Mình mở màn vài cái sưu tầm được, anh em có bài vùng nào thì bổ sung vùng đó ha, cái nào dùng được thì lấy đem lên Wiki thôi, lâu rồi ko thấy anh em nhúc nhích gì, các thành viên đăng ký góp sức cùng dự án cũng bặt tăm Kỳ 1: Tòa lâu đài cổ trong lòng đất Quảng Trị Làng địa đạo Vịnh Mốc - Một toà lâu đài cổ trong lòng đất Quảng Trị. Vịnh Mốc (thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là một làng chài khiêm nhường có gần 100 nóc nhà nằm trên bờ biển phía đông nam thị trấn Hồ Xá chừng 13km, cách bãi tắm Cửa Tùng 7km về phía Bắc, cách đảo Cồn Cỏ anh hùng 30km về phía Tây. Vào năm 1965, trước sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ vào Vĩnh Linh, cũng như hầu hết các làng quê khác, Vịnh Mốc đã bị huỷ diệt hoàn toàn. Trước quyết tâm bám trụ quê hương, chi viện chi miền Nam, việc tổ chức phòng tránh cho con người đặt ra hết sức cấp thiết. Với ý chí "một tấc không đi, một li không rời", quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất, họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo mà địa đạo Vịnh Mốc là đại diện tiêu biểu nhất. Cuối năm 1965, các chiến sĩ đồn biên phòng 140, nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên khai sinh ra làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này. Toàn bộ địa đạo được đào trong lòng quả đồi đất đỏ có độ cao chừng 30m, rộng hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9m x 1,75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính dài 780m, có 13 cửa ra vào, được chống đỡ bằng cột nhà, gỗ và nguỵ trang khá kín đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường hầm. Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 - 10 mét dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời, tầng 2 sâu 12 - 15 mét là nơi sống và sinh hoạt của dân làng, tầng 3 có độ sâu hơn 30 mét là nơi trung chuyển hàng hoá, vũ khí ra thuyền lên đảo Cồn Cỏ. Để đảm bảo cho hàng trăm con người ăn, ở, sinh hoạt an toàn, tiện lợi, dọc hai bên đường hầm người ta khoét vào rất nhiều căn hộ, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 - 4 người ở. Ngoài ra trong đường hầm còn có hội trường (sức chứa hơn 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm phẫu thuật, trạm gác, máy điện thoại… đặc biệt có nhà hộ sinh, nơi ra đời của 17 đứa trẻ suốt trong hai năm 1967 - 1978. Việc tổ chức phòng tránh, bảo vệ địa đạo rất phức tạp, đòi hỏi tính tổ chức, tự giác cao, bởi lẽ không chỉ đạn bom trút xuống mà còn người nhái, gián điệp tìm cách xâm nhập. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại (từ 1965 - 1972), việc 17 đứa trẻ ra đời an toàn không một người nào bị thương đã nói lên sự lựa chọn đúng đắn, là sự tích kỳ diệu về mảnh đất và con người nơi đây. Hơn thế nữa, vượt qua hoàn cảnh, họ không chỉ tồn tại mà còn tổ chức hàng trăm chuyến thuyền nan tiếp vận cho đảo Cồn Cỏ. Đảo Cồn Cỏ đứng vững và được Nhà nước tuyên dương anh hùng hai lần trong đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân làng hầm Vịnh Mốc. Đây thực sự là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc và lực lượng vũ trang. Trong điều kiện khó khăn thiếu thốn và luôn bị địch rình rập, đánh phá, quân dân Vịnh Mốc - Vĩnh Thạch đã đồng lòng góp sức, tổ chức khoa học hợp lý hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ. Với hơn 18.000 ngày công, đào và vận chuyển