[Quảng Trị] Không rời biển!

Thảo luận trong 'QUẢNG TRỊ' bắt đầu bởi Minhvip, 8/6/11.

  1. Minhvip Thành viên chăm ngoan

    Ngày cập nhật: 08/06/2011 10:15:32 SA
    “Hàng ngàn tấn vũ khí, kể cả pháo 75, cao xạ 37 ly, lương thực, vật dụng đã được những chiếc thuyền gỗ chạy bằng buồm, chèo tay đơn sơ chở từ đất liền ra, đủ cho các chiến sĩ ngoài đảo sống không đến nỗi thiếu thốn và chiến đấu liên tục hàng hai, ba năm. Nhưng cái giá của mỗi viên đạn, mỗi hạt gạo đều phải tính bằng máu...” Những dòng từ Ký sự miền đất lửa của đồng tác giả Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh viết từ hơn 45 năm trước về hành trình máu Vịnh Mốc- Cồn Cỏ, Cửa Tùng- Cồn Cỏ, Vĩnh Linh- Cồn Cỏ...bỗng hiện về mồn một trong ký ức, khi tôi ngồi thưa chuyện với anh hùng Lê Văn Ban trong căn nhà của ông ở Tùng Luật, Vĩnh Giang (Vĩnh Linh, Quảng Trị), cây cối mùa tháng năm xanh tốt quá và tiếng sóng vỗ từ ngoài dặm xa vọng lại vẫn còn nghe giục giã, thân gần.

    1 - Suốt những năm tháng chống Mỹ cứu nước, chỉ một mái chèo, một con thuyền nhỏ, một mảnh buồm đơn sơ, cùng bao đồng đội, đồng chí, ông Lê Văn Ban đã vạch một hải trình cảm tử với nơi xuất phát là Vĩnh Linh, đích đến là đảo Cồn Cỏ, giữa bốn bề thủy lôi, bom đạn ngút trời. Đầu tháng 8/1964, quân Mỹ gây ra sự kiện vịnh Bắc Bộ, lấy cớ tấn công miền Bắc, đánh vào đảo Cồn Cỏ. Tình hình lúc đó hết sức nguy nan. Tàu của ta không thể đến được đảo Cồn Cỏ để tiếp tế lương thực, đạn dược vì Hạm đội Mỹ canh chừng rất ráo riết.

    Bởi vậy, Bộ chỉ huy chọn ban đêm mới ra tiếp tế cho đảo. Cứ 18 giờ tập trung làm công tác chuẩn bị, 21-22 giờ xuất phát. Nhưng từng đoàn tàu của ta đến với đảo Cồn Cỏ bị quân địch phục kích liên hồi, suốt tháng, suốt năm. “Cụ Mò ở Vĩnh Thạch, cả nhà ba cha con cùng đi đảo...

    [IMG]
    Thẳng hướng ra khơi.

    Tháng 6/1965 hai người con của cụ là anh Tỷ và anh Triêm cùng đi một chuyến. Gặp tàu địch, anh Tỷ hy sinh. Thuyền anh Triêm bị bắn chìm nhưng anh bơi được vào bờ. Cụ Mò đau khổ vì mất con trai nhưng sau đó cụ lên xã xin đi thay con...”. Ký sự miền đất lửa đã kể lại như vậy.

    Ông Lê Văn Ban lại là trường hợp đặc biệt khác. Không bom đạn nào có thể ngăn ông cùng đồng đội dong buồm chở đạn dược, gạo nước ra với Cồn Cỏ. Địch đánh ngày, đi đêm; đánh đêm, đi ngày. Địch đánh tan thuyền, ông ôm tấm ván lênh đênh trên biển hàng tuần liền, súng vẫn quàng vai, mái chèo vẫn nắm chặt trong tay. Vào đến bờ, ông Ban để nguyên bộ dạng, đi thẳng lên ủy ban xã xin đi chuyến nữa!

