(ĐCSVN) - Đóng góp vào chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 có công sức và sự hy sinh lớn lao của lực lượng thanh niên xung phong (TNXP). Đội Vận tải, thuộc Liên đội TNXP Giải phóng Quảng Trị có những chiến công thầm lặng, góp phần vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Những câu chuyện về họ, bây giờ mới được kể. Thanh niên xung phong tham gia vận tải vũ khí, phục vụ chiến trường (Ảnh tư liệu)Một chiều đầu thu, tôi về gặp anh Nguyễn Mạnh Hùng, Hội viên Hội cựu TNXP Quảng Trị. Tiếp tôi trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ, bên ly trà nóng, anh kể cho tôi nghe về những tháng năm không thể nào quên ấy, những chiến tích thầm lặng mà rất đỗi tự hào của Đội Vận tải, thuộc Liên đội TNXP giải phóng Quảng Trị, nơi mà anh và đồng đội đã không tiếc máu xương hiến dâng tuổi thanh xuân của mình chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng cao đẹp: Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đội Vận tải thuộc Liên đội TNXP giải phóng Quảng Trị được thành lập vào tháng 1 năm 1972 tại thôn Xuân Tiến, xã Gio Việt. Đội gồm 9 người (2 nữ, 7 nam) do anh Nguyễn Mạnh Hùng làm đội trưởng. Nhiệm vụ của đội là thu chiến lợi phẩm của địch thất bại bỏ lại sau các cuộc giao tranh, chở những chiến sĩ bộ đội vào bờ Nam Cửa Việt và chở thương binh ngược ra bờ Bắc Cửa Việt để chữa trị kịp thời; chở lương thực vào tiếp tế cho bộ đội ta ở chiến trường miền Nam; chở những cán bộ lãnh đạo làm nhiệm vụ cách mạng. Nhiệm vụ không trực tiếp chiến đấu với quân thù, nhưng luôn đối mặt với nguy hiểm. Máy bay địch bắn phá suốt đêm ngày, dọc bờ biển tàu tuần tra canh chừng nghiêm ngặt, cách một hải lý là Hạm đội 7 của Mỹ - Nguỵ như những “ống nhòm” chĩa thẳng các tuyến đường biển, đường sông, nếu phát hiện có dấu hiệu khả nghi là chúng phóng hoả. Tuyến đường đi của Đội Vận tải mới thật chông gai, thử thách lòng quả cảm của những đội viên TNXP. Tuyến đường sông dài trên 20km từ sông Bến Hải đi qua Cánh Hòm đến Gio Mai rồi mới đến được Cửa Việt. Tuyến sông dài gần gấp đôi so với tuyến đường biển, nhưng là tuyến chính yếu mà Đội Vận tải sử dụng vì nó an toàn hơn. Tuyến đường biển dài 14km từ Vĩnh Quang đến Cửa Việt dù ngắn nhưng rất nguy hiểm bởi bom của địch rải dày đặc, tàu tuần tiễu của địch, rồi Hạm đội 7 của Mỹ - Ngụy đang ráo riết phong toả sự chi viện vào bờ Nam Cửa Việt cho chiến trường Miền Nam. Nếu vận chuyển đường biển là phải do thám quân địch, chọn thời điểm thích hợp và đặc biệt là đêm gió yên biển lặng, hai chiếc thuyền của Đội mới lặng lẽ thực thi nhiệm vụ được giao. Trong hơn 3 năm, anh không nhớ là Đội Vận tải của mình đã chở bao nhiêu chiến sĩ bộ đội qua sông làm nhiệm vụ cách mạng, chở bao nhiêu chuyến lương thực tiếp tế…chỉ biết xong chuyến này là tiếp đến chuyến khác không ngưng nghỉ. Vào cuối năm 1972, khi những cơn rét cuối đông ào ào kéo về, sóng biển ầm ầm, gió từ biển thổi thốc vào rét cắt da, cắt thịt. Chín anh em của Đội Vận tải ẩn nấp trong các hầm chờ tối để thực thi nhiệm vụ, thì bất ngờ bị địch phát hiện, đánh bom trúng