Tưởng nên nhắc lại, năm 205 trước công nguyên, Triệu Đà là tướng nhà Tần trấn nhậm ở Nam Hải nước Tàu, thấy trong triều có loạn Trần Thắng, bèn lấy hai quận Quế Lâm và Nam Hải đổi thành nước Nam Việt tự xưng là Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung. Sau đó Triệu Đà thôn tính những nước khác, trong đó có Âu-Lạc của An Dương Vương (là nước ta lúc ấy gồm miền bắc cho tới Hà Tĩnh) và mối tình vừa lãng mạn vừa bi đát Mỵ Châu + Trọng Thủy còn được nhắc nhở đến bây giờ. Đế quốc Nam Việt của họ Triệu tồn tại được 96 năm thì bị một người con gái từ lầu xanh ở Hàm Đan tên là Cù Thị lấy Triệu Minh Vương (125 – 113 trước CN) khi Triệu minh Vương chết, Cù Thị mưu tính với tình nhân cũ là An Thiếu Úy dâng đế quốc Nam Việt cho nhà Hán, quan Thái phó Lữ Gia phản đối truyền hịch đi khắp nơi tố cáo Cù Thị và con là Triệu Ai Vương, đồng thời cầm quân chống lại nhưng thất bại, Lữ Gia bị giết vào năm 111 trước Công nguyên. Nhà Hán chiếm được Nam Việt gồm Quảng Đông, Quảng Tây, đảo Hải Nam và Âu Lạc chia ra quận, huyện cai trị rất hà khắc, nhất là đối với hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân làm dân Việt căm thù tột độ. Năm 34 sau Công Nguyên, Hán Quang Vũ sai Tô Định sang cai trị Giao Chỉ đã châm ngòi vào lò thuốc súng làm cho cuộc cách mạng của dân tộc Việt bùng nổ dưới sự lãnh đạo của hai Bà Trưng vào năm 40. Tô Định là kẻ tham lam, hiếu sát, giết người trung thực, bóc lột dân chúng đến cùng cực : “Rán mỡ dân để thoả lòng dục“ như thư của Ông Thi Sách tố cáo Tô Định, vì thế anh hùng hào kiệt nổi lên khắp nơi : Ở An Biên, Đông Triều có hai cha con bà Lê Chân , Hải Dương có Nam Thành Vương và cháu là bà Thánh Thiên công chúa, Thái Bình có Ông Bà Trương Quân, ở Tuy Lai có Ông Nguyễn Nga, Lai Tảo có ba anh em Ông Cao Doãn . . . .nhưng lực lượng của họ rời rạc yếu ớt không có uy thế, nên khi hai Bà truyền hịch đi các châu, huyện thì những vị hào kiệt ấy ồ ạt đem quân đến phụ trợ quyết một lòng cùng hai Bà đánh đuổi quân xâm lược và đại thắng như lịch sử đã ghi. Khi quân Hán do tướng Mã Viện tái xâm lăng phục thù , chính những vị Hào Kiệt, Anh Thư này đã sát cánh với hai Bà một sống một chết với quân xâm lược. Thánh Thiên Công Chúa tử trận trên sông Nguyệt Đức, nay ở xã Ngọc Lâm tỉnh Bắc Giang còn có đền thờ, bà Lê Chân chống cự quyết liệt và chết dưới gươm giặc thù ở Mai Động. Ai cũng biết hai Bà là con Quan Lạc Tướng họ Hùng ở Mê Linh, cha mất sớm mẹ là bà Thiện cháu ngoại Vua Hùng nuôi nấng dạy dỗ. Bà Thiện theo Việt Nam Danh Nhân Tự Điển của Nguyễn Huyền Anh có tên là Trần Thị Đoan là người có tài và rất đảm lược. (tên Thiện có thể là tên chồng tức là Quan Lạc Tướng). Bà nuôi chí lớn giải phóng đất nước, cứu vớt giống nòi ra khỏi hầm tai vạ lầm than nên sau khi chồng chết Bà ở vậy cố gắng nuôi dạy hai con gái, đào luyện cho họ trở thành những người trọng đạo nghiã, yêu nước, có sức mạnh và tài thao lược. Cũng chính Bà Thiện là người đã bí mật đứng ra tổ chức cuộc khởi nghiã từ trong trứng nước, khi lực lượng lớn mạnh Bà giao cho con rể và hai người con gái quyền lãnh đạo, sau này thấy nguy cơ quân Việt bị Quân Mã Viện đông hơn lấn át, đích thân Bà Thiện (sử Tàu ghi tên Bà là Man Thiện- man là mọi rợ -cũng như họ gọi Bà Triệu Thị Trinh là Triệu Ẩu - âủ là làm càn) về huyện An Hát (sau đổi là Phúc Lộc) nay là huyện Phúc Thọ tỉnh Hà-Tây chiêu mộ thêm quân sĩ chống giặc. Khi bị thua Bà cũng chọn dòng nước sông Hồng tự trầm vào ngày 10 tháng 11 năm 43, sử ghi mộ và đền thờ Bà Thiện ở làng Nam An sau