Nhạc sĩ Trần Hoàn (1928-2003) là tác giả của nhiều ca khúc nổi tiếng như Sơn nữ ca, Lời người ra đi, Lời Bác dặn trước lúc đi xa, Kể chuyện người cộng sản, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm... Ông còn từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam. Trần Hoàn tên thật là Nguyễn Tăng Hích, sinh năm 1928, quê quán Hải Lăng, Quảng Trị. Bố của ông là người rất yêu thích âm nhạc và sành sỏi về ca Huế, hát bội, nhạc Tây. Trần Hoàn tự học nhạc và bắt đầu sáng tác từ năm 16, 17 tuổi. Năm 1935 Trần Hoàn theo học tại Quốc học Huế. Ông bắt đầu nối tiếng với ca khúc Sơn nữ ca viết năm 20 tuổi khi đang ở chiến khu Quảng Bình. Trần Hoàn tham gia kháng chiến, đến ngày hoà bình lập lại, ông về làm giám đốc Sở Văn hóa Hải Phòng. Năm 1964 ông trở lại chiến trường Bình Trị Thiên với bút danh Hồ Thuận An, thời gian này ông sáng tác những bài hát như Tiếng hát trên Gio Cam giải phóng, Lời ru trên nương... Sau 1975, Trần Hoàn là trưởng Ty Thông tin Bình Trị Thiên. Sau đó ông giữ các chức vụ trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy Hà Nội, bộ trưởng Bộ Thông tin, bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông Tin cho đến ngày nghỉ hưu rồi Phó ban Văn hóa - Tư tưởng Trung ương. Những sáng tác của Trần Hoàn khá phong phú, từ những ca khúc thời kỳ đầu mang tính trữ tình như Sơn nữ ca, Lời người ra đi... cho tới những bài hát Lời ru trên nương, Tình ca mùa xuân, Nắng tháng Ba, Một mùa xuân nho nhỏ... và mang đậm chất dân ca như Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Trần Hoàn còn là một trong những người có liên quan ít nhiều tới vụ Nhân văn - Giai phẩm và nhiều người cho rằng ông đã trực tiếp đánh nhạc sĩ Văn Cao. Ông mất ngày 23 tháng 11 năm 2003. Nguồn: http://vi.wikipedia.org
Tổng bí thư Lê Duẩn-người con Quảng Trị yêu thương Lê Duẩn (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1960 đến 1976, Tổng bí thư Đảng Cộng Lê Duẩn tên thật là Lê Văn Nhuận, sinh tại làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sau đó cậu bé Lê Duẩn theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng huyện, ở bên kia dòng sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành. Tháng 5 năm 1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng. Năm 1927, nhân viên thư ký đề-pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại Hà Nội. Năm 1928, ông tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1929, tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ. Ngày 20 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La và Côn Đảo. Năm 1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm 1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6. Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền. Năm 1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh. Từ 1946 đến 1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam). Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng phòng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do Nguyễn Bình làm Tư lệnh. Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc. Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam. Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng. Tháng 9/1960, tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương. Tại các Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và lần thứ V (3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí thư Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984. Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương đảng giao bớt một số quyền của ông cho Trường Chinh. Ông là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII. Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác. Ông qua đời ngày 10 tháng 7 năm 1986 tại Hà Nộisản Việt Nam từ 1976 đến 1986. Ý kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nhìn chiến lược, có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng, nhất là trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975[1][2]. Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo đảng và các học giả trong nước đóng góp nổi bật của ông là năm 1939, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, ông đã góp phần cho sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương (11-1939) - chuyển hướng đấu tranh cách mạng; chỉ đạo kháng Pháp tại miền nam trong đó đáng chú ý là ( theo lời Trần Hữu Phước) "Xứ ủy Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của đồng chí Lê Duẩn thực hiện chính sách ruộng đất “người nông dân có ruộng cày” không phải thông qua cuộc phát động tước đoạt bằng bạo lực, tiến hành đấu tố, cưỡng bức địa chủ; mà bằng chủ trương và biện pháp đúng đắn, thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ lúc ấy"[3], đặc biệt vai trò lớn của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam. Chính ông là người viết "Đề cương cách mạng Miền Nam' ( sau được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng 1-1959). Theo ông Võ Văn Kiệt: "Đề cương Cách mạng miền Nam” được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8 năm 1956 ngay tại Sài gòn, ở số nhà 29 đường Hùynh Khương Ninh, quận 1 Sài Gòn, nay là Tp. HCM."[4]. Còn theo lời Hoàng Tùng: "Trong quá trình chấp bút dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa Hai), cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều hoàn toàn chưa được biết là tại cơ quan Xứ ủy Nam Bộ (số 290 Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn), từ khoảng cuối mùa khô 1955 đến tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn đã chủ động viết và cơ bản hoàn thành bản Đề cương cách mạng miền Nam".[5] "Chúng tôi cũng không được biết tháng 12/1956 và mấy tháng đầu năm 1957, tại Nông Pênh, bản Đề cương cách mạng miền Nam được thảo luận kỹ (nhưng chưa được chính thức thông qua) trong Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng. Do đó, cả anh Võ Nguyên Giáp và hai chúng tôi đều chưa được đọc bản Đề cương ấy. Trong Đề cương, anh Lê Duẩn sớm nêu lên ý tưởng sâu sắc sử dụng bạo lực cách mạng cùng với ý tưởng tập hợp toàn thể các tầng lớp nhân dân, ý tưởng tổng khởi nghĩa giành chính quyền để giải phóng miền Nam. Như vậy, giữa Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn và dự thảo Nghị quyết 15 (Khóa hai) do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo tôi và Trần Quang Huy chấp bút có sự trùng hợp cơ bản về ý tưởng dùng bạo lực cách mạng và ý tưởng tập hợp toàn thể dân tộc để giải phóng miền Nam. Sự khác nhau giữa hai bản thuộc về lời văn và một vài vấn đề cụ thể'". [6] Theo Đại tướng Lê Đức Anh:"Bản Nghị quyết được hình thành trên cơ sở định hướng năm 1954 của Hồ Chủ tịch và của "Đề cương cách mạng miền Nam"[7] "Một điểm nữa trong chỉ đạo là Lê Duẩn rất chú ý đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức Thọ rằng: "Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút và mình không rút",[8][9]. Nhưng từ lâu có những ý kiến cho rằng nguyên nhân chính của mười năm tụt dốc và khủng hoảng trầm trọng về nhiều mặt của cả nước sau 1975 bởi sự lãnh đạo trực tiếp của ông. Ông đã có những sai lầm về chính sách kinh tế [10]. Nền kinh tế quan liêu, bao cấp ở Việt Nam thực sự chấm dứt sau khi ông mất. Bên cạnh đó, ông còn bị cho là người chuyên quyền khi nắm giữ vị trí Tổng bí thư (Bí thư thứ nhất từ năm 1960-1986) suốt 26 năm. Đáng chú ý, thời gian Chủ tịch Tôn Đức Thắng còn sống, các diễn văn tại các Hội nghị, các cuộc mít tinh quan trọng có sự góp mặt của Tôn Đức Thắng và Lê Duẩn thì đều xướng tên ông Tôn Đức Thắng lên trước, rồi mới xướng tên ông Lê Duẩn.