gần 2000m), cao 1 trượng 94m), dưới chân dày 3 trượng (12m). Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo, đài cao, nhô hẳn ra ngoài. Các cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt thành.

    Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính … Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các hoạ tiết: rồng, mây, hoa, lá… Đây là nơi để vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm.

    Lịch sử

    Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì Thành Cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn... Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người yêu nước.

    Thành Cổ Quảng Trị còn được thế giới biết đến và kính phục bởi cuộc đấu tranh anh dũng để bảo vệ Thành Cổ suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị

    Hai phần ba tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng vào đầu năm 1972 là sự quyết định thắng lợi tại bàn Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì vậy, để làm thay đổi hội nghị, Mỹ - ngụy đã âm mưu huy động tối đa lực lượng và phương tiện nhằm tái chiếm thị xã Quảng Trị mà trong đó mục tiêu đánh phá hàng đầu là Thành Cổ.

    Tại thị xã nhỏ bé chưa đầy 2Km2 này, địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 - 170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần máy bay B52, 12 - 16 tàu khu trục, tuần dương hạm, 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn...

    Chỉ trong vòng 81 ngày, Mỹ- ngụy đã ném xuống đây gần 330.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945. Riêng ngày 25/7, chúng xả vào Thành Cổ hơn 5000 quả đại bác.

    Trước cuộc tấn công cực kỳ dã man đó, quân và dân ta dù số lượng không đông (các đơn vị của sư 320, 308, 325 là chủ yếu) song với ý chí quyết tâm cao độ, tinh thần chiến đấu kiên cường đã đánh địch bật ra khỏi Thành Cổ và cả thị xã mà có khi "mỗi mét vuông đất là cả một mét máu".

    Chiến công ở Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng. Thành Cổ là nơi hi sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng.

    Thành Cổ Quảng Trị được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986. Năm 1994, Thành Cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.

    Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạn thành, lao xá, cổng tiền, hậu...

    Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạt thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm.

    Hiện nay Thành Cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực:

    - Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom… Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta.

    - Khu phục dựng Thành Cổ nguyên sinh: ở phía Đông bắc, thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn.

    - Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh, hồ nước, sân chơi,...

    Thành Cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế
    doanlong and Minhvip like this.
  7. boys_dongha Thành viên

    Bình Chọn cho Địa Đạo Vịnh Mốc
  8. lovesong's Thành viên tích cực

    Vote cho con đường Hồ Chí Minh
    Thích con đường này :)
    Dài vô hậu :)
    Còn có thể ghé vào thăm nghĩa trang Trường Sơn nữa :d
    pé_như likes this.
  9. s.a.m_xynh Thành viên

    Chẳng có cái nào được cả, cái nào cũng có điển đặc biệt riêng hết:( Quảng Trị ơi là Quảng trị :))
  10. L-Pi* Thành viên

    Em thích biển, em yêu biển
    Em chọn Địa đạo vĩnh mốc
    E chưa đi địa đạo bao giờ, toàn đi biển
    Đi biển với n.y thật là tuyệt :">~
    Em yêu biển ^^
    pé_như and Minhvip like this.
  11. RedSun Thành viên

    Cái nào cũng đẹp nhưng nếu phải chọn 1 thì chọn biển cửa tùng nha
    @ minhvip: nên mở cái chức năng bình chọn của diễn đàn lên cho khoẻ.
    pé_như and Minhvip like this.
  12. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Nhanh tay bỏ phiếu bình chọn nào?
  13. -T- Thành viên

    E chỉ mới thấy cầu Hiền Lương 1 lần, Thành cổ 1 lần...
    còn lại chưa thấy lần mô :(
    Mọi người bình chọn... cái mô đứng thứ 1 thì hè về em đi coi :d
  14. cohuyendieu Thành viên

    Đảo Cồn Cỏ 1 phiếu .1 địa điểm câu cá mú lý tưởng.
    Nhớ nhửng đêm đi bắt cá nhảy ,ốc ,thả lưới.Thỉnh thoảng đi bắt cua đá
    Hy vọng hè này lại ra đảo chơi
    Ai mà đi ra đảo nhớ rủ mình với nha
    pé_như likes this.
  15. glass Thành viên

    Răng mà không có biển Cửa Việt hè ! Những năm trước ngoài Biển Cửa Việt được UBND tỉnh, sở du lịch chọn làm 1 trong 3 điểm cho lể hội nhịp cầu xuyên á.
    Hiện nay, biển Cửa Việt đang được tiến hành xây dựng với quy mô lớn.Chắc chắn sẻ là điểm du lịch lý tưởng cho mùa hè năm nay. cảm ơn!
    pé_như likes this.
  16. lenam Thành viên

    Quảng Trị miềng có rất nhiều địa danh di tích lịch sử - văn hóa truyền thống dân tộc ! mặt dù mỗi một nơi có những đặt biệt khác nhau ! nhưng chung qui tạo nên sự phong phú - đa dạng của văn hóa - con người trên mảnh đất Quảng Trị ! Theo mình nghĩ ! việc bình chọn cung rất khó ! khó ở chỗ: có nhiều bạn chưa biết đến những địa danh - và chưa từng đến tham quan !
    Còn việc để giới thiệu Quảng Trị miềng đến với các tỉnh thành trong nước ! xin góp chút ý kiến - nếu có gi sai thi các bạn bỏ qua ! Mỗi danh lam hay di tích ! nên post tửng cái cụ thể - thêm nhiều hình ảnh về địa danh đó ! và nêu những điểm nổi bật của từng địa danh ( lịch sử - văn hóa - con người - kinh tế - ẩm thực - nghề truyền thống ,...)
    pé_như and Minhvip like this.
  17. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Bạn góp ý rất đúng nhưng vì nhiều điểm du lịch quá nên pots chừng này thui có j sai sót mong các bạn thông cảm
  18. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Bình chọn đi các bạn.........?
  19. duongcongtinh Thành viên

    vote cho cửa tùng và cồn cỏ.về cửa tùng nhậu thôi ace ơi
  20. Vi1Nguoi Thành viên

    alo thiêu địa điẻm du lich rùi ! đề nghị quản lý post này thêm Trằm Trà Lộc nữa . Một địa điểm đẹp thế mà không đưa vào danh sách bình chọn ah , đáng tiết quá .

Share This Page