[Quảng Trị]Ước mơ của người dân quê tôi

Thảo luận trong 'QUẢNG TRỊ' bắt đầu bởi Minhvip, 28/4/11.

  1. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    (QT) - Vĩnh Sơn (Vĩnh Linh, Quảng Trị), cũng như một số xã hai bên bờ sông Hiền Lương, trong những năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bị tàn phá nặng nề. Sau chiến tranh, người dân nơi đây tập trung mọi sức lực, trí tuệ của mình vào hàn gắn vết thương chiến tranh. Chỉ một vài năm, màu xanh dần trở lại trên từng cánh đồng, bờ bãi. Nói vậy thôi nhưng để có một cuộc sống tương đối hơn một chút thì phải mất vài chục năm.

    Bây giờ, một số con đường làng đã được bê tông hóa, trục đường chính từ thị trấn Hồ Xá về trụ sở xã mãi đến năm 2010 mới được rải nhựa. Dù hơi muộn một chút, nhưng dẫu sao cũng đã được hoàn thành, tạo thuận lợi cho việc đi lại, lưu thông hàng hóa trong vùng. Có được con đường mới, người dân quê tôi mừng lắm, thế là từ nay đến mùa mưa lũ, dân quê tôi khỏi phải đường xa lầy lội, học sinh đi học trường huyện khỏi phải tay xách cặp, tay xách dép như trước nữa...

    Người dân quê tôi được cái thật thà, chất phác. Người đầu thôn biết người cuối thôn, thậm chí những người lớn tuổi họ biết bà con cả xã. Nếu có khách lạ đến tìm, chỉ cần hỏi người già thì họ sẽ chỉ cho, không cần phải nhọc công tìm kiếm. Trước đây, ban đêm quê tôi ngủ không cần đóng cửa, xe đạp, cuốc, cày vẫn cứ để giữa sân chẳng phải lo mất.

    Trong làng có người mất hay ốm đau, bệnh tật mọi người đều có mặt thăm nom. Dù nhà rất nghèo, ăn bữa hôm, lo bữa mai nhưng biết có người sinh nở, chòm xóm chia nhau người lo một bữa. Người có hơn một chút, hoặc bà con gần thì con gà, cân thịt. Do đó, nhà dù nghèo đến đâu người phụ nữ sinh con vẫn được chăm chút đàng hoàng, tươm tất...

    Tuổi trẻ chúng tôi được thừa hưởng cái nét đẹp văn hóa của ông cha nên dù đi đâu, về đâu cũng không thể quên được “quê miềng”. Hàng năm dù có bận bịu gì đi chăng nữa cũng phải ghé về thăm quê được đôi, ba lần. Về đến đầu làng, thấy lũ trẻ con chơi đùa, nghe người ta gọi nhau bằng “eng, ả”, xưng với nhau bằng “út” sao cảm thấy gần gủi, nghĩa tình biết bao. Vô đến nhà, chưa kịp chào mạ thì mạ đã lên tiếng trước “Mi về đó Bảng” mà nước mắt trào ra...

    Là vùng đồng bằng nên quê tôi chỉ tập trung trồng lúa. Trồng lúa là chuyện muôn đời rồi, mặc dù thu nhập không cao lắm nhưng được cái ổn định. Nhưng người nhiều, ruộng ít, mỗi gia đình vài sào ruộng, nhà đông cũng chỉ được một mẫu đất. Từ chuyện học hành cho con cái, ma chay, giỗ đám, cưới xin... đồng tiền cũng từ hạt lúa mà ra nên người dân quê tôi vẫn còn nghèo lắm.

    Mấy năm gần đây, được sự khuyến khích của huyện, một số thôn phía tây của xã tập trung vào việc trồng rừng nhưng thu nhập cũng chẳng được bao nhiêu. Số thôn ở gần sông như Phan Hiền, Huỳnh Hạ, Huỳnh Thượng chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tận dụng phần đất kém màu mỡ đào ao nuôi tôm. Việc nuôi tôm cũng kẻ cười, người khóc. Đầu tư cho việc nuôi tôm thì lớn. Vốn không có phải vay muợn ngân hàng, người ít thì vài chục triệu, người nhiều thì hàng trăm triệu. Ai thuận buồm xuôi gió, có lãi hoặc hòa vốn thì còn đỡ, còn ai chọn giống tôm không kỹ, hoặc tôm bị bệnh thì coi như mất trắng. Nợ ngân hàng năm này qua năm khác không thanh toán được.

    Nói khó vậy thôi chứ người dân quê tôi quyết tâm lắm. Họ đâu chịu cảnh đói nghèo, vẫn bươn chải làm ăn. Người trồng lúa thì tìm cách tăng năng suất lúa, tiến hành chuyển đổi giống lúa sao cho phù hợp với chất đất quê mình. Đến vụ cấy, vụ gặt cố gắng tính toán kỹ thời gian làm sao cho nhanh, gọn để còn làm việc khác. Để tăng năng suất, bà con đầu tư thêm phân bón, học cách chăm sóc đúng kỹ thuật.

    Một số gia đình sắm máy móc để gặt cho nhanh. Như trước đây một vụ lúa gặt mãi không xong nhưng bây giờ chỉ mươi ngày là xong vụ. Một số thanh niên đi vào tận miền Nam để tìm kiếm việc làm, vào tận Tây Nguyên mua đất trồng cà phê, cao su, vào các khu công nghiệp xin làm công nhân để có thu nhập về cải thiện cuộc sống cho gia đình. Học sinh thì chăm chỉ hơn, biết quê mình nghèo nên cố gắng học hành để sau này lập nghiệp.

    Mấy năm trở lại đây số học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng nhiều. Người dân quê tôi tự hào về truyền thống của quê hương mình, càng tự hào hơn khi lớp con cháu nhận thức đúng trách nhiệm, ra sức phấn đấu vươn lên làm chủ bản thân, tập trung công sức, trí tuệ xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Chính vì vậy mà bộ mặt làng quê dần đổi khác, nhiều nhà xây, mái ngói mọc lên, thậm chí đã xuất hiện nhiều nhà đẹp, khang trang. Bữa cơm thôn quê bây giờ chỉ ăn toàn gạo trắng thơm, ngon còn sắn, khoai chỉ dùng để chăn nuôi.

    Tôi nghe mẹ tôi kể lại, sau ngày hòa bình lập lại (năm 1954), nghe theo lời Đảng gọi, người dân quê tôi chí thú làm ăn cho nên kinh tế phát triển nhanh lắm, chỉ năm, bảy năm sau chiến tranh đã có nhiều nhà mái ngói mọc lên... Nhưng khi giặc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, nhà cửa, ruộng vườn bị bom Mỹ cày xới tan hoang. Lũ trẻ như chúng tôi và một số gia đình khác phải sơ tán ra một số địa phương như Nam Hà, Thanh Hóa, Thái Bình, Nghệ An để sinh sống và học tập. Người ở lại chủ yếu là thanh niên và lực lượng du kích bám trụ chiến đấu với quân thù, góp phần làm nên chiến thắng. Gian khổ, ác liệt đã từng, do vậy người dân quê tôi khao khát được sống trong hòa bình để làm ăn, xây dựng quê hương, đất nước.

    Một ước mơ của những người dân quê tôi là có một chiếc cầu bắc qua sông Hiền Lương, nối từ xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Linh qua xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, để nhân dân hai bờ qua lại, đây cũng là điều kiện cho giao thông hàng hóa giữa đôi bờ, giúp nhau phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh trên con đường đổi mới và phát triển.

    TRẦN QUỐC BẢNG

Chia sẻ trang này