[11].[12][13]. Pierre Asselin từng nhận xét về Lê Duẩn: "Ông khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng"[14]. Tuy nhiên Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc từ chối cho rằng vai trò của Tướng Giáp bị làm cho lu mờ bởi những thành viên Bộ Chính trị Đảng CSVN trong giai đoạn cuộc chiến tranh miền Nam, cũng như cho rằng không có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị miền Bắc lúc bấy giờ, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái "chủ hoà"[15]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại viết khác:"Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc…Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo” ( trích từ sách "Lê Duẩn một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam” do NXB Chính trị quốc gia xuất bản 2002). Tuy nhiên cũng trong sách này Võ Nguyên Giáp cũng cho rằng Lê Duẩn phải chịu trách nhiệm về sự khủng hoảng nền kinh tế những năm trước đổi mới trong vai trò là người chủ trì công việc của Ban Chấp hành Trung ương đảng khi đó. Theo Giáo sư Tương Lai trích lại lời Giáo sư Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ: "trong bài trả lời phỏng vấn Vietnamnet ngày 5.4. 2007 cho biết “năm 1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh tế nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại hội VI Đổi Mới… Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không”. Theo GS Tương Lai: "Đáng tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy của nhà lý luận ấy đã bị chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực trạng kinh tế đang trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể không gánh chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin hoặc của tư tưởng giáo điều “tả” khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để vượt ra khỏi những áp đặt".[16] Giáo sư Trần Phương có thuật lại: "Tôi nhớ có lần, vào một buổi sáng, khi nhóm trợ lý chúng tôi đang họp, anh Ba đi vào “quẳng” xuống bàn chúng tôi một tờ báo và nói: “Các anh đọc đi!”. Rồi anh nhếch mép cười, đi ra...Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài dài phê phán anh Kim Ngọc và quan điểm khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh: “Tại sao Anh không công khai phản bác lại quan điểm bảo thủ của bài báo...”. Anh nói: “Quan trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng...”. Ông Trần Phương cũng cho rằng: "Ai đó đã nói rằng anh Ba không bảo vệ được Kim Ngọc là không đúng. Sau bài báo đó, Kim Ngọc vẫn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú".".[17]. Theo những người trợ lý thân cận nhất của ông kể lại thì thái độ của ông đối với khoán ở Vĩnh Phúc ( 1966-196 khác với nhiều người lúc đó. Nhưng ông chưa kịp can thiệp thì đã có lệnh đình chỉ, mà đã có lệnh rồi thì không thể đảo ngược lại được. Ông Đậu ngọc Xuân là trợ lý của ông kể lai: Khi Khoán Vính phúc đã bị đình chỉ, ông chỉ còn biết lên thăm Kim Ngọc và bày tỏ sự đồng tình với những tìm tòi của Kim Ngọc, an ủi về việc những sáng kiến quá mới như thế thường không dễ đi ngay vào cuộc sống...[18] Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: "Cầm quyền mà không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào? Anh muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo... Tôi vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã nổi nóng với Chính phủ: “Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống và nước lã cho dân thì nên từ chức đi...”. Anh Tô (Phạm Văn Đồng) không nói một lời. Tôi rất thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ. Muốn có rau muống thì phải có gạo. Muốn có nước lã (nước máy) thì phải có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều gặp khó khăn".[19]. Công cuộc đổi mới chính thức được phát động sau khi Lê Duẩn mất và Trường Chinh lên làm Tổng Bí thư. Di sản tư tưởng chính trị và kinh tế của Lê Duẩn như ba dòng thác cách mạng, làm chủ tập thể... hiện vẫn đang bàn cãi để có thể có một đánh giá nghiêm túc[20]. Trong thời gian ông nắm quyền cao nhất Việt Nam cũng xảy ra hai cuộc chiến tranh: Chiến tranh biên giới Tây Nam và Chiến tranh biên giới phía Bắc. Dầu sao, khi ông mất, Tổng thư ký Liên hiệp quốc khi đó đã điện "... Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam...”. (Điện của Tổng thư ký liên hiệp quốc Javier Pérez de Cuéllar (Báo Nhân Dân ngày 16.7.1986))[ Ông có hai người vợ: Bà Lê Thị Sương (25 tháng 12, 1910 -6 tháng 8, 200[22] kết hôn năm 1929 ở quê. Có bốn người con: Lê Thạch Hãn, đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, Cục trưởng cục quản lý các nhà trường quân đội, đã nghỉ hưu Lê Thị Cừ Lê Tuyết Hồng Lê Thị Diệu Muội, tiến sĩ Bà Nguyễn Thụy Nga, kết hôn năm 1948 tại miền Tây Nam Bộ, do Lê Đức Thọ làm mối, Phạm Hùng làm chủ hôn, khi Lê Duẩn vẫn còn hôn nhân chính thức với người vợ đầu. Sau 1975, bà là Phó Tổng biên tập phụ trách hành chánh trị sự của báo Sài Gòn Giải phóng. Hiện bà sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Có ba người con: Lê Vũ Anh, lấy giáo sư toán học Viktor Maslov người Nga ở Moskva, mất khi sinh con thứ ba. Lê Kiên Thành (sinh 1955), tiến sĩ vật lý, nay là doanh nhân. Lê Kiên Trung (sinh 195, Cục trưởng Cục Hải quan Tp.HCM (từ tháng 12 năm 2007) Nhắc đến mẹ mình, ông nói: "Tôi thương mẹ tôi, vì vậy bây giờ ở Hà Nội ngày nào tôi cũng ăn thêm vài củ khoai lang để nhớ mẹ tôi Câu nói nổi tiếng: "Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh", (Tết 1976) nguồni.wikipedia.org
