QT) - Dặn lòng kỹ lắm, là đừng khóc, không khóc khi bước vào nghĩa trang này, hãy căng mắt căng tai căng mọi giác quan ra mà cảm, mà nhận, mà thu lấy những gì đang hiện hữu ở kia, ngay trong nghĩa trang liệt sĩ đặc biệt này... thế mà rồi nước mắt cứ trào ra. Nghĩa trang liệt sĩ ở đâu mà chả giống nhau, những tấm bia tăm tắp, những ngôi sao đỏ, những cuộc đời, số phận... giờ chỉ còn là dòng chữ tên tuổi, quê quán, ngày nhập ngũ, ngày hy sinh... Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn này khác hàng nghìn nghĩa trang khác trên khắp đất nước ta bởi nó là nghĩa trang của các nghĩa trang. Nơi quy tụ đông nhất các liệt sĩ từ mọi miền đất nước và vì thế mà gần như tỉnh nào cũng có một khu riêng, với một cái nhà thờ theo phong cách văn hóa tỉnh ấy. Hẳn sẽ ấm lòng hơn khi giữa nơi heo hút này, các liệt sĩ như được nằm giữa quê nhà. Cũng phải tỏ lòng trân trọng tác giả của việc thiết kế nghĩa trang này ra từng khu, để nghĩa trang có vẻ nhỏ lại, tầm nhìn gần lại, không thấy dằng dặc miên man hàng chục cây số mộ liệt sĩ mà ớn lạnh, mà hoang mang. Cảm giác gần gũi khá rõ khi các khu ngăn nhau bởi các lối đi và cây xanh... ] Đoàn nhà văn Việt - Mỹ chụp ảnh lưu niệm ở Di tích lịch sử Làng Vây Với Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế, nhà thơ Nguyễn Duy là người đầy duyên nợ. Ngay năm 1975, nhà thơ Nguyễn Duy đã gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và họ đã có mối giao hảo giữa hai tâm hồn nghệ sĩ lớn. Năm 1976, vì ngủ ở nhà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không mang theo giấy tờ mà chàng chuẩn úy thông tin đã bị bắt về đồn Phủ Cam ngồi suốt đêm, chung với các tay anh chị... Trước đó, anh ở Quảng Trị. Lịch sử văn chương Việt Nam sẽ còn ghi sự kiện chàng lính trẻ Nguyễn Duy đọc thơ từ đường dây thông tin mặt trận Quảng Trị về Tòa soạn Báo Văn Nghệ, và chùm thơ này sau khi in đã đoạt giải thưởng Báo Văn Nghệ, một giải thưởng rất danh giá thời ấy. Ngay từ năm 1968, xe tăng ta có mặt ở chiến trường miền Nam với cuộc đấu tăng vĩ đại ở cứ điểm Làng Vây thì chàng lính trẻ Nguyễn Duy đang làm nhiệm vụ ở đây với tư cách là lính thông tin, chàng Hữu Thỉnh là lính xe tăng và Đỗ Chu là phóng viên mặt trận. Hôm cùng lên thăm lại Di tích lịch sử Làng Vây, nhà thơ Hữu Thỉnh kể cho mấy nhà văn Mỹ, trong đó có Kevin Bowen (năm đó cũng đang có mặt ở đây với tư cách là một chiến binh đối phương) rằng để đưa được xe tăng vào Làng Vây, bộ đội ta đã biến tăng thành... thuyền và kéo nó dọc suối. Nhiều bộ phận của tăng được tháo ra cho bà con người Vân kiều, Pa kô, Tà ôi... gùi, còn lại thì tất cả các sắc lính từ xe tăng đến công binh và cả thông tin... được huy động đi... kéo tăng. Họ đã tắt máy để giữ bí mật cho cuộc đấu tăng lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh chống Mỹ, kéo tăng xuống suối rồi kéo nó đi dọc suối. Con suối ấy còn kia, văn vắt trong và vô tư len lỏi giữa rừng. Người kéo người