ra khỏi lòng đất hơn 6.000m3 đất đá, mỗi mét đường hầm thực sự là kết tinh tình cảm, trí tuệ, ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân dân. Từ cụ già chế tác dụng cụ đến nồi nước chè xanh, bữa cơm đạm bạc của các mẹ, các chị và sức lực cường tráng của các chàng trai. Làng hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh, Quảng Trị một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Chiến tranh đã lùi xa, còn đó một làng hầm huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm tin, ý chí cho thế hệ hôm nay và mai sau về sức mạnh nội lực của dân tộc VN. Từ đây, tất thảy bạn bè và những người từng là "kẻ thù" đều phải thừa nhận sự thần kỳ của một đất nước, một dân tộc mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu. Có rất nhiều dòng cảm xúc về làng hầm này, tất cả đều công nhận "Làng địa đạo Vịnh Mốc giống như một toà lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất giấu kín biết bao điều kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra". Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Bộ Văn hoá - Thông tin đã quyết định công nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt quan trọng. Hiện nay, địa đạo Vịnh Mốc là điểm thu hút mọi du khách đông nhất trong tuyến du lịch nổi tiếng và độc đáo Nguồn: http://dulich.tuoitre.com.vnDự kiến kỳ 2: Làng Bích La - Nôi sinh sĩ tử
Kỳ 2: Làng Bích La - Nôi sinh sĩ tử Về làng Bích La xã Triệu Đông huyện Triệu Phong bây giờ ngoài con đường từ thành cổ Quảng Trị của Tám mươi mốt ngày đêm lịch sử còn có thể rẽ từ quốc lộ 1, thị trấn Ái Tử, nơi một thời là Dinh Cát của Nguyễn Hoàng, qua cầu An Mô, ngược theo kênh Nam Thạch Hãn, rồi băng qua cánh đồng chừng ba cây số là về tới đầu làng. Bích La gồm ba thôn: Bích La Đông, Bính La Trung, Bích La Nam, cùng với thôn Nại Cửu hợp thành xã Triệu Đông. Làng hình thành cách đây gần 500 năm, là một trong những làng có lịch sử hình thành sớm so với các làng ở Đàng Trong từ những đợt đầu tiên người phía Bắc di cư vào các vùng phía Nam Đèo Ngang. Nhiều nhà nghiên cứu nói rằng Bích La là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi nổi tiếng ''Lò sinh quan, nôi sinh sĩ tử". Tại cổng khu miếu thờ bên phải đình làng Bích La có câu đối: Địa chung linh khí tuyền thiên cổ Thế xuất anh tài diễn ức niên Tạm dịch là: Đất hun đúc khí thiêng toàn vẹn từ nghìn xưa Đời sinh hào kiệt khi nào cũng có. Chính diện cổng miếu là miếu thờ Thần trông coi núi sông đất nước, trên bia có ghi dòng chữ: ''Cao các quảng độ đại vương chưởng quản sơn xuyên tôn thần''. Các miếu bên tả thờ các Thần: Thần Hoàng, Thần Sấm Sét, Thần Nông. Bên hữu có các miếu thờ Thần Dân an, Vật lợi; thờ bà Chúa nhà Trời giúp quân ta đánh thắng Chiêm Thành. Đặc biệt phía trước có miếu thờ Cai tri Phó tướng Doãn Lộc Hầu, có ghi dòng chữ: "Bổn thổ khai khẩn cai tri Phó tướng Doãn Lộc Hầu lĩnh tế Dục Bảo Trung Hưng Linh Phò tôn thần". Theo gia phả họ Lê ở làng Bích La thì ông là người Hoa Duệ ở Hoan Châu (Hà Tĩnh), vốn tính trung hậu lại thông binh pháp. Vào năm Thống Nguyên đời Lê (1522-1527) làm quan Chính Chưởng trung tể, nhân lúc Mạc Đăng Dung tiếm quyền, vốn lĩnh mạng Triều Lê làm Cai tri xứ Tân Bình, Thuận Hoá ngăn chặn giặc Chiêm Thành, chiêu mộ dân khẩn hoang ruộng đất, lập tổng xã theo từng lúc chia làm 14 hộ. Cai tổng bá là: Lê Cảnh Sắc, Lê Vãn Tài, Lê Bá