Đại tướng Đoàn Khuê Đại tướng Đoàn Khuê (1923 – 1999) bí danh Võ Tiến Trình; là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1991 đến năm 1997. Tiểu sử Đoàn Khuê sinh ngày 29 tháng 10 năm 1923; Mất ngày 16 tháng 1 năm 1999; Quê quán: Thôn Gia Đẳng, Xã Triệu Tân, Huyện Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị (nay là Xã Triệu Lăng, Huyện Triệu Phong, Tỉnh Quảng Trị). Trú quán: Số nhà 30 Lý Nam Đế, Phường Cửa Đông, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1945 (trước Cách mạng Tháng Tám), tham gia lập Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Quảng Bình (tháng 6 năm 1945), làm ủy viên quân sự của Tỉnh ủy. Ông nhập ngũ tháng 9 năm 1945, và trong kháng chiến chống Pháp đã giữ các chức vụ chính trị viên Trường Lục quân ở Quảng Ngãi, chính ủy trung đoàn, Phó chính ủy sư đoàn. Ông từng là chính ủy sư đoàn 351 pháo binh, Phó chính ủy Quân khu IV, Tư lệnh Quân khu V, rồi Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Thời kỳ 1987-1991 ông là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, sau đó làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông được phong hàm Thiếu tướng năm 1974, Trung tướng năm 1980, Thượng tướng năm 1984, Đại tướng năm 1990. Ông là ủy viên Trung ương Đảng từ khóa IV đến khóa VII, ủy viên Bộ Chính trị các khóa VI, VII (1991 đến lúc mất), đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII,IX. Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Sao vàng (truy tặng năm 2007), Huân chương Hồ Chí Minh, 2 Huân chương Quân công hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác Tác phẩm Nửa thế kỷ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng/ Đoàn Khuê.- In lần thứ 2.- H.: Quân đội nhân dân, 2004.- 215tr; 19cm Tóm tắt nội dung: Gồm những bài viết và bài nói của Đại tướng Đoàn Khuê trong 2 năm 1994 - 1995 về đường lối chính trị, quân sự của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Định hướng cho nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và phát huy truyền thống đoàn kết hiệp đồng, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa Gia đình Thân mẫu của ông là bà Nguyễn Thị Dương (1902). Bà có 5 người con là Liệt sĩ, được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Ông có 2 người em trai là sĩ quan cao cấp của quân đội là Trung tướng Đoàn Chương (nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược quân sự) và Đại tá Đoàn Thúy. Danh hiệu Tôn vinh Huân chương Hồ Chí Minh. Huân chương Quân công hạng nhất. Huân chương Chiến công hạng nhất. Huân chương Kháng chiến hạng nhất. Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất. Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba. Huân chương Quân kỳ quyết thắng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Đạo diễn Lê Cung Bắc Lê Cung Bắc (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1937[1] tại Quảng Trị) là diễn viên, đạo diễn, NSƯT. Tên tuổi của Ông gắn liền với những bộ phim như Nhịp đập trái tim, Người đẹp Tây Đô, Vó ngựa trời Nam, v.v... Tiểu sử và sự nghiệp Lê Cung Bắc tốt nghiệp trường Chính trị - Kinh doanh, Viện Đại học Đà Lạt, Học cao học Quản trị kinh doanh, Có thời gian viết báo cho các tờ Sóng Thần, Tin Sáng[2]... NSƯT Lê Cung Bắc xuất thân là một diễn viên với hơn 100 vai diễn trong 70 phim điện ảnh và 80 phim truyền hình. Thời gian sau này, ngoài tham gia đóng phim anh còn là đạo diễn của rất nhiều bộ phim thu hút khán giả như Dòng đời, Người đẹp Tây Đô[3]… Từ khi đóng phim, được hóa thân vào nhiều loại vai, ý tưởng làm phim cứ đến trong đầu. Bộ phim nhựa đầu tay của ông là Nhịp đập trái tim, được thực hiên năm 1994, sau đó đến Người đẹp Tây Đô, được coi là bộ phim truyền hình nhiều tập đầu tiên của hãng TFS được bấm máy vào năm 1995. Nghề đạo diễn lại cuốn hút ông từ đó, vào Dòng đời, vào Cõi tình, Bẫy tình, vào Duyên trần thoát tục… Đây được xem là khởi nghiệp nghề đạo diễn của NSƯT Lê Cung Bắc[4]. Đời sống riêng tư Ít ai biết đạo diễn Lê Cung Bắc là người ngâm thơ rất hay[5] giống như người em đồng hương[6] Tạ Nghi Lễ[7] của ông. Lúc cao hứng, ông cất giọng ngâm thật truyền cảm, với những vần thơ Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ, Tây tiến của Quang Dũng. Những phim tham gia Vị đắng tình yêu, diễn viên chính Đạo diễn phim: Nhịp đập trái tim Người đẹp Tây Đô Dấu ấn của quỷ Dòng đời Lối nhỏ vào đời Cõi tình Bẫy tình Duyên trần thoát tục Không Thể Rẽ Trái Xóm Cũ Vó ngựa trời Nam Chiếc lá thời gian
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường - Triệu Phong Hoàng Phủ Ngọc Tường (sinh 9 tháng 9 năm 1937- ) là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (197. Tiểu sử sơ lược Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh tại thành phố Huế, nhưng quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ở Huế, ông học học hết bậc trung học. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960-1966, dạy tại trường Quốc Học Huế. Năm 1966-1975, ông thoát ly lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ bằng hoạt động văn nghệ. Ông từng là Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Hiện nay ông đang sống ở Huế. Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, cùng đợt với vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Tác phẩm Thể loại bút ký: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn lâu (1972). Rất nhiều ánh lửa (1979, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1980) Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984) Bản di chúc của cỏ lau (truyện ký, 1984) Hoa trái quanh tôi (1995) Huế, di tích và con người (1996) Ngọn núi ảo ảnh (2000) Trong mắt tôi (2001) Rượu hồng đào (truyện ký, 2001) Thể loại nhàn đàm: Nhàn Đàm (1997) Miền gái đẹp (2001) Thể loại thơ: Những dấu chân qua thành phố (1976) Người hái phù dung (1995) Ngoài ra, vào năm 2002 nhà xuất bản Trẻ đã cho xuất bản Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường gồm 4 tập. Nghiệp văn chương Đánh giá chung về sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sách Ngữ văn 12 có đoạn viết: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí...Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa[2]. Trích thêm ý kiến của người trong giới: Nhà văn Nguyễn Tuân: Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa"[3]. Nhà văn Nguyên Ngọc: Trong một cuốn sách gần đây của anh, viết và in ngay giữa những ngày anh đang vật lộn với cơn bệnh nặng-chứng tỏ ở anh một đức tính dũng cảm và một nghị lực phi thường của một người lao động nghệ thuật-anh tự coi mình là "người ham chơi". Quả thật, anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước, với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ...[4] Nhà thơ Hoàng Cát: Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được...[5] Nhà thơ Ngô Minh: Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người đọc...thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết...thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt ruột...Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là một nhận xét xác đáng[6]. Trên Website vnexpress: Dường như trong suốt cuộc đời mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị ám ảnh bởi hoa. Điều đó, dù cuộc đời lận đận những ngày tù cộng với những năm tháng bôn ba khắc nghiệt của chiến tranh vẫn không tước đoạt nổi của ông...