vào hầm của bốn anh em trong Đội (Anh Biên, anh Sử, anh Đồng và chị Lượng) đang trú ẩn tại thôn Xuân Tiến (xã Gio Việt), máu xương các anh chị hoà vào nhau, thấm vào mảnh đất quê hương. Nơi các anh chị sinh ra, lớn lên, chiến đấu vì độc lập, tự do, vì lý tưởng cách mạng. Nhắc đến đây, anh Hùng rơm rớm nước mắt nhìn về phía các cồn cát xa thấp thoáng Nghĩa trang xã, nơi những đồng đội của mình đang yên nghỉ. Anh gạt nước mắt kể tiếp: Đội chúng tôi còn lại 5 người, đêm đêm vẫn miệt mài chở những chiến sĩ bộ đội qua bờ Nam Cửa Việt để vào làm nhiệm vụ ở chiến trường Quảng Trị, chiến trường Miền Nam, rồi chở những thương binh ra bờ Bắc để chữa trị. Cứ thế, trong đêm hai chiếc thuyền của Đội qua về không biết mệt mỏi. Anh Hùng kể về một ngày “cảm tử” mà tôi nhớ như in cảm giác của mình từ bất ngờ đến khâm phục về một Đội trưởng quả cảm. Đó là vào một ngày tháng 5 năm 1972, sau một đêm hai chiếc thuyền của Đội chở một Trung đoàn bộ đội qua sông. Đến sáng, 5 anh em trong Đội tìm nơi trú ấn, nghỉ ngơi chờ đêm xuống lại tiếp tục công việc. Hai chiếc thuyền đã được đưa vào nguỵ trang ở các bụi lau lách dọc triền sông. Một đêm chở toàn bộ một Trung đoàn, các anh em mệt lả người. Đang thiu thiu ngủ thì anh Hùng phát hiện chiếc thuyền do mình cầm lái bất ngờ tuột dây neo đang lao về hướng cửa biển. Anh không kịp gọi anh em trong đội, một mình chạy dọc bờ sông, đến khi đuổi kịp thì chiếc thuyền đã sang bờ bên kia chuẩn bị trôi ra biển. Anh biết, chỉ cần chiếc thuyền chạm tới cửa biển thì bao nhiêu bom từ trường mà địch rải dày đặc sẽ làm nổ tung. Anh không kịp suy nghĩ gì nữa, bất chấp nguy hiểm, anh lao ra dòng nước đang chảy xiết bơi một mạch. Anh cố gắng hết sức lực bình sinh, cuối cùng cũng đuổi kịp chiếc thuyền của mình đang ngấp nghé cửa biển. Kéo được chiếc thuyền vào bờ là anh lả đi! Anh bảo: Lúc đó chẳng còn sợ gì cả, chỉ biết làm sao kéo được thuyền về, để tối có thuyền mà chở các anh bộ đội qua sông làm nhiệm vụ cách mạng. Một lần, anh cùng anh Nguyễn Ái Vân (lúc đó là Trung đội trưởng phụ trách chung của xã) phát hiện một chiếc tàu tuần tiễu của Mỹ - Nguỵ bỏ lại ở bờ biển. Hai anh em dùng dây buộc vào hai chiếc thuyền của mình để kéo đi dọc bờ biển, được một đoạn thì Hạm đội 7 của địch phát hiện, chúng nã đạn pháo liên tục. Không may, dây kéo của chiếc thuyền của anh Vân trúng đạn đứt dây, không kiểm soát được một mình lao thẳng về hướng biển Cửa Tùng, để lại anh Hùng một mình chống chọi với đạn pháo của địch bắn tới tấp, chiếc thuyền thì xoay tròn bởi sợi dây thừng buộc chặt vào đầu tàu tuần tiễu của địch. May thay, 3 giờ sáng anh Vân kịp quay lại, hai anh em kéo chiếc tàu tuần tiễu của địch giao lại cho cấp trên trước khi trời sáng. Những ký ức của người Đội trưởng Đội Vận tải cứ ùa về, tôi lại một lần được đắm chìm trong những kỷ niệm hào hùng của dân tộc, một thời mà toàn dân ra trận, toàn dân đánh giặc. Rất nhiều, rất nhiều những Đội Vận tải như các anh chị trên khắp chiều dài đất nước, bắc những chiếc cầu cách mạng với tinh thần chiến đấu và sự hy sinh cao cả..../. Lê Như Tâm