đẩy, cả chục cái tăng như thế im lìm vào trận địa. Nhà thơ Hữu Thỉnh đang kể thì nhà thơ Nguyễn Duy phụ họa rằng chính ông là người cũng được điều đi kéo tăng. Cứ nhích từng bước một bước một, không được dô hò hai ba gì cả, mà rồi quãng đường hơn chục cây số cũng qua, và rồi đã có trận Làng Vây, Tà Cơn, có Đường 9 - Nam Lào lịch sử. Hôm ở căn cứ Tà Cơn, mọi người đang thăm nhà bảo tàng thì nghe tiếng rú lên sung sướng. Kéo lại thì ra là nhà văn Đỗ Chu đang dùng cái điếu cày cầm trên tay chỉ lên bức ảnh trên tường. Trên bức ảnh ấy có tướng Lê Quang Đạo, các tướng lĩnh khác nữa và... ông. Có lẽ không có hiện thực nào sinh động hơn để miêu tả cho việc chúng ta đã từng có cả một thế hệ nhà văn chống Mỹ, trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. ] Nhà thơ Nguyễn Duy nói chuyện với các nhà văn Mỹ Tối ấy, tại một khách sạn ở thị trấn biên giới Lao Bảo, tôi ghi vội vào một file word: "Sáng mai sẽ mỗi người mỗi ngả, nên chả hẹn mà vào cuộc ăn chiều ở một nhà hàng ở thị trấn biên giới Lao Bảo thì nhà thơ giáo sư Kevin Bowen lôi ra một chai rượu xách từ nhà sang, chai mà như bà Laydi Borton nói rằng nó được xách từ Ailen, quê gốc của Kevin. Trong khi đó thì nhà thơ Nguyễn Duy, một trong ba nhà văn Việt Nam trong đoàn trước đó cũng vào siêu thị miễn thuế mua một chai Chivas 18. Hôm nay là một ngày nhiều nước mắt. Mình sẽ phải viết một bút ký thật xứng đáng về ngày hôm nay, nếu không viết được thì sẽ bỏ phím, chắc chắn thế. Chả dám kể đến ai, mình đã khóc khi nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đọc bài thơ trong bữa ăn trưa tại Đông Hà. Trước đó, mình cũng nước mắt nhòe nhoẹt khi vào thắp hương ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Nhiều người khóc lắm, khóc tự nhiên và ngượng nghịu chứ không phải "diễn". Mấy nhà văn Mỹ cựu binh cũng khóc, ngon lành như trẻ nhỏ". Những người lính cũ từ hai chiến tuyến, bây giờ gặp nhau ở đây, tay trong tay, cứ lẩm bẩm: "Nếu mấy chục năm trước mà thế này thì không có hàng triệu nấm mồ đau đớn kia". Những người lính của hai phía ngày xưa, nhưng bằng thiên chức nhà văn, họ đã là một trong những người tiên phong trong việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, mở ra một thời kỳ mới... Cũng nói luôn, chính các nhà văn chứ không ai khác, ngay khi cả Việt Nam và Mỹ còn vô cùng khắt khe với nhau, cấm vận nhau (chứ chả phải chỉ mình Mỹ cấm vận Việt Nam) thì các nhà văn cựu chiến binh của cả hai nước đã bằng nhiều cách tìm đến nhau, thăm nhau, mà hai nhà văn Việt Nam đầu tiên đi thăm Mỹ ngay từ khi khó khăn ấy là Lê Lựu và Ngụy Ngữ. Nhà văn Lê Lựu về viết sách bán chạy như tôm tươi, trước đấy thì được mời đi nói chuyện liên tục, còn được in ra băng cát sét bán như bán nhạc Trịnh Công Sơn. Ngay các nhà văn cựu chiến binh Mỹ ở Trung tâm William Joiner như Kevin Bowen, Lady Borton, Larry Heinemann, Bruce Weigl, Fred Marchant... cũng rất là khốn khổ khi mời các nhà văn Việt