Ông viết rất nhiều về hoa và đặc biệt, ông bị ám ảnh bởi sắc diện phù dung. [7]. Trích sáng tácCó một buổi chiều nào như chiều xưa Anh về trên cát nóng Đường dài vành môi khát bỏng Em đến dịu dàng như một cơn mưa. ... Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi Cho tôi chiếc hôn nồng cháy Nỗi đau bắt đầu từ đấy Ngọt ngào như trái nho tươi. Có buổi chiều nào mộng mị vây quanh Nửa vành mi cong hờn dỗi Em xõa muộn sầu trên gối Rối bời như mớ tơ xanh. Có buổi chiều nào hình như chưa nguôi Vầng trăng sáng màu vĩnh viễn Em có lời thề dâng hiến Cho anh trọn một đời người. Có buổi chiều nào như chiều nay Căn phòng anh bóng tối dâng đầy Anh lặng thầm như là cái bóng Hoa tàn một mình em không hay. (trích Dạ Khúc) [8] Và một đoạn bút ký: ...Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư nên trong chiến tranh thoát khỏi bị xe Mỹ càn ủi. Đúng một trăm năm sau ngày Hoàng Diệu tuẫn tiết, xã đã trùng tu lại nơi yên nghỉ của cụ, quy cách khiêm tốn như nó vốn thế. Tường lăng sơn trắng phơn phớt hồng nỗi lên màu lá xanh, bát ngát và trong sáng, đúng là giấc ngủ của người anh hùng. Người sinh ra ở gò Nổi để chết dưới chân thành Hà Nội, xương thịt trở về với đất làng mà chính khí vang động sử sách,"trời cao bể rộng đất dày-núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi". Trước mặt người ta đọc thấy cặp câu đối viếng của Tôn Thất Thuyết: "Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện/ Bình sinh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khả vô tâm" (Lấy cái chết để thành tên tuổi, xưa nay người anh hùng đâu muốn thế/ Một thời trung nghĩa lòng không thể hổ thẹn khi nhìn đai cuộc ngày nay)... Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng. Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân!...[9] nguồn: http://vi.wikipedia.org
Danh họa Lê Bá Đảng - Triệu Phong Lê Bá Đảng sinh ngày 26 tháng 7 năm 1921 tại làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sang Pháp năm 1939, đã tham gia vào những đội quân chống phát xít của nước Pháp, bị Đức quốc xã bắt làm tù binh. Học tại Học viện Nghệ thuật Toulouse và trở thành một hoạ sĩ nổi tiếng ở châu Âu. Triển lãm đầu tiên ra mắt tại Paris năm 1950. Năm 1989 nhận giải thưởng "Nghệ sĩ có tài năng lớn và tư tưởng nhân đạo" của Việt Quốc tế Saint-Louis của Mỹ; Năm 1992 được Trung tâm tiểu sử quốc tế thuộc Đại học Tổng hợp Cambridge của Anh đưa vào danh mục những người có tên tuổi của thế giới; năm 1994 được Nhà nước Pháp tặng "Huân chương Văn hóa nghệ thuật Pháp". Được giới nghệ thuật đánh giá là bậc thầy của hai thế giới Đông - Tây. Năm 2005, Hoạ sĩ được nhận huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhận danh hiệu Vinh danh nước Việt do báo điện tử Vietnam Net phối hợp với UBMTTQ Việt Nam trao tặng. Năm 2006, hoạ sĩ cùng với UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế xây dựng Trung tâm Nghệ thuật Lê Bá Đảng tại 15 Lê Lợi, Thành phố Huế Những sự kiện sáng tạo 1964-1965 Created the "Eight Horses" in collaboration with CHOU Ling, his first portfolio in relief and without color nor ink. 1967 "La Nature Prie Sans Paroles" (Nature prays without words), lithographies. 1968 Portfolio of Horse lithographies. 1969-1973 "Paysage Indomptable" (Indomitable Landscape) and sculptures about Vietnam 1974 "The Ten Horses" lithographies portfolio 1976 "Fantasies", a suite of lithographies 1977 "Flower Series", a series of lebadangraphies 1978 LEBADANG creates the costumes and set designs for the opera "MY CHAU-TRONG TUY " performed at the National Opera Theatre of Paris. This lyrical French-vietnamese creation was a first and an event. 1981 "La Comédie Humaine". Its themes were translated into the mediums of sculpture, lithography, watercolors and paintings. 1984 "The Art to Wear". It is jewelry with art, jewelry with culture. 1985 LEBADANG creates "Spaces". 1989 Laureate of the Award of the International Institute of Saint-Louis, U.S.A. 1990 "Spaces" exhibitions in the U.S.A., Japan and Germany. 1991 LEBADANG is commissioned to realize the sword of Academician for Professor Jacques RUFFIE Các triển lãm cá nhân: 1950 Librairie du Globe, Paris 1952 Galerie de l'Odeon, Paris 1953 Galerie de l'Odeon, Paris 1956 Au Seuil Etroit, Paris 1957 Galerie Cezanne, Cannes 1958 Au Seuil Etroit, Paris Galerie Cezanne, Cannes Château de la Napoule 1960 Au Seuil Etroit, Paris Galerie Source, Aix-en-Provence 1962 Galerie INA Fuchs, Dusseldorf, Germany 1963 Galerie Mignon Massart, Nantes 1966 The Newman Contemporary Art Gallery, Philadelphia Cincinnati Art Museum 1972 Galerie Fontaine, Paris Frost and Reed Gallery, London 1974 Kuntsmesse, Dusseldorf Circle Galleries : New-York, Chicago, San Francisco, Los Angeles, San Diego 1975 Kuntsmesse, Koln 1977 Galerie Hautot, Paris 1978 Wonderbank Gallery, Frankfurt 1979 Circle Galleries : New-York, Los Angeles, San Francisco, San Diego Cherry Creek Gallery of Fine Art, Denver 1980 Circle Gallery, Chicago Clayton Art Gallery, Clayton Genner Gallery, Duisbourg Wonderbank Gallery, Frankfurt 1981 Circle Galleries : Dallas, Los Angeles, Houston The Owl Gallery, San Francisco Walton Street Gallery, Chicago Gallery in the Square, Boston 1982 Circle Galleries : New-York, Pittsburg, San Diego, San Jose, Northbrook Carolyn Summers Gallery, New Orleans Altamonte, Springs Cherry Creek Gallery of Fine Art, Denver Clayton Art Gallery, Clayton The Old Olive Tree, Scottsdale Pavilion Gallery, Portland Ludeke Gallery, Cincinnati Pioneer Square Gallery, Seattle 1983 Circle Galleries : Chicago, San Diego, New-York, Promenade Gallery, Woodland Hills 1984 Circle Galleries : Houston, Northbrook, San Francisco, San Jose, Miami Pioneer Square Gallery, Seattle Congress Square Gallery, Portland Gallery in the Square, Boston 1985 Circle Galleries : New-York, Chicago, New-Orleans, Pittsburg, Los Angeles Cherry Creek Gallery of Fine Art, Denver Promenade Gallery, Woodland Hills 1986 Circle Galleries : New-York, Northbrook, Chicago, San Francisco 1987 Circle Galleries : New-York, Chicago, Los Angeles Japan : Osaka, Tokyo, Kyoto, Nagoya, Ashiya 1988 U.S.A., Japan, Germany 1989 Award from The International Institute of Saint-Louis 1990 "Spaces" exhibitions 1991 Commissioned to make the sword of Academician for Professor Jacques RUFFIE 1992 Vietnam : Exhibition in his native village, Bich-La-Dong, Quang-Tri Province, Hue, to honor the memory of his father and his ancestors 1994 Was made "Chevalier des Arts et des Lettres", Culture Ministry, France U.S.A. : Park West Gallery, Detroit-Southfield 1995 Germany : Herburger Gallery, Saarbrucken 1996 India : Solo exhibition, Birla Academy of Art and Culture, Calcutta 1997 Creation of big "Spaces" (300 sq.m, 10m high) in the quarries of the medieval village of the Baux de Provence, at the "Cathedral of Images" until 2002 2002 Hô Chi Minh Museum, Huê International Festival, Vietnam 2003 VRG Gallery, rue Jacob, Paris 2004 Hô Chi Minh Museum, Huê International Festival, Vietnam Galerie Hoa Mai, rue Guénégaud, Paris 2005 Bijutsu Sekai Gallery, Ginza, Tokyo, Japan 2006 Le Ba Dang Art center Hue nguồn: Wikipedia tiếng Việt
