Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc cách đây 36 năm và hôm nay, đất nước đang trong thời kỳ đổi mới. Dù thời gian có trôi qua nhưng những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến vĩ đại và sự hy sinh anh dũng của những người con ưu tú của dân tộc vẫn vẹn nguyên, in đậm dấu ấn trong tâm trí của mỗi người Việt Nam. Các cựu chiến binh trong ngày gặp mặt tại Quảng Trị. Bao nhiêu năm rồi, Quảng Trị của những ngày máu lửa năm 1972 vẫn còn nguyên vẹn trong ký ức chúng tôi, không lúc nào nguôi ngoai. Ngày ấy, cùng những bạn bè đồng trang lứa, chúng tôi ra chiến trường, lòng phơi phới niềm tin vào ngày đất nước thống nhất. Khó có thể nói hết về những hiểm nguy rình rập từng phút, từng giây trên mảnh đất này. Từ bom, đạn, chất độc da cam, đến pháo bầy, biệt kích, sốt rét rừng... Nhưng không nguy hiểm nào có thể ngăn nổi bước chân của đoàn quân ra trận. Ðể rồi, bao nhiêu đồng đội của chúng tôi đã vĩnh viễn ở lại mảnh đất này cho Tổ quốc mãi xanh. Mỗi tấc đất thân yêu nơi đây lưu giữ bao kỷ niệm của một thời trai trẻ. Ngày ấy, chúng tôi tình nguyện nhập ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Có người vừa học xong cấp 3, có người đang học trong trường chuyên nghiệp, có người đang công tác tại các cơ quan, công trường, xí nghiệp. Tất cả hừng hực chí trai hòa vào đoàn quân đầy khí thế. Mỗi chúng tôi, bằng khả năng của mình, đã không quản mọi hiểm nguy, đóng góp sức mình vào thắng lợi chung của đất nước. Ðể hôm nay nhớ lại đã không phải hổ thẹn với bao anh linh liệt sĩ từng chung một chiến hào. Những ngày hè năm 1972, chúng tôi ở Trung đoàn 38 pháo binh mang tên Bông Lau. Ðó là đơn vị đã trở thành nỗi khiếp sợ cho kẻ địch ở miền tây Quảng Trị, đã góp phần quyết định bức hàng Trung đoàn 56 bộ binh đóng tại căn cứ Tân Lâm ngay từ trận đầu mở màn cho chiến dịch "Nguyễn Huệ". Trung đoàn 56 của địch là đơn vị pháo hiện đại, trong đó có cả pháo tự hành 175 mm được mệnh danh là "vua chiến trường" đã phải đầu hàng. Sự kiện quan trọng này góp phần làm tan rã tinh thần quân lính đối phương, tạo đà cho quân và dân ta giải phóng hoàn toàn Quảng Trị. Chúng tôi không bao giờ quên những ngày hè 1972, khi kẻ thù củng cố lực lượng và tổ chức những đợt phản kích dữ dội. Mỗi ngày, chúng tôi phải chịu bao trận bom B52, pháo bầy... Và mỗi khi nhìn xuống khu Thành cổ, lại vô cùng xót xa cho những đồng đội không quản hy sinh, giành giật từng tấc đất với kẻ thù. Bầu trời Thành cổ nhỏ bé lúc nào cũng mù mịt khói bụi như một cột nấm khổng lồ. Về sau mới được biết, trong những ngày đó, địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 - 170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần máy bay B52, 12 - 16 tàu khu trục, tuần dương hạm, hai sư đoàn dù và thủy quân lục chiến, một liên đoàn biệt động, bốn trung đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn... Chỉ trong vòng 81 ngày, Mỹ - Ngụy đã ném xuống đây gần 330 nghìn tấn bom đạn. Riêng ngày 25-7, chúng bắn vào Thành cổ hơn 5.000 quả đại bác. Thành cổ không còn một viên gạch lành lặn và mỗi tấc đất đều thấm máu đồng đội của chúng tôi. Hôm nay, chúng tôi trở lại chiến trường xưa. Ðây Vĩnh Linh, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Cam Lộ; phía xa kia nữa là La Vang, Tích Tường, Triệu Phong, Hải Lăng,... Chúng tôi không sao kìm được nỗi xúc động, từng đợt dâng nghẹn trong lòng. Ðây Cam Lộ, là nơi Nguyễn Xuân Quang người bạn cùng nhập ngũ với chúng tôi, người lính đầu tiên đợt ấy nằm lại bên sông khi vừa tròn 20 tuổi, máu thấm đỏ lá thư của người yêu luôn để trong túi ngực. Ðây là nơi anh Vải, anh Sình, lái xe xích kéo pháo đã bị trúng bom. Rồi bao cán bộ, chiến sĩ chúng tôi chưa kịp biết tên, đã không bao giờ trở về quê hương yêu dấu. Bên đầu cầu sông Thạch Hãn, vươn cao lồng lộng tượng đài 20 trái tim của Trung đội Mai Quốc Ca Anh hùng. Bao tháng năm, những trái tim vẫn đỏ tươi nhiệt huyết. Những trái tim như những nốt nhạc ngân vang giữa đất trời tự do. Những trái tim như những giọt nước mắt đau thương của đất trời, khóc cho một thời lửa đạn, đất nước chia cắt như thân thể bị chia lìa. Những trái tim như ngọn lửa rực cháy tinh thần yêu