Hỷ, Lê Phúc Thiện, Lê Đức Dũng, Lê Đình Cống, Nguyễn Thọ Bình, Lê Thế Toàn, Lê Trọng Mưu, Trần Hữu Dực, Phan Định, Phạm Xuân Dương, Hồ Đằng, Đặng Xương lập chung một xã gọi là Hoa An xã. Thời Tây Sơn đổi là xã Hoa La, thời nhà Nguyễn đổi là Bích La chia làm bốn giáp: Đông, Trung, Nam, Hậu. Như vậy việc lập làng, hình thành các tộc họ ở Bích La vào những năm 1526, 1527, có trước năm Nguyễn Hoàng vào đóng đô ở Ái Tử (155 khoảng 30 năm. Theo gia phả của tộc họ Lê Văn của đồng chí Lê Duẩn, tính đến nay đã trải qua 15 đời con cháu. Đồng chí Lê Duẩn thuộc đời thứ 12 của phả hệ chi phái một tộc họ Lê Văn. Qua bao biến thiên của lịch sử với gần 5 thế kỷ lập làng, người Bích La vừa chống chọi với thiên tai, vừa đấu tranh chống địch hoạ, đã hình thành nên một bề dày truyền thống tốt đẹp. Trước hết, đó là truyền thống làng có nhiều người đỗ đạt khoa bảng. Ngay tại khu miếu thờ của làng có thờ hai vị Tiến sĩ vào thời Lê, đi theo Cai tri Phó tướng Doãn Lộc Hầu: Tiến sĩ Lê Cảnh Diệu và Tiến sĩ Lê Cảnh Phiếu. Còn theo gia phả các tộc họ trong làng thì làng có nhiều người đỗ đạt tiến sĩ trở lên dưới Triều Nguyễn như Tiến sĩ Lê Mậu Cúc, Lê Thuỵ, Lê Hữu Thường... Chỉ tính riêng tộc họ Lê Văn của đồng chí Lê Duẩn, thời đó đã có 5 vị: Tiến sĩ Lê Vãn Nhượng đỗ khoa Đinh Dậu (1837); Tiến sĩ Lê Vãn Chân đỗ khoa Tân Sửu (1841); Tiến sĩ Lê Vãn Nhiếp đỗ khoa Mậu Tý (Đồng Khánh 3). Khoa cuối cùng của Triều Nguyễn có ông Lê Vãn Tặng (bác ruột của đồng chí Lê Duẩn) đỗ Phó bảng và ông Lê Vãn Lương đó Tiến sĩ. Nhiều người đỗ cử nhân, tú tài... làm nên bảng vàng truyền thống khoa bảng của các tộc họ trong làng, nêu gương muôn đời cho hậu thế. Sau này con em của làng còn có nhiều người học hành đỗ đạt học vị Tiến sĩ dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa như Tiến sĩ toán học Lê Bá Long, Tiến sĩ sinh học Lê Thị Diệu Muội (con gái đồng chí Lê Duẩn) ở Hà Nội, Tiến sĩ hoá học Nguyễn Từ ở Đại học Huế... Phát huy truyền thống, ngày nay hàng năm làng có từ 12-15 học sinh thi đỗ vào các trường đại học. Hiện có hơn 50 con em của làng đang học ở các trường đại học. Nhiều con em của làng được học hành, đi ra nhiều nơi và đang giữ nhiều cương vị quan trọng ở các lĩnh vực khác nhau ở trong nước. Làng cũng có danh hoạ nổi tiếng thế giới là Lê Bá Đảng hiện đang sống ở Pháp. Cách đây mười năm ông đã từng về thăm làng Bích La, tổ chức cuộc triển lãm tranh của mình cho dân làng xem và bỏ tiền xây dựng bốn phòng học cho Trường tiểu học Bích La. Nói đến Bích La, người ta còn nói đến mảnh đất của nhiều danh nhân, có truyền trống phò nước giúp dân. Theo Đại Nam Chính Biên liệt truyện (Nxb Thuận Hoá - 1993), ông Lê Đăng Doanh, tự là Lê Văn Doanh, người Bích La làm quan dưới thời Gia Long, là người văn võ song toàn, từng làm Chánh chủ khảo nhiều kỳ thi Hương, từng cầm quân đánh dẹp quân Xiêm ở Nam Kỳ. Khi về giữ chức Bố Chính sứ Quảng Trị thấy dân tình đói kém ông đã dâng sớ xin Vua miễn thuế cho dân và được Vua chấp nhận (năm thứ 17 triều Minh Mạng). Ông đã từng được thăng Hiệp Biện Đại học sĩ dưới triều Thiệu Trị thứ nhất (1481), có công dạy bốn đời Vua nên khi mất được Vua ban tặng nghi lễ cao nhất: Nhất lão nghi hình thiên hạ tắc/Tứ triều thạc phụ đế vương tôn. Cũng từ làng Bích La sau này có nhiều người tham gia phong trào Cần Vương và các phong trào chống Pháp khác. Điển hình có ông Lê Mậu