Nhà thơ Tạ Nghi Lễ - Gio Linh Tạ Nghi Lễ (tên thật: Tạ Lễ, 8 tháng 10, 1951[- 25 tháng 7, 2008) là nhà văn, nhà thơ với bút danh: Tạ Tấn, Hoàng Nguyên, Mai Tấn, Ái Nghi, nổi tiếng với bài thơ “Quê Mình”. Tạ Nghi Lễ còn tham gia đóng phim và được xếp vào hàng kỷ lục Việt Nam Tiểu sử và sự nghiệp Nhà thơ Tạ Nghi Lễ sinh ngày 8-10-1951, tại Gio Linh, Quảng Trị. Ông tốt nghiệp trung học năm 1970, theo học đại học Luật khoa và Văn khoa tại Huế (1970 - 1972), từ năm 1973 đến năm 1975 học trường Quốc gia hành chính Sài Gòn, từ 1975 đến 1996 sống tại Trảng Bom - Đồng Nai, từ năm 1997 đến 2008 sống tại TP.HCM. Tạ Nghi Lễ là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1997 Nhà thơ Tạ Nghi Lễ làm khá nhiều nghề, đầu tiên là dạy học và được biết đến nhiều nhất với tư cách một nhà thơ, nhà báo[7][8]. Những năm sau này, ông còn trở thành gương mặt quen thuộc khi thường xuyên làm nghệ sĩ ngâm thơ trên truyền hình và nhiều nhất là đóng phim Có thể nói, Tạ Nghi Lễ là nhà thơ đi đóng phim thuộc vào hàng kỷ lục của Việt Nam với khoảng 30 bộ phim mà vai đầu tiên ông diễn là trong Người đẹp Tây Đô. (đạo diễn: Lê Cung Bắc) Ông đóng phim không vì sinh kế mà đơn giản vì ham vui. Những vai diễn của Tạ Nghi Lễ thường “đóng khung” trong các vai thầy giáo, linh mục… do ông từng gõ đầu trẻ và cũng là một tín đồ Công giáo nên luôn diễn xuất một cách tự nhiên. Trong bộ phim truyền hình dài tập Hải Nguyệt, ông vào vai một thương gia chủ hãng nước mắm (đây là vai lớn nhất của đời ông), tưởng rằng vai này “trái nghề” nhưng ông cũng “vô ngọt xớt”. Với cái vóc dạng khỏe mạnh, tráng kiện của mình, ông đã làm người ta tin và được mời làm quảng cáo cho những sản phẩm mang lại sức khỏe cho mọi người Tác phẩm đã xuất bản Yêu một người làm thơ , (truyện dài, 1990) Nàng hải sư và tôi, (tập truyện, 1992) Những mảnh đời khác nhau, (tập truyện, 1995) Những khoảng trời trong sáng (tập thơ, 1995) Đi qua lời nguyền, (kịch bản phim - 1997), Ngày về, (kịch bản phim - 1999) Đời sống riêng tư Tạ Nghi Lễ là người em đồng hương của đạo diễn Lê Cung Bắc cũng là đồng hương của nhà văn Xuân Đức và ca sĩ Vân Khánh nguồn: http://vi.wikipedia.org
Nghệ sỹ Châu Loan - Vĩnh Linh Châu Loan (1926 - 24 tháng 12 năm 1972) là một nghệ sĩ ngâm thơ và ca Huế. Bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào đợt 1 (1984). Bà tên thật Bùi Thị Loan, sinh năm 1926 tại làng Tùng Luật, xã Vĩnh Giang, Vĩnh Linh, Quảng Trị. Thân sinh của bà là cụ Bùi Mè, học trò cụ Nguyễn Như Bá (cụ Như Bá là người truyền bá nghề hát bội và hò Huế cho làng, là ông của nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi và nghệ sĩ ưu tú Ái Chủng). Từ năm 7 tuổi, bà đã được thân phụ dạy đàn hát và theo ông vào Huế sống. Ngoài học đàn, bà còn học hát ca Huế, dân ca Bình Trị Thiên và miền Trung. Lớn lên bà có chất giọng đẹp "hoàn hảo": êm dịu, hơi dài, vang vọng và uyển chuyển[1]. Châu Loan đi hát từ năm 15 tuổi. Năm 1947, bà theo cha ra Hà Nội, cộng tác với Đài phát thanh Pháp Á. Năm 1954, hòa bình lập lại, bà làm việc tại Tổ ca nhạc miền Trung, Ban âm nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 1957, bà được cử đi dự Đại hội thanh niên thế giới lần thứ nhất tại Warszawa, Ba Lan. Bà đã giới thiệu ở liên hoan những điệu dân ca miền Trung như điệu Hò mái nhì, hò mái đẩy... Trong những năm chiến tranh, bà được đoàn ca nhạc của Đài đi biểu diễn nhiều nơi từ Việt Bắc, Tây Bắc, hải đảo cho đến vĩ tuyến 17. Bà đã đưa chất liệu âm nhạc Huế vào thơ, xử lí sáng tạo âm thanh ca Huế và chất liệu Huế trong thơ. Những bản thu của bà được phát sóng rộng trên sóng của Đài, đặc biệt là qua những bài thơ của Tố Hữu như Ba mươi năm đời ta có Đảng, Bài ca xuân 1961, Mẹ Suốt... Nhiều nghệ sĩ ngâm thơ đã học tập phong cách ngâm này của bà. Bà mất vì bệnh ung thư vào chiều Noel năm 1972[2]. Châu Loan là mẹ của nhạc sĩ Quốc Trường.
Lê Thế Hiếu- phó toàn quyền ở Úc Lê Văn Hiếu (sinh năm 1954) là Phó Toàn quyền tiểu bang Nam Úc (Lieutenant Governor, có nơi viết là "Phó Thống đốc") từ tháng 9 năm 2007, với nhiệm kỳ 5 năm. Theo hãng thông tấn Australian Broadcasting Corporation, ông Hiếu là người Úc gốc Việt nắm chức vụ chính trị cao nhất trong chính phủ ở nước ngoài từ xưa đến nay, và cũng là người gốc châu Á đầu tiên được nhận chức vụ này ở Úc Tiểu sử Ông Hiếu sinh năm 1954 tại Quảng Trị, mồ côi cha từ nhỏ nhưng được đi học. Ông tốt nghiệp trung học tại Đà Nẵng và khoa Chính trị Kinh doanh tại Đại học Đà Lạt. Vào tháng 11 năm 1977 ông là một trong số thuyền nhân tị nạn dùng thuyền sang thẳng tới Darwin (Úc). Tại Úc, ông tốt nghiệp cử nhân về kinh tế và kế toán cũng như bằng cao học (thạc sĩ) về Quản trị Hành chánh (Master in Business Administration - MBA) từ Đại học Nam Úc. Ông là thành viên của Hiệp hội Kế toán gia Úc (CPA) và là thành viên của Học viện Dịch vụ Tài chánh Úc (Financial Services Institute of Australia hay Finsia). Ông là giảng viên tại Học viện Finsia cũng như Học viện Cao đẳng TAFE Adelaide, Đại học Nam Úc và Đại học Adelaide về các môn phiên dịch và luật kinh thương. Sau một thời gian làm việc cho Văn phòng Thuế vụ Liên bang Úc, ông được bổ làm Quản lý Thanh tra (Manager of Regulations) của Ủy ban Đầu tư và Chứng khoán Úc (Australian Securities and Investments Commission - ASIC), có nhiệm vụ giám sát thanh tra công ty, thị trường đầu tư và chứng khoán Úc. Ông là người gốc châu Á đầu tiên nắm giữ chức vụ chủ tịch Ủy ban Đa Văn hóa và Sắc tộc Sự vụ Nam Úc (South Australian Multicultural and Ethnic Affairs Commission - SAMEAC). Ông cũng là người châu Á đầu tiên, và đặc biệt là người Việt đầu tiên, được giữ chức vụ Phó Toàn quyền, đại diện cho Nữ hoàng Anh ở tại tiểu bang Nam Úc. Theo yêu cầu của Mike Rann, vị thủ hiến Nam Úc, sau khi lên chức Phó Toàn quyền, ông Lê Văn Hiếu vẫn tiếp tục kiêm nhiệm chức chủ tịch Hội đồng Đa Văn hóa và Sắc tộc Sự vụ mà ông đảm trách bao năm qua. Toàn quyền tiểu bang Nam Úc hiện nay là Đề đốc Kevin Scarce. Toàn Quyền hoặc Phó Toàn Quyền là những chức vụ có tính cách danh dự và biểu tượng, tuy được đặt cao hơn chức vụ Thủ hiến (Premier) do dân bầu, và có chức năng đại diện cho Nữ hoàng Anh trong những dịp nghi lễ, khi đón tiếp các vị nguyên thủ đến tiểu bang hoặc khai mạc các buổi họp của các cấp chính quyền. Theo truyền thống, vai trò phó toàn quyền do vị chánh án Tối cao Pháp viện tiểu bang đảm nhận. Tuy nhiên từ năm 1967 đến nay truyền thống đó đã thay đổi, chính phủ thường là đề cử để Nữ hoàng bổ nhiệm những người có tiếng tăm có uy tín trong xã hội vào chức vụ này. Ngày 16 tháng 12 năm 2008, ông được nhận bằng tiến sĩ danh dự do Đại học Adelaide trao tặng vì những đóng góp của ông cho các dịch vụ xã hội và cũng là người Việt đầu tiên được một trường đại học cấp bằng tiến sĩ danh dự[2]. Ông đã lập gia đình với bà Phương Lan và có 2 con là Don và Kim. Câu nói: Ông đã đề ra một loạt vai trò mới trong cương vị phó toàn quyền bang Nam Úc, mà trước hết là "trở thành đại sứ và người hoạt động cho những ai gặp khó khăn và thiệt thòi". Ông nói: "Nhiệm vụ thứ hai của tôi là trở thành người phát ngôn cho sự đa dạng vì tôi được hưởng nhiều lợi ích từ sự đa dạng văn hóa". Ngoài ra, ông cũng cho biết sẽ là một cầu nối giữa Nam Úc và thế giới bên ngoài, và cuối cùng là một "biểu tượng của sự thành công" ở tiểu bang này[3]. nguồn: http://vi.wikipedia.org