nước mấy nghìn năm không bao giờ tắt. Những trái tim yêu hòa bình và tự do, khát yêu và khát sống, nhưng khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lược, những trái tim lại hóa ngọn lửa thiêu cháy quân thù. Nghĩa trang Trường Sơn hàng hàng, lớp lớp những bia mộ các liệt sĩ, các anh, các chị là những người con yêu của Tổ quốc. Rừng già, nắng và gió đại ngàn rì rào như tiếng của hàng vạn anh hồn liệt sĩ, như tiếng chuông đồng vọng xuyên thấu gọi về đoàn tụ, vang lên khúc nguyện cầu hòa bình trên đỉnh Trường Sơn. Quá nửa đời đau đáu về đồng đội, hôm nay giọt nước mắt của những người lính già tóc bạc màu sương gió, lòng thành cầu nguyện cho đồng đội, cầu nguyện cho hòa bình, ấm no, hạnh phúc. Trong khói hương mờ ảo, như thấy những đồng đội năm xưa trở về quây quần, đoàn tụ. Muốn nói với các anh bao điều mà nỗi xúc động cứ từng đợt nghẹn dâng trong lồng ngực. Mọi lời hứa hẹn lúc này đều là vô nghĩa, điều các anh mong đợi ở chúng tôi chính là sống làm sao cho xứng với sự hy sinh của bao người. Trên dải đất hình chữ S này, mỗi thước đất, mỗi mầm xanh, mỗi lá cây ngọn cỏ đều mang ơn các anh. Tiếng chuông thiêng liêng ngân trong trời xanh lồng lộng. Dãy Trường Sơn hùng vĩ vang khúc nguyện cầu hòa bình, khắc sâu vào lòng mỗi người con đất Việt mang trong mình dòng máu Lạc Hồng, hôm nay và mãi mãi mai sau, hãy giữ vững từng tấc đất của ông cha và dựng xây đất nước ngày càng giàu mạnh, như câu thơ của GS Vũ Khiêu khắc trên quả chuông đồng: Bát ngát Trường Sơn hồn liệt sĩ - Dạt dào Ðông Hải khí anh linh - Ba hồi chiêu mộ rung tâm trí - Muôn dặm non sông nặng nghĩa tình... Và chúng tôi soi mình xuống dòng Thạch Hãn trong xanh. Dòng sông êm đềm trôi xuôi, sóng nước lao xao như thấp thoáng những bóng mũ tai bèo. Bãi bờ cỏ xanh ngập tràn bờ bãi kia có bao đồng đội của chúng tôi và những người dân hiền lành của nước Nam đã nằm lại? Dòng nước mặn mòi kia còn mang nặng trong lòng hình hài những người lính trẻ, những người con ưu tú của dân tộc. Ðâu đây như vẫn cất lên từ sâu thẳm tiếng gọi "Mẹ ơi!" của những đứa con yêu trước khi bị dòng nước xiết cuốn đi. Bao gia đình yên vui hạnh phúc hôm nay đã còn lưu giữ những trang thư tâm huyết của những người lính trẻ viết vĩnh biệt Mẹ, vĩnh biệt người yêu, vĩnh biệt thầy giáo, vĩnh biệt bạn bè, vĩnh biệt đồng lúa bờ tre trước khi đi vào cõi vĩnh hằng. Ðể rồi khi nghe giọng cô gái trẻ thuyết minh ở Khu di tích Thành cổ Quảng Trị đọc những vần thơ của người cựu chiến binh Lê Bá Dương trở về viếng đồng đội, chúng tôi không ai cầm được nước mắt: Ðò xuôi Thạch Hãn xin... chèo nhẹ - Ðáy sông còn đó bạn tôi nằm - Có tuổi hai mươi thành sóng nước - Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm. Có nơi nào trên trái đất này lại có nghĩa trang liệt sĩ không một nấm mồ, không rõ số lượng người đã hy sinh, không biết tên những người đã mất? Dòng sông quê hương dang tay ôm các anh vào lòng. Nghĩa trang mang tên một dòng sông. Các anh hóa tượng đài bất diệt trong lòng Tổ quốc! Chúng tôi dự lễ cầu siêu cho các linh hồn liệt sĩ và các oan hồn trên sông Thạch Hãn. Tiếng cầu kinh như lay động đất trời. Và trong đêm, những ngọn lửa đèn trên sóng nước, rực đỏ như dòng sông lửa, con thuyền và những ngọn đèn cứ lưu luyến mãi, không chịu xuôi dòng. Có phải linh hồn của các anh đã thấu cho lòng thành, nên còn quyến luyến bên đồng đội. Và chúng tôi hiểu, đất nước có được như hôm nay là nhờ sự hy sinh to lớn của các anh trên chiến trường ngày ấy. Các anh hy sinh và tô thắm thêm mầu đỏ của lá cờ Tổ quốc. Các anh hy sinh, tiếp nối truyền thống yêu nước của cha ông từ ngàn xưa. Ðó là lương tri, là lòng tự trọng, là giá trị văn hóa cao quý mà các thế hệ người Việt Nam cần phải kế tục và trao truyền. Ngọn lửa tình yêu cuộc sống của các anh còn mãi đượm nồng trong trái tim các thế hệ hôm nay và mai sau; tiếp thêm nghị lực và niềm tin cho mỗi người dân nước Việt, xây dựng đất nước giàu mạnh, giữ vững từng tấc đất thân yêu của Tổ quốc. Xuân Tùng Nguồn:http/nhandan.org.vn
Cái topic này cần phải cho thanh niên tuổi trẻ chúng ta đọc. Đọc kỹ mới hiểu được sự cực khổ của các ông cha ta mới có thể được cuộc sống tự do như bây giờ