Hiến đứng đầu phong trào đòi dân sinh dân chủ, giảm sưu thuế cho dân. Năm 1882, nhiều con cháu trong làng theo ông Lê Hữu Thường, là người làng, làm Thượng thư Bộ Công của Triều Nguyễn ra xây dựng Sơn Phòng ở vùng Cùa thuộc huyện - Cam Lộ (Quảng Trị) theo chủ trương của Tôn Thất Thuyết để chuẩn bị chống Pháp. Tích cực tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp có các cụ: Chánh vệ uý Lê Văn Thống (ông nội của đồng chí Lê Duẩn), Đề đốc Lê Văn Tặng (bác ruột của đồng chí Lê Duẩn), cùng với Suất đội Phan Cự, người làng Nại Cửu đem quân đánh chiếm thành Quảng Trị. Sinh ra và lớn lên trên một mảnh đất có bề dày truyền thống yêu nước như vậy nên ngay từ nhỏ, cậu học trò Lê Văn Nhuận (tên khai sinh của đồng chí Lê Duẩn - sinh ngày 7-4-1907) đã sớm nảy sinh lòng yêu nước thương dân. Từ học trường làng, rồi trường phủ, vốn có tư chất thông minh, học giỏi, lại được tiếp xúc với nhiều con người yêu nước, đồng chí Lê Duẩn đã sớm giác ngộ lý tưởng giải phóng dân tộc, đi vào hoạt động cách mạng, thoát ly từ tuổi hai mươi, tham gia Hội thanh niên cách mạng năm 1928 và năm 1930 trở thành một trong những đảng viên lớp đầu của Đảng Cộng sản Đông Dương. Thời gian cùng cha lên sống, hoạt đông cách mạng ở thôn Hậu Kiên xã Triệu Thành cùng huyện Triệu Phong, đồng chí bị thực dân Pháp xếp vào "thành phần nhân vật quan trọng'' nên luôn bị lùng sục, bắt bớ nhưng nhờ sự chở che đùm bọc của dân làng nên đồng chí đã được an toàn, để rồi sau này đi ra, trải qua bao tù tội ở các nhà lao: Hà Nội, Sơn La, Côn Đảo, rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, trở thành người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rồi trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng sau khi Bác Hồ qua đời. Làng Bích La trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ còn là cơ sở vững chắc của cách mạng. Đây là cứ điểm quan trọng diễn ra nhiều trận đánh phá của kẻ thù và cũng là nơi quân ta cắm chốt làm bàn đạp để đánh vào Thành cổ Đảng Trị năm 1972. Nhiều con em của làng đã tích cực lên đường tham gia kháng chiến, trở thành sĩ quan cao cấp trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngày nay làng Bích La có nhiều gia đình là thân nhân liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng. Sau ngày quê hương giải phóng, cũng như bao làng quê Quảng Trị tiêu điều xơ xác bởi chiến tranh, người Bích La đã chung tay đoàn kết xây dựng lại quê hương. Từ đồng khô cỏ cháy quê nghèo, dưới bàn tay làm lụng chăm chỉ cần cù của người dân, cuộc sống đã dần dần ổn định. Hợp tác xã Bích La vươn lên trở thành ngọn cờ đầu trong sản xuất nông nghiệp nhờ năng suất lúa và quy hoạch kiến thiết đồng ruộng, được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba vào những năm 80 của thế kỷ hai mươi. Các thế hệ nối tiếp lãnh đạo địa phương và Hợp tác xã Bích La từ trước tới nay đều biết lo cho dân, thực hiện lời căn dặn của đồng chí Lê Duẩn lần về thăm quê: ''Bây giờ tất cả đều làm chủ chế độ mới, xây dựng nền kinh tế mới, phải, bảo đảm đời sống của mọi người no đủ", "một con người phải có ba cái: Lao động, tình thương và lẽ phải". Mặc dù chưa phải là giàu có nhưng hiện nay đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, đồng đều. Tuy đã chuyển đổi hình thức quản lý nhưng Hợp tác xã Bích La vẫn là mái nhà để dân có thể nương cậy. Các thôn Bích La