Thượng tướng Trần Sâm - Hải Lăng Thượng tướng Trần Sâm (1918 - 2009) là một nhà hoạt động quân sự, nhà quản lý khoa học kỹ thuật của quân đội, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV, Bộ trưởng Bộ Vật tư. Ông quê ở xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam Tiểu sử Từ 1953–1957, Cục trưởng Cục Quân lực Bộ Tổng tham mưu. Năm 1959 ông được phong quân hàm Thiếu tướng, giữ chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, kiêm Viện trưởng Viện Kỹ thuật Quân sự Việt Nam, Bộ Quốc phòng (từ năm 1960). Tại đại hội IV năm 1976, ông được bầu ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ chức Bộ trưởng Bộ Vật tư (đến tháng 4 năm 1982). Năm 1982–1986, ông giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng Kinh tế và thứ trưởng Bộ Quốc phòng, hàm Thượng tướng. Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 2009[1] nguồn: http://vi.wikipedia.org
Danh thần Bùi Dục Tài Bùi Dục Tài (chữ Hán: 裴育才), sinh năm Đinh Dậu (1477). Ông là danh thần đời Lê Túc Tông (1487-1504), người xã Câu Nhi[1], thôn Câu Lãm, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Năm Cảnh Thống thứ 5 (Nhâm Tuất, 1502) thời Lê Hiến Tông, ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân[2],đứng thứ 29 trong tổng số 64 người thi đỗ, từ thi Hội đến thi Đình, văn ứng chế đều được khen ngợi, nổi tiếng văn học uyên bác. Được bổ vào Viện Hàn lâm làm Hàn lâm hiệu lí[2], rồi làm Tham chính đạo Thanh Hoa[2]. Năm Hồng Thuận thứ nhất (Kỷ Tỵ, 1509) đời Lê Tương Dực (1495–1516), phải khi trong nước có biến loạn, ông khéo lo cho dân, được thăng Tả Thị lang bộ Lại[2]. Trong nhiệm vụ này, ông thuyên chuyển quan lại rất mực ngay thẳng, đương thời xưng tụng đức tính liêm khiết công bằng. Năm Quang Thiệu thứ nhất (Bính Tý, 1516), đời Lê Chiêu Tông, được cử làm Tham tướng[2], ông càng dốc lòng lo việc kinh lí, bảo an dân chúng. Sau, vì tính ông thẳng thắn, bọn gian thần lấy làm ghen ghét, sát hại ông năm Mậu Dần (151. Sau khi mất được truy tặng Lễ Bộ Thượng thư. Con ông là Bùi Vỹ sau cũng bị hại. Ngày 4 tháng 8 năm 2003 Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị đã ra quyết định số 1513/2003/QĐ-UB về Ban hành quy chế giải thưởng Bùi Dục Tài tỉnh Quảng Trị để khen thưởng cho các học sinh, sinh viên có kết quả cao trong các kỳ thi học sinh, sinh viên giỏi[3 nguồn: //vi.wikipedia.org
Đại thần Nguyễn Hữu Bài -vĩnh linh Tiểu sử và sự nghiệp Ông sinh tại làng Cao Xá, tổng Xuân Hòa, phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Khi nhỏ ông theo học tại trường do tu sĩ Pháp giảng dạy.[1] Vào thời Trung kỳ bị bảo hộ, triều đình Huế cần dùng người biết tiếng Pháp để giúp việc tại Nha Thương-bạc Huế, Nguyễn Hữu Bài cùng nhiều tu sĩ khác được trao công việc. Ông là người có tinh thần minh mẫn và biết sử dụng nhân lực. Năm 1908 Nguyễn Hữu Bài lãnh chức Thượng thư bộ Công. Khi Khâm sứ Pháp Mahé đề nghị đào vàng bạc chôn ở lăng vua Tự Đức, Nguyễn Hữu Bài nhất quyết phản đối. Dân chúng đương thời đặt ra câu tục ngạn: “Phế vua không Khả, đào mả không Bài”.[2] Năm 1923, ông được thăng Thái phó, Võ hiển điện Đại học sĩ, Cơ mật Viện trưởng đại thần. Sau đó ông được giữ chức Thượng thư Bộ Lại. Năm 1933, vua Bảo Đại muốn cải cách triều đình bèn cách chức một lúc 5 Thượng thư các Bộ: Lại, Hình, Binh, Lễ, Công vốn chỉ thông nho học, nhường chỗ cho những người thông thạo học vấn phương Tây. Nguyễn Hữu Bài trong số những người bị bãi chức[3]. Sự kiện này khiến nhà thơ Nguyễn Trọng Cẩn ghi lại bằng bài thơ Đường luật, có chơi chữ tên 5 vị quan các bộ bị bãi chức ở từng câu tương ứng: Năm cụ khi không rớt cái ình, Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh[4]. Bài không đeo nữa xin dâng lại[5], Đàn chẳng ai nghe khéo dở hình[6]. Liệu thế không xong binh chẳng được[7], Liêm đành chịu đói lễ đừng dinh[8]. Công danh như thế là hư hỉ, Đại sự xin nhường kẻ hậu sinh[9]. Ngày 10 tháng 7 năm 1935, Nguyễn Hữu Bài đến dự lễ tấn phong của Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn. Sau buổi tiệc, ông bị cảm. Khâm sứ Graffeuil, Quản đốc Y tế Bác sĩ Terrisse, Công sứ Quảng Trị Alérini đến Phước Môn thăm. Khi thấy bệnh tình ông có vẻ trầm trọng, đưa ông vào nhà thương Huế điều trị. Nhưng bệnh trở chứng nặng thêm và lúc 2 giờ sáng ngày 28 tháng 7 năm 1935, ông từ trần tại tư đệ ở Phủ Cam (Huế), hưởng thọ 73 tuổi. Linh cữu ông được đưa ra mộ phần gần Phước Môn nguồn: http://vi.wikipedia.org
Thiếu tướng Lê Chưởng -triệu phong Tiểu sử tóm tắt Lê Chưởng quê xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; thụ phong quân hàm Thiếu tướng năm 1959. Năm 1931, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1940-1945, ông bị thực dân Pháp bắt giam 5 lần, có lần bị kết án 20 năm tù và đày đi Buôn Mê Thuột. Tháng 5 năm 1945, ông được trả tự do, về xây dựng cơ sở cách mạng và lãnh đạo giành chính quyền ở tỉnh Bình Thuận, chủ bút báo “Quyết thắng” của Việt Minh Trung Bộ. Tháng 3 năm 1946, ông làm Chủ nhiệm Việt Minh Thuận Hóa, Bí thư Thị ủy. Năm 1947-1948, ông nhập ngũ, làm Chính ủy: Mặt trận Đường 9, Trung đoàn 95; tham gia Khu ủy Khu 4 trực tiếp làm Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1949, ông làm Chính ủy, Thường vụ Liên khu ủy Liên khu 4. Năm 1951, ông làm Chính ủy Đại đoàn 304. Năm 1955, ông làm Cục trưởng Cục Tuyên huấn trực thuộc Tổng cục Chính trị. Năm 1959-1961, ông làm Chính ủy: Đoàn 959, Học viện Quân chính. Năm 1966-1971, ông làm Chính ủy, Phó Bí thư Quân khu ủy Quân khu Trị - Thiên. Năm 1971, ông chuyển ngành làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa III. Ông được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác. Lấy từ “http/vi.wikipedia.org/