    2 - Tôi đã có những ngày lang thang dọc theo những miền chân sóng từ Ô Lâu ra đến Nhị Hồ và nhận ra một điều dung dị quá đỗi, rẻo đất nghèo đã sinh thành, nuôi nấng rất nhiều người anh hùng như chị Trần Thị Tâm ở miền cát trắng Hải Lăng, ông Lê Văn Ban ở Tùng Luật, Vĩnh Giang, nơi máu bao thế hệ người dân đã thấm đẫm từng sải nước, từng chân ruộng để bảo vệ toàn vẹn đất cha ông, cũng là nơi được gửi gắm rất nhiều kỳ vọng có thể tạo xung lực mới để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh tiến bước mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai gần...

    Quảng Trị được xác định là tỉnh đầu cầu về phía Việt Nam trên Hành lang kinh tế Đông- Tây, hành lang hội nhập kinh tế từ phía tây. Quảng Trị lại có một hành lang cực kỳ quan trọng, đó là “hành lang kinh tế về phía đông” với 75 km bờ biển dọc theo chiều dài của tỉnh, ở vào trung độ của cả nước. Đây là nơi liền mạch với nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Tổ quốc.

    Theo cách phân định của các nhà quy hoạch, ở phía bắc, vùng kinh tế biển của Vĩnh Linh có thể chia ra là ba tiểu vùng: Tiểu vùng cửa lạch, tiểu vùng bãi ngang, tiểu vùng biển với diện tích tự nhiên gần 16.000 ha. Vùng bờ biển dài 18 km của Vĩnh Linh có thể ước làm hai phần.

    Từ Mũi Lay trở ra phía Quảng Bình, biển Vĩnh Linh giáp vịnh Bắc Bộ. Từ Mũi Lay vào Cửa Tùng, biển Vĩnh Linh giáp biển Đông. Từ vị thế đó, Vĩnh Linh bao quát cả một vùng biển cửa ngõ ra vào vịnh Bắc Bộ, có vị trí quan trọng về quốc phòng, an ninh, là bàn đạp để ngư dân mở rộng ngư trường, làm chủ biển đảo của Tổ quốc.

    Ở phía nam, cùng với Quy hoạch cảng nước sâu Mỹ Thuỷ, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý bổ sung Khu kinh tế biển Đông Nam tỉnh Quảng Trị vào Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển Việt Nam đến 2020. Khu kinh tế biển Đông Nam của tỉnh có diện tích 237,71 km2, nằm trên dải cát ven biển thuộc các huyện Hải Lăng, Triệu Phong... sẽ là khu kinh tế biển tổng hợp, có kết cấu hạ tầng hiện đại, cơ chế thông thoáng, môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi.

    Trọng tâm của Khu kinh tế biển sẽ là dịch vụ cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp vật liệu xây dựng và vật liệu mới gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu, công nghiệp khí gắn với tiềm năng khí lớn trên vùng biển thềm lục địa gần bờ biển tỉnh Quảng Trị và dịch vụ hậu cần.

    [IMG]
    Anh hùng Lê Văn Ban: “Biển của ta thì ta quyết giữ...”.


    Trong những năm qua, để khai thác có hiệu quả kinh tế biển, BCH Đảng bộ tỉnh (khóa XIII) đã ra Nghị quyết 05 về “Phát triển kinh tế- xã hội miền biển, vùng cát”. Từ đó, ngành thủy sản của tỉnh đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực.

    Bắt đầu là những cuộc chuyển đổi tư duy làm ăn và thuyền nghề. Nghề cá thủ công, quy mô nhỏ, hoạt động ở vùng gần bờ, khai thác hải sản đã chuyển dịch theo hướng cơ giới hóa, tăng cường khai thác ở vùng biển xa bờ, ứng dụng công nghệ khai thác tiên tiến nhằm vào các đối tượng khai thác có giá trị cao và các đối tượng xuất khẩu, cải tiến công nghệ bảo quản sau thu hoạch để nâng cao chất lượng sản phẩm khai thác.

    Bên cạnh đó, ổn định khai thác vùng ven bờ, đẩy mạnh tuyên truyền ngư dân khai thác đi đôi với bảo vệ và phát triển nguồn lợi, không sử dụng mắt lưới quá nhỏ, khai thác bằng chất nổ, chất độc, giữ gìn sự bền vững của môi trường sinh thái.