Nam sang. Họ bị la ó là chống lệnh cấm vận của Chính phủ Mỹ, bị kiện một vụ kéo dài đến 7 năm, "và cuối cùng phần thắng đương nhiên thuộc về thiện chí và lẽ phải"- lời nhà thơ Hữu Thỉnh... Một lần đi cùng đoàn nhà văn là cựu chiến binh vào nghĩa trang Sư đoàn 10 ở Kon Tum, đang tếu táo trên xe thế, nhưng khi leo rào vào được bên trong (chiều tối, người quản trang đã đóng cửa), khi một người cầm bó hương to tướng hoa lên đầu kêu to "đồng đội ơi" thì như điện giật, 100% người đi cùng khóc theo, khóc như mưa như gió cho đến lúc lên xe. Ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn hôm nay, không ai công khai khóc to thế, nhưng mắt ai cũng đỏ hoe, mà người đầu tiên là nữ nhà thơ cựu binh Phạm Hồ Thu. Mỗi người một góc, lủi thủi trong nghĩa trang như nói thầm với từng ngôi mộ. Chiều mưa, gió như cắt vào thịt. Ai nghĩ mùa này Quảng Trị lạnh thế. Những đứa trẻ địa phương cùng chúng tôi tha thẩn, chúng đầu trần phong phanh áo mỏng nhưng rất thông thạo từng khu mộ của từng địa phương. Chỉ cần nói là người ở đâu đến chúng sẽ dẫn đến đúng khu của tỉnh ấy. Mỗi tỉnh một phong cách như là mang toàn bộ hơi ấm quê hương vào đây vỗ về giấc ngàn thu những người lính trẻ quê mình. Ai cũng trầm lặng, những bước chân cứ như lạc vào quá khứ, cái quá khứ hào hùng bi thương như mới vừa qua đây. Tôi đã không kịp hỏi tên cái cô bé xinh đẹp thuyết minh ở bảo tàng Tà Cơn ấy, nhưng vẫn ám ảnh với cái giọng Quảng Ngãi lọt thỏm giữa vùng Khe Sanh này. Quảng Trị bây giờ không còn là vùng đất chết, nó đang mời gọi người về. Cô bé này theo gia đình ra Lao Bảo từ ngày có khu cửa khẩu này. Từ đây cô ngược vào thành phố Hồ Chí Minh học rồi lại quay ra Khe Sanh, lấy chồng là một chàng thợ điện. Cô thuộc vanh vách các sự kiện, con số, tên nhân vật... nhưng khi tôi nhắc tên mấy nhà văn cựu chiến binh trong đoàn thì cô... trở thành khách tham quan, cứ đứng ngẩn ra nghe những người lính cũ hồi ức. Chiến trường xưa bây giờ đang xanh tươi với một thế hệ công dân mới, vừa trân trọng lưu giữ quá khứ, vừa xây dựng tương lai của mình trên chính vùng đất từng bị coi là vùng đất chết... Và tôi cũng bày tỏ sự thán phục và cả nỗi ám ảnh trước một loạt ảnh của nghệ sĩ nhiếp ảnh Đoàn Công Tính bày trong Bảo tàng Thành Cổ - Quảng Trị, ở nơi mà chỉ có 81 ngày đối phương đã ném xuống 328.000 tấn bom, hơn 2.000 lần máy bay oanh kích với tổng lượng bom, pháo ném xuống mảnh đất bé nhỏ này tương đương 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hi-rô-si-ma (Nhật Bản). Ở nơi mà mỗi vốc đất bốc trên tay đều có mảnh đạn, mà tưởng như không thể có sự sống ấy, thì những người lính đều rất tươi cười khi chụp ảnh. Chao ơi là những nụ cười Thành Cổ, nó cứ sáng trưng lên trong cái chiều mưa lạnh xám xịt tái tê này... Người trong ảnh thì cười, còn những người đến thăm hôm nay thì rưng rưng nước mắt. Phải chăng đấy là sức mạnh Quảng Trị, niềm tin Quảng Trị... Bài, ảnh: Văn Công Hùng baoquangtri.vn