Nhà văn Xuân Đức - Vĩnh Linh Xuân Đức (1947-) là một nhà văn Việt Nam, được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007 Sự nghiệp Ông tên thật là Nguyễn Xuân Đức, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1947, tại xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ ông sống cùng gia đình ở quê mẹ tại bờ Bắc sông Hiền Lương. Sau khi tốt nghiệp phổ thông tại Trường cấp ba Vĩnh Linh vào năm 1965, ông thoát ly gia đình và tham gia tiểu đoàn 47 quân địa phương Vĩnh Linh chiến đấu tại vùng núi Quảng Trị, phía Nam bờ Hiền Lương. Vốn có kiến thức văn hóa, ông tham gia viết bài cho báo quân đội của Khu đội Vĩnh Linh rồi Quân khu 4. Năm 1976, ông được cử tham gia trại sáng tác của Tổng cục Chính trị. Năm 1979, theo học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông được phân công công tác tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị. Ông công tác tại đây cho đến khi giải ngũ với quân hàm Trung tá vào năm 1990. Sau khi giải ngũ, ông về sống tại thị xã Đông Hà, Quảng Trị và chuyển ngành công tác tại Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Trị, giữ chức Phó giám đốc Sở. Từ năm 1995 đến 2006, ông là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị. Tháng 7 năm 2006, ông nghỉ hưu. Ông trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1982, khi còn đang công tác tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị. Ngày 2 tháng 2 năm 2007, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định trao tặng Giải thưởng Nhà nước chuyên ngành Văn học cho các tác phẩm Người không mang họ (1984), Cửa gió (1982), Tượng đồng đen một chân (198. Ngoài ra, ông còn được trao tặng nhiều giải thưởng khác như: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (cho tiểu thuyết Cửa gió, 1982); Giải thưởng Bộ Quốc phòng (cho vở Người mất tích, 1990); Giải thưởng văn học Bộ Nội vụ (1995) cho tiểu thuyết Người không mang họ; Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu (1995) cho kịch bản Cuộc chơi; Giải thưởng cuộc vận động viết về chiến trang Cách mạng và người chiến sĩ (1994), Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Huy chương vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc cho kịch bản Cái chết chẳng dễ dàng gì... Giải thưởng kịch bản Sân khấu năm 2007 cho kịch bản "Chuyến tàu tốc hành trong đêm" Một số tác phẩm Tác phẩm xuất bản Cửa gió (tiểu thuyết, 2 tập, 1980 - 1984); Người không mang họ (tiểu thuyết, 1984); Hồ sơ một con người (tiểu thuyết, 1985); Những mảnh làng (tiểu thuyết, 1987); Tượng đồng đen một chân (tiểu thuyết, 1987); Tổ quốc (kịch, viết chung với Đào Hồng Cẩm, 1985); Người mất tích (1990); Bến đò xưa lặng lẽ (2004) Kịch bản dàn dựng và công diễn Người mất tích (Đoàn kịch nói quân đội); Chứng chỉ thời gian (Đoàn kịch Hội sân khấu); Đợi đến bao giờ (Đoàn kịch Quảng Trị); Đám cưới ly biệt (Đoàn kịch quân đội); Cuộc chơi (Đoàn kịch thành phố Hồ Chí Minh); Cái chết chẳng dễ dàng gì (Đoàn kịch quân đội); Ám ảnh (Đoàn kịch Quảng Trị) Chuyện dài thế kỷ (Đoàn nghệ thuật Quảng Trị); Đối mặt (Hãng phim Truyền hình Việt Nam)... nguồn; http://vi.wikipedia.org
Nhà khoa học giáo dục Hồ Ngọc Đại - Triệu Phong Giáo sư Hồ Ngọc Đại sinh ngày 3 tháng 4 năm 1936 tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông là một nhà khoa học giáo dục, một nhà tổ chức thực tiễn hoạt động giáo dục, một nhà giáo tràn đầy nhiệt huyết, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục, trước hết là giáo dục tuổi thơ và một nền công nghệ hóa giáo dục, một người "chịu thua tất cả chỉ để được công nghệ giáo dục"[1] . Năm 1968 ông theo học ngành Tâm lý học tại Nga . Năm 1976 hoàn thành luận văn Tiến sĩ về Những vấn đề tâm lý trong giảng dạy Toán học hiện đại cho học sinh cấp 1. Năm 1978, ông sáng lập ra Trung tâm Công nghệ Giáo dục (CGD) để tiến hành thực nghiệm công nghệ giáo dục, công nghệ phát triển con người (cả về lý thuyết lẫn thực tiễn). Quan điểm Cần có một nền Giáo dục mới. Một nền Giáo dục buộc phải mới tận nguyên lý của nó. Một nền Giáo dục tất yếu phải trở thành sự cứu nguy cho dân tộc, nơi trẻ em là những Anh hùng Thời đại. Và một nền Giáo Dục không bị thần bí hóa bằng lời hô hào "sáng tạo" suông. Mà là một nền Giáo dục công nghệ hóa, có thể triển khai theo cái mẫu được các nhà khoa học tạo ra bằng thực nghiệm. Các sách chuyên đề đã xuất bản 1976 Những vấn đề tâm lý học trong việc giảng dạy Toán học hiện đại ở các lớp cấp I (Luận án tiến sĩ tâm lý học, tiếng Nga, Matxcơva). 1985 Bài học là gì?. 1991 Giải pháp giáo dục, NXB Giáo dục. 1995 Đổi mới giáo dục, Trung tâm Công nghệ Giáo dục. 2000 Tâm lý học dạy học, NXB Đại học Quốc gia. 2000 Hồ Ngọc Đại Bài báo, NXB Lao Động. 2003 Cải và cách, NXB Đại học sư phạm. 2009 Chuyện ấy, NXB Lao Động. Đánh giá "“Hiện nay từ đào tạo mẫu giáo đến đào tạo tiến sĩ phương pháp dạy đều giống nhau. Cách làm này sẽ thủ tiêu sức sống cá nhân. Cứ học dồn, cứ nghĩ rằng làm trước là xong mà không thấy chất lượng cuộc sống của mỗi giai đoạn một khác... Bản thân tôi cả một đời dạy học. Với tôi, “trẻ em là cứu tinh của dân tộc”.[2] "“Nói như Giáo sư Hồ Ngọc Đại, ông hạnh phúc nhất khi học trò trường thực nghiệm được trang bị một "đầu óc vũ trang" chứ không phải "đầu óc chất đầy""”.[3]. Hồ Ngọc Đại đã đem cả cuộc đời và học vấn tiến sĩ để “đánh cược” với nền giáo dục truyền thống hiện tại.[4] Hồ Ngọc Đại được biết đến như một nhà giáo dục cấp tiến có nhiều công trình cải cách giáo dục mà điển hình là hệ thống trường thực nghiệm do ông chủ trương trong nhiều năm qua nguồn: http://vi.wikipedia.org
Ca sỹ Bảo Yến Bảo Yến, tên thật: "Kim Yến", là một nữ ca sĩ nổi tiếng của dòng nhạc Dân ca Trung Bộ. Sinh ra tại thành nội Huế, chất giọng của Bảo Yến mang đậm phong cách trữ tình đượm nét của cố đô Huế. Tiểu sử Ca sĩ Bảo Yến sinh ngày 27 tháng 2 năm 1957 tại đồn Mang Cá, Thành Nội Huế (nguyên quán ở Quảng Trị), được nuôi dưỡng từ những giọng hò trên sông Hương, núi Ngự, Bảo Yến đã có một chất giọng thiên phú, một phong cách và một giọng hát đằm thắm, trữ tình. Bảo Yến xuất thân trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Chị đã được cha mình là nghệ sĩ Thủy Triều rèn luyện và hướng nghiệp ngay từ ngày còn bé. Năm 1981, Bảo Yến được Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh mời về cộng tác ghi âm, thu hình trong những chương trình ca nhạc của Đài. Những bài hát thành công nhất của chị giai đoạn đầu tiên là: Nói chuyện với người trong tranh của nhạc sĩ Triều Dâng, Tình ca trên biển của nhạc sĩ Thanh Tùng và Hương thầm của nhạc sĩ Vũ Hoàng. Thông tin thêm về gia đình Cha Bảo Yến là ca sĩ Thủy Triều, người em gái là ca sĩ Nhã Phương và em trai là nhạc sĩ Kim Tuấn. nguồn; http://vi.wikipedia.org