    Nhờ sự đầu tư từ nhiều nguồn, đặc biệt là nội lực trong dân, số tàu thuyền của ngư dân tăng nhanh. Nếu năm 2000, toàn tỉnh chỉ có hơn 1.900 chiếc, trong đó loại có công suất 90 CV trở lên 28 chiếc, đến năm 2010, số lượng đã tăng lên 2.463 chiếc và tàu trên 90 CV là 75 chiếc. Ngư lưới cụ được cải tiến và du nhập nghề mới, đồng bộ, đánh bắt có chọn lọc.

    Sản lượng khai thác thủy hải sản theo đó đã tăng nhanh về lượng và giá trị, từ 12.000 tấn năm 2000 lên 17.500 tấn năm 2010. Các mô hình tổ chức sản xuất trên biển bước đầu đã phát huy hiệu quả. Sự hiện diện dân sự của lực lượng tàu thuyền và ngư dân trên biển đã góp phần vào việc giữ vững chủ quyền, an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc.

    Trên những luồng lạch Cửa Việt, Cửa Tùng, những bãi ngang lặng sóng những ngày này, hơn hai nghìn chiếc thuyền lớn nhỏ của ngư dân Quảng Trị vẫn vào lộng, ra khơi tấp nập. Bất chấp những khó khăn mà nghề biển phải đối mặt trong cơ chế thị trường, những ngư dân mà tôi đã gặp đều chung một quyết tâm sắt đá là bám biển đến cùng để phát triển kinh tế và làm chủ vùng biển, đảo của Tổ quốc.

    Tuy nhiên, kinh tế biển, đặc biệt là năng lực khai thác, đánh bắt trên biển của ngư dân Quảng Trị chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Những vướng mắc có nguyên nhân ngay nội tại từng hộ ngư dân, từng tổ thuyền nghề, từng địa phương, từng giai đoạn phát triển.

    Đồng vốn là động lực quan trọng trong việc thực hiện các chương trình khai thác thủy sản trên biển, càng ra khơi xa, vốn đầu tư càng lớn. Theo tính toán của bà con ngư dân, để đầu tư đóng mới một con tàu trên 90 CV với trang bị để họat động được dài ngày trên biển có khi lên tới vài tỷ đồng.

    Với lãi suất vay như hiện thời thì phải sau 10 năm làm ăn cật lực, thu nhập đảm bảo, người dân mới có thể hoàn trả hết vốn. Trong khi đó, đời sống ngư dân còn thấp, vốn tích lũy chưa nhiều, nguồn thủy hải sản ngày càng cạn kiệt, thời tiết diễn biến phức tạp đã tác động tiêu cực đến quá trình khai thác trên biển của ngư dân.

    Việc tiêu tốn nhiên liệu khi vươn ra khơi xa và giá nhiên liệu tăng cao cũng đã đặt ra thách thức không nhỏ đối với ngư dân. Tính toán của ngư dân cho thấy, để đánh bắt được một tấn cá gần bờ thì phải tiêu tốn 250-270 kg dầu diezel, còn nếu đi xa bờ hơn thì cần tới 400 kg trở lên. Giá dầu tăng cao trong khi trữ lượng hải sản bấp bênh, giá cả thủy hải sản tăng không tương xứng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thu nhập của ngư dân.

    Việc tiêu thụ sản phẩm của ngư dân đánh bắt được cũng đang đặt ra những bài toán hết sức nan giải. Có thể thấy hiện nay, thương nhân là nhân vật trung gian điều hành người bán (ngư dân). Họ ở ngay tại địa phương, sẵn sàng ứng vốn cho ngư dân mua sắm, sửa chữa thuyền nghề, ngư lưới cụ, nhiên liệu... với điều kiện mua đứt bán đoạn toàn bộ sản phẩm ngư dân đánh bắt được. Sự liên kết này có những khía cạnh tích cực của nó, tuy nhiên, tình trạng ép cấp, ép giá, tranh mua, tranh bán cũng có nguyên nhân từ thực trạng này. Kết quả là ngư dân thua thiệt, nhà nước thất thu thuế.

    Để thực hiện mục tiêu chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 theo Nghị quyết Trung ương 4, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, điều quan trọng nhất đối với tỉnh Quảng Trị là quan tâm đầu tư để quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết cho các ngành kinh tế và các xã vùng biển.