đổi là Nam Nguyên bên bờ Hồng Hà nơi hai Bà Trưng tế cờ khởi nghiã trong khu Đông Phụ +Đông Sàng+Bến Mía phía trên Thị Xã Sơn Tây. Uy đức của hai Bà Trưng do Bà Mẹ vun đúc chẳng những sáng lạn ở trời Nam mà còn chấn động vùng Đông Nam Á, kẻ thù phương bắc cũng phải nể sợ. Sử sách Tàu là Hậu HánThư cũng phải công nhận : “Trưng Chắc là người rất hùng dũng”. Người Tàu vốn trọng con trưởng không nhắc đến bà Trưng Nhì, nhưng chính bà Nhì cũng là người nuôi chí lớn rửa hận cho nước, rửa nhục cho giống nòi. Bà âm thầm sống thanh bần bằng nghề chăn tằm dệt vải để tập võ nghệ, nghiền ngẫm binh thư chờ ngày khởi nghiã cho đến năm 21 tuổi vẫn chưa lập gia đình, điều đó thực lạ vì phong tục Việt Nam cho đến những năm gần đây con gái 14, 15 tuổi đã lấy chồng rồi ( bà Nhì còn có tước hiệu là Bình Khôi Tướng Quân). Một điều nữa đáng ghi nhận là bà Trưng Nhì tức Bình Khôi Tướng Quân, không những giỏi vềquân sự mà còn có tài ngoại giao đã thuyết phục được những lãnh tụ địa phương như ba anh em ông Cao Doãn, vợ chồng Ông Trương Quân v.v.. đem nghiã binh dưới quyền về phục vụ dưới ngọn cờ đào. Bà luôn luôn sát cánh cùng Chị bày mưu hiến kế điều khiển ba quân, lúc vinh quang hai chị em cùng làm vua, lúc thất thế Bà cùng với Chị quyết đem tấm lòng son đền đáp non sông, tuẫn tiết trên dòng sông Hát không để kẻ thù làm nhục. Tuy hai Bà làm vua chỉ trong một thời gian ngắn là ba năm nhưng cuộc khởi nghiã ở Mê Linh như ngọn đuốc sáng chói nêu cao ý chí quật cường, tinh thần tự chủ, độc lập dân tộc để từ đó con cháu về sau người nọ tiếp người kia vững tâm, tự tin tiến bước trên con đường quật khởi. Những cuộc khởi nghiã của Bà Triệu, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế, Bố Cái Đại Vương là những ngọn lửa liên tiếp bùng cháy lên trong đêm tối của gần một ngàn năm bị đô hộ (43-939). Và từng bước, từng bước dân tộc chúng ta cố gắng vẫy vùng thoát khỏi nền thống trị của thực dân phương Bắc với Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng năm 939 (Đằng giang tự cổ huyết do hồng) xây dựng nền móng vững vàng cho nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần. . . . . về sau. Công đức lớn lao của Hai Bà đã được người dân An Hát lập đền thờ cung kính tế lễ, khói hương liên tiếp đã gần hai ngàn năm nay. Mỗi năm đến ngày 06 tháng 3 người dân xã Hát Môn làm lễ kỷ niệm trọng thể với voi, ngựa, cờ quạt,chiêng trống, quân khí và đoàn nữ binh hộ giá uy nghi như khi hai Bà xuất quân đánh Tô Định. Theo các cụ xưa truyền lại khi hai Bà bị thua trận ở căn cứ Cẩm-khê Ba-Vì chạy về cửa sông Hát (là Xã Hát Môn ngày nay) được dân chúng ra đón và tiếp tế lương thực cho đoàn quân tùy tùng, lúc ấy đang là mùa gặt lúa chiêm, dân làng đã dùng nếp chiêm làm bánh chôi để các trinh nữ dâng lên hai Vị Vua của họ. Chẳng bao lâu quân Tàu đuổi tới, hai Bà nhảy xuống sông tuẫn tiết và các trinh nữ cũng trầm mình chết theo hai Bà. Sau đó dân làng lập một đền thờ lớn thờ hai Bà,ngoài cổng đền kế bên bờ sông Hát cũng lập một miễu nhỏ thờ các cô đã dâng bánh chôi, đền và miễu bây giờ vẩn còn và tục lệ tế lễ hai Bà bằng bánh chôi cũng được duy trì đến ngày nay. Trong ngày đại lễ có giết bò, gà lợn nhưng bắt buộc phải có tám bát bánh chôi, tiến trình làm bánh chôi dâng lễ cũng được duy trì từ gần hai ngàn năm không thay đổi (dù ngày nay đã có cối xay bột điện vừa nhanh , vừa nhuyễn).Trước ngày đại lễ ban tế phải chọn nếp cho đều hạt, nước làm bánh phải thật trong, thật tinh khiết, nếp được ngâm nước khoảng nửa ngày (06 giờ) đãi sạch để ráo nước