Nhà thơ Chế Lan Viên - Cam Lộ Chế Lan Viên (20 tháng 10 năm 1920 – 19 tháng 6 năm 1989) là một nhà thơ nổi tiếng ở Việt Nam, đồng thời ông cũng là một nhà văn. Tiểu sử và văn nghiệp Quách Tấn, Nguyễn Đình, Chế Lan Viên Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với mầu sắc siêu hình, huyền bí. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương[1]. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 68 tuổi. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng Quan điểm và phong cách sáng tác Con đường thơ của Chế Lan Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ"[2], thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945-195. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn [3] với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm". Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã "đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng"[4], và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi" trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống"[5]. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo, nổi bật nhất là "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa" Các bút danh Ngoài bút danh Chế Lan Viên nổi tiếng, trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu, đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958, ông ký bút danh Thạch Hãn (tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê ông). Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975, ông cũng ký bằng bút danh này. Từ năm 1959 đến năm 1963, trong thời gian làm biên tập báo Văn học, phụ trách chuyên mục Nói chuyện văn thơ, trả lời bạn đọc, ông ký bút danh Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học đã cho xuất bản hai tập Vào nghề và Nói chuyện văn thơ của tác giả Chàng Văn. Trong mục Nụ cười xuân trên báo Văn học, Chế Lan Viên có hai bài viết ngắn là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn ký tên Oah (tức Hoan). Tác phẩm chính Thơ XuânChế Lan Viên Điêu tàn (1937) Gửi các anh (1954) Ánh sáng và phù sa (1960) Hoa ngày thường (1967) Chim báo bão (1967) Những bài thơ đánh giặc (1972) Đối thoại mới (1973) Ngày vĩ đại (1976) Hoa trước lăng Người (1976) Dải đất vùng trời (1976) Hái theo mùa (1977) Hoa trên đá (1984) Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990) Ta gửi cho mình (1986) Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995) Tuyển tập thơ chọn lọc Văn Vàng sao (1942) Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963) Những ngày nổi giận (bút ký, 1966) Bác về quê ta (tạp văn, 1972) Giờ của đô thành (bút ký, 1977) Nàng tiên trên mặt đất (1985) Tiểu luận phê bình Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952) Nói chuyện thơ văn (1960) Vào nghề (1962) Phê bình văn học (1962) Suy nghĩ và bình luận (1971) Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976) Nghĩ cạnh dòng thơ (1981) Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981) Ngoại vi thơ (1987) Nàng và tôi (1992) Chú thích ^ Có tài liệu ghi ông sinh ngày 14 tháng 1 năm 1920. ^ Thực ra trong thời gian 1945-1950 Đảng Cộng sản Việt Nam không hoạt động công khai mà tuyên bố tự giải tán, chỉ có một bộ phận "công khai" mang tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin. ^ Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Long, Trần Hữu Tá, Văn học 12, nhà xuất bản Giáo dục, 2007, trang 119 ^ Sđd, trang 119 ^ Sđd, trang 119 ^ Sđd, trang 119 Nhận xét "'Chế Lan Viên là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Ông luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng. Ông có sự nhận thức sâu sắc về chức năng của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ đối với cuộc sống."[cần dẫn nguồn] "Thành tựu nghệ thuật Chế Lan Viên đã đạt được trong quá trình sáng tạo chính là những đóng góp lớn lao đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam nói riêng và văn chương Việt Nam nói chung. nguồn: http://vi.wikipedia.org
Nhạc sỹ Hoàng Nguyên - QT Hoàng Nguyên Hoàng Nguyên (1932 - 1973) là một nhạc sĩ tên tuổi, tác giả các ca khúc nổi danh như Ai lên xứ hoa đào, Cho người tình lỡ. Ông tên thật là Cao Cự Phúc, sinh 3 tháng 1 1932 tại Quảng Trị. Lúc nhỏ theo học trường Quốc học Huế. Đầu thập niên 1950, Hoàng Nguyên có tham gia kháng chiến nhưng rồi từ bỏ quay về thành phố. Lên ở Đà Lạt, Hoàng Nguyên dạy học tại trường tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh Quang, khu số 4 Đà Lạt, do Thượng tọa Thích Thiện Tấn làm Hiệu trưởng. Thầy giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp đệ lục. Trong ở đó, ông là thày giáo dạy nhạc cho Nguyễn Ánh 9, người sau này trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng đồng thời là nhạc công chơi đàn dương cầm. Năm 1956, trong một đợt lùng bắt ở Đà Lạt, do trong nhà có cả bản Tiến quân ca của nhạc sĩ Văn Cao, người mà Hoàng Nguyên rất ái mộ, Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957. "... Ở Côn Sơn, thiên tình sử của người nghệ sĩ Hoàng Nguyên mở đầu với cảnh tình éo le và tan tác. Là một tài hoa đa dạng, người tù Hoàng Nguyên được vị Chỉ Huy Trưởng đảo Côn Sơn mến chuộng nên đã đưa chàng ta về tư thất dạy Nhạc và Việt văn cho ái nữ ông, tên H. năm đó khoảng 19 tuổi... Mối tình hai người nhóm lên vũ bảo. Trăng ngàn sóng biển đã là môi trường cho tình yêu ngang trái nầy nẩy nở. Chợt khi người con gái của Chúa Đảo mang thai. Mối tình hai nhịp so le bị phát giác. Để giữ thể thống cho gia đình. Vị Chúa Đảo giữ kín chuyện nầy và chỉ bảo riêng với người gây ra tai họa là nhạc sĩ Hoàng Nguyên: ông ta đòi hỏi Hoàng Nguyên phải hợp thức hóa chuyện lứa đôi của hai người với điều kiện vận động cho người nhạc sĩ được trả tự do..." (Lâm Tường Dũ - Tình Sử Nhạc Khúc). Hoàng Nguyên được trả tự do, trở về Sài Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học ở trường tư thục Quốc Anh. Năm 1961, Hoàng Nguyên theo học tại Đại học Sư Phạm Sài Gòn, ban Anh văn. Trong thời gian theo học đại học, Hoàng Nguyên có quen biết với ông Phạm Ngọc Thìn, thị trưởng thành phố Phan Thiết. Bà Phạm Ngọc Thìn là nữ diễn viên Huỳnh Khanh, mến mộ tài năng của Hoàng Nguyên đã nhận ông làm em nuôi. Hoàng Nguyên dạy kèm cho Ngọc Thuận, con gái ông bà Phạm Ngọc Thìn. Hai người yêu nhau và Hoàng Nguyên trở thành con rể ông bà Phạm Ngọc Thìn. Trước đó Hoàng Nguyên có ý định quay lại với cô gái ở Côn Sơn, nhưng cô đã đi lấy chồng. Ca khúc Thuở ấy yêu nhau ra đời trong khoảng thời gian đó. Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Trường Bộ Binh Thủ Đức. Sau đó chuyển về Cục Quân Cụ, dưới quyền của Đại tá nhạc sĩ Anh Việt Trần Văn Trọng và được giao quản lý ban nhạc Hương Thời Gian của Anh Việt. Hương Thời Gian xuất hiện trên truyền thanh và truyền hình Sài Gòn đã thu hút khá đông khán thính giả. Ngày 21 tháng 8 năm 1973 ở Vũng Tàu, Hoàng Nguyên mất do một tai nạn xe hơi Tác phẩm Ai lên xứ hoa đào Anh đi mai về Anh đi về đâu Bài tango cho riêng em Bài thơ hoa đào Cho người tình lỡ Đường nào em đi Đường nào lên Thiên Thai Duyên nước tình trăng Em chờ anh trở lại Lá rụng ven sông Lời dặn dò Lời người ở lại Sao em không đến Tà áo tím Thuở ấy yêu nhau Tiếng hai đêm NGUỒN: http://vi.wikipedia.org/