    Trong quy hoạch cần xác định mục tiêu phát triển cũng như phương hướng và các phương án cụ thể, khoa học, chú trọng đầu tư phát triển một số ngành, lĩnh vực có vai trò đột phá làm động lực cho phát triển cả vùng biển của tỉnh. Đi đôi với quy hoạch là tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng, nhằm đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ tốt nhất cho sự phát triển sản xuất và phục vụ dân sinh.

    Trong xu thế hiện nay, khoa học-công nghệ phát triển với những yêu cầu ngặt nghèo về chất lượng sản phẩm đã đặt ra đòi hỏi bức thiết đối với nền kinh tế biển phải phát triển với tốc độ, quy mô và chất lượng cao hơn. Phương tiện ngư cụ và trình độ đánh bắt phải hiện đại hóa và không ngừng được nâng cao mới phù hợp với ngư trường đánh bắt và những biến động về thời tiết ngày càng khắc nghiệt.

    Do vậy, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương tiếp tục nghiên cứu có chính sách ưu đãi gắn với cơ chế phù hợp để đầu tư cho các tàu xa bờ, nhằm khuyến khích ngư dân có điều kiện mua sắm thêm các trang thiết bị, ngư lưới cụ hiện đại, đáp ứng yêu cầu đánh bắt ở các ngư trường khơi xa.

    Quan tâm đầu tư phát triển mạnh các dự án tàu trung bờ, kết hợp tàu trung bờ với tàu xa bờ để tăng thời gian bám biển, sản xuất dài ngày. Các nghề rê khơi, vây rút chì, vây cá ngừ...đòi hỏi phải đầu tư lớn mới mong có được hiệu quả cao. Ngư dân cần được nhà nước hỗ trợ bằng nguồn vốn ưu đãi để có điều kiện đưa các nghề này vào áp dụng trong quá trình đa đạng hóa phương thức đánh bắt và họat động thuận lợi trong các mùa vụ...

    3 - Trên những luồng lạch Cửa Việt, Cửa Tùng, những bãi ngang lặng sóng những ngày này, hơn hai nghìn chiếc thuyền lớn nhỏ của ngư dân Quảng Trị vẫn vào lộng, ra khơi tấp nập. Bất chấp những khó khăn mà nghề biển phải đối mặt trong cơ chế thị trường, những ngư dân mà tôi đã gặp đều chung một quyết tâm sắt đá là bám biển đến cùng để phát triển kinh tế và làm chủ vùng biển, đảo của Tổ quốc.

    Họ ra khơi, bên cạnh chuẩn bị ngư lưới cụ, lương thực, nhiên liệu đủ để bám biển dài ngày, rất nhiều tàu đã sắm thêm những lá quốc kỳ mới. Trên cabin nơi buồng lái của những chiếc tàu đánh bắt xa bờ là bàn thờ Bác Hồ trang nghiêm. Thuyền trưởng và thủy thủ khi vạch ra những hành hải, họ ngước nhìn lên Bác và thấy thêm vững tâm để vươn ra biển cả. Những ngư dân Quảng Trị , ngư dân nước Việt tung lưới bất kỳ đâu trong vùng biển, đảo của đất nước mình, cờ Tổ quốc lại tỏa rợp đến đó...

    Tôi ướm hỏi anh hùng Lê Văn Ban:

    - Bây giờ nếu được sống lại thời trai trẻ, ông vẫn ra khơi dài dài chứ?

    Người anh hùng đã từng có câu nói xuất thần với cựu chiến binh Mỹ William A.Berry tại Vịnh Mốc: “Mái chèo này ngày xưa dùng để đánh giặc, bây giờ dùng để nuôi vợ nuôi con. Hồi chiến tranh ông có bay tới vùng này ném bom thì chắc biết mặt tôi”, đã đáp lời không chút đắn đo:

    - Vẫn ra khơi chứ. Biển của ta thì ta quyết giữ, như nhà ta ta ở, ruộng vườn ta, ta cấy cày...

    Bài, ảnh: ĐÀO TÂM THANH
    http://www.baoquangtri.vn
    trandinhyen, Lãng Tửmr Mai thích bài này.

Chia sẻ trang này