Đông, Bích La Trung, Bích La Nam đều đã xây dựng làng vãn hoá và Bích La Đông đang chuẩn bị được công nhận làng văn hoá lần hai. Ở Bích La, các giá trị truyền thống của làng luôn được trân trọng, giữ gìn. Đình làng Bích La là một biểu tượng văn hoá của làng. Nét độc đáo là đình này được xây cất không phải để thờ phụng mà là nơi nhóm họp dân làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt văn hoá của làng từ xưa đến nay. Theo giai thoại dân gian đình Bích La nằm trên lưng một con Cù. Con Cù là con gì, không ai giải thích được. Tương truyền mỗi năm con Cù thức dậy một lần, nhưng có một năm đã lâu lắm rồi nó không nổi lên. Năm đó dân làng làm ăn thất bát. Năm sau đó dân làng nghĩ ra kế cứ vào ngày mồng ba đầu năm, từ sáng sớm dân làng tập trung khua chiêng gõ mõ đánh thức con Cù dậy, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi. Từ đó hàng năm đến ngày mồng ba Tết người làng tập trung ở đây để họp chợ. Chợ chỉ đông từ năm giờ đến bảy, tám giờ sáng là tan. Người ta chỉ mua bán trong mấy tiếng đồng hồ. Hàng hoá là cây nhà lá vườn, chủ yếu rau quả, hoa tươi, trầu cau, cá các loại, thịt lợn... Mấy năm gần đây chợ diễn ra ngày càng đông, có hàng ngàn người tham gia. Người mua, người bán không chỉ là dân làng mà còn có rất nhiều người ở các làng bên cạnh, có cả những người từ thị xã Đông Hà, thị xã Quảng Trị cũng tìm về đây làm cho phiên chợ rất nhộn nhịp. Người ta đi chợ chủ yếu là để cầu may, gặp nhau đầu xuân, chuẩn bị vài ba thứ cho lễ cúng tiễn đưa ông bà, rồi ngày hôm sau ai nấy kịp xuống đồng tiếp tục công việc của một mùa vụ đang chờ. Người xa xứ về thăm quê, ăn Tết thì kịp trở lại nơi làm việc. Những năm gần đây làng còn bổ sung thêm một số trò chơi dân gian như kéo co, chọi gà... Nét đẹp văn hoá của làng đang được giữ gìn và phát huy. Lần tìm về truyền thống của làng Bích La, chúng tôi còn được nghe kể nhiều chuyện cảm động lần đồng chí Lê Duẩn về thăm quê. Đồng chí thân tình đi thăm hỏi từng nhà, tìm lại từng người quen biết cũ. Sau này đồng chí còn tìm về tận Cẩm Xuyên, Hà Tình tìm lại cội nguồn thắp nén hương tưởng nhớ tổ tiên. Mới hay con người đâu chỉ có một Tổ quốc để cống hiến, hy sinh mà còn có một quê hương để hướng về, để thương tưởng, bởi dù có đi nơi đâu, làm bất cứ việc gì thì quê hương, nơi "chôn rau cắt rốn'' mãi mãi vẫn là cõi đi về trong tâm thức của một đời người. Bài viết của Minh Tứ Nguồn: http://hanoi.vnn.vn
Mình ko biết bạn có ý gì chỉ giáo ở topic này, thông tin cần hay không thì người phụ trách dự án wiki cho Quảng Trị biết, mình chỉ là tìm thông tin post lên, có ghi rõ nguồn trích dẫn, vậy thôi, có gì mong bạn chỉ giáo rõ hơn, kể cả cho cá nhân và cho dự án Wikimedia cho Quảng Trị
Xin chào các bạn, mình là sinh viên đang làm đề tài về tỉnh Quảng Trị. Mình muốn hỏi các bạn là ở Quảng Trị hiện giờ đã phát hiện được di chỉ nào thuộc văn hóa Sa Huỳnh và sau đó là Chămpa chưa? Mình tìm hiểu thì chỉ thấy nói đến các di chỉ Sa Huỳnh ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Bình thôi. Còn ở Đông Hà cũng chỉ vừa mới phát hiện ra dấu tích của một tháp Chăm. Ngoài ra mình còn nghe thông tin về một bia Chăm là bia Nhan Biều (Triệu Phong) nhưng không kiếm được thêm thông tin gì về bia này. Nếu các bạn Quảng Trị có nguồn tài liệu về vấn đề trên thì rất mong các bạn cung cấp cho mình. Mình xin gửi lời cảm ơn trước.