Chính Trung Hoa là nơi phát minh ra thuốc súng đầu tiên. Vào khoảng thế kỷ thứ VI, các nhà Giả Kim thuật (còn gọi là nhà Luyện đan, kiêm đạo sĩ, chiêm tinh, chuyên tìm tòi, pha chế các dược liệu, hoá chất… mong tìm ra phương thuốc “Trường sinh bất tử” dâng lên Hoàng đế) trong khi mày mò, vô tình tạo ra thuốc nổ từ diêm tiêu và lưu huỳnh. Bầy giờ, thuốc nổ chỉ ứng dụng làm pháo đốt, pháo bông phục vụ cho lễ hội vui chơi ở cung đình, sản xuất từ các công xưởng thuộc triều đình. v Năm 682, nhà Giả Kim thuật Tôn Tư Mạc đã đưa ra công thức thuốc nổ trộn từ lưu huỳnh, diêm tiêu (Kali Nitrat) và bột gỗ. v Năm 808, nhà Giả Kim thuật Xin Xui Sử lại chế thuốc súng từ lưu huỳnh, diêm tiêu, than gỗ, và thuốc súng được sử dụng cho quân sự từ đó. v Mãi đến đời nhà Tống (thế kỷ XII) họ mới chế ra hoả khí bằng ống tre hoặc quả cầu bằng giấy bồi, nhồi thuốc súng với đá, mảnh sành, mảnh gang, bịt sắt, gắn ngòi nổ, châm cháy rồi ném vào địch quân hoặc chôn ở chiến trường, đó chính là loịa mìn, lựu đạn, súng sơ khai có tên gọi là “Hoả Thương” và “Chấn Thiên lôi”. v Thế kỷ XIII, giặc Nguyên – Mông tấn công Trung Quốc, học được thuật chế thuốc súng. Rồi họ viễn chinh sang Tây Á, kỹ thuật này lan truyền dần từ Ả Rập sang Hy Lạp, Tây Ban Nha và khắp châu Âu, cuối cùng phổ biến khắp toàn cầu.