rồi cho vào cối đá lớn hai thanh niên cầm mỗi người một chày gỗ giã cho thật nhuyễn rồi lược đi lược lại thật kỹ mới làm bánh. Phiá sau đền ở Hát Môn hiện nay cũng còn một gò hình nón cạnh hồ sen gọi là Gò Ngọc Ấn nơi chôn dấu Quốc Ấn của Trưng Nữ Vương mà dân làng tìm thấy sau khi hai Bà đền nợ nước. Những sự tích ấy (Đền thờ hai Bà, Miễu các Cô dâng bánh, gò Ngọc Ấn) chứng tỏ Hai Vị Trưng Vương đã tuẫn tiết trên sông Hát . Vào ngày 06 tháng 3 â m lịch (năm 43) và cũng đủ chứng cớ để phản bác sử sách cuả Tàu và sau này lại được thực dân Pháp (Maspéro) hùa theo, xuyên tạc rằng hai Vị Nữ Anh Hùng của chúng ta bị bắt, bị giết ở Cẩm Khê thủ cấp gửi về Lạc Dương kinh đô nhà Hán. Sách lược của thực dân ở nơi nào cũng là khủng bố, đè nén, hạ nhục làm cho dân bản xứ mất tinh thần đấu tranh, quật khởi để họ yên trí khai thác, bóc lột, còn một điểm nưã cũng cần được xác định là các sử sách ngày nay đều ghi ngày tuẫn tiết của hai Bà Trưng theo ngày lễ hội ở làng Đồng Nhân mồng 6 tháng 2 âm lịch là sai lầm, lý do : Mãi đến thế kỷ 18 tức là 1.700 năm sau khi hai Bà mất, không có sách sử nào nhắc đến đền thờ hai Bà ở làng Đồng Nhân gần Hà Nội. Sách Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên viết vào thế kỷ 12 và Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết vào thế kỷ 14 cũng chỉ nhắc đến đền thờ hai Bà ở An Hát (Xã Hát- Môn). Ngay cả cách đây 300 năm khi Ông Cao Huy Diệu đậu Tiến sĩ (năm 1715) và những nhà khoa bảng khác viết lời bình và chú giải Việt Điện U Linh Tập cũng chỉ nhắc đến đền thờ ở Hát Môn và ở Hạ Lôi huyện An Lãng do Vua LýAnh Tôn ( 1135 – 1175 ) sắc phong đền, mà không nhắc đến đền thờ làng Đồng Nhân ở gần Thăng Long nơi Tiến sĩ họ Cao làm việc. Đến đầu thế kỷ 20, Cụ Phan Kế Bính soạn Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện (Xb. Năm1912) đã viết :” Từ lúc Hai Bà ấy xuống sông, rồi hoá ra hai người bằng đá nổi lênh đênh trên mặt nước trôi đi. Các làng quanh sông thấy vậy tranh nhau ra khấn để vớt về thờ nhưng chỉ có làng Đồng Nhân huyện Thanh Trì (bây giờ thuộc Tỉnh Hà Đông) vớt được mới lập đền thờ ở làng ấy. Dân xã Hát Môn thấy sự linh thiêng làm vậy cũng lập đền thờ vọng ở bên sông. Đến đời vua Anh-Tôn nhà Lý, chỗ bãi Đồng Nhân lở gần đến Miếu thờ. Vua sai làng Hưng Viên ở bên trong đê ra rước tượng hai Bà ấy vào rồi Vua ban tiền bạc cho lập miếu mà thờ. . . . đến bây giờ vẫn còn tục gọi là đền thờ hai Bà” (Nam Hải Dị Nhân Liệt Truyện trang 6). Những điều Cụ Phan viết ở trên quá hoang đường, nhất là đối với thời đại hiện nay vì xác người chết không thể biến thành tượng đá, rồi tượng đá lại nổi lênh đênh trôi đi trên mặt nước ! Nếu qủa thật làng Đồng Nhân thấy được tượng đá trên bãi phù sa sông Hồng thì nên hiểu là hai voi đá (tượng là voi như ta thường gọi bạch tượng là voi trắng vậy) do nước lũ dâng cao chảy mạnh tàn phá cổng đền (thường để voi đá hai bên) ở Hát Môn hay Hạ Lôi trôi về khi nước rút nằm trên bãi gần làng Đồng Nhân (như bãi Phúc Xá Hà Nội ngày nay). Hơn nưã nếu đền ở làng Đồng Nhân thiêng liêng như Cụ Phan viết thì Vua Lý Anh Tôn đã không phải sai Thiền Sư Tịnh Giới đến tận đền hai Bà ở An Hát (Hát Môn) cầu mưa, sau khi cầu được mưa chính nhà Vua đã vất vả đế tận Hát Môn để tế lễ tạ ơn (xin nhắc lại làng Đồng Nhân ở ngay cạnh kinh đô Thăng Long là Hà Nội bây giờ) ngoài ra hiện nay người ta chỉ nhắc đến đền thờ làng Đồng Nhân, không ai nói đến đền thờ ở Hưng Viên như Cụ Phan Kế Bính đã viết. Thiết nghĩ đền thờ hai Bà ở Đồng Nhân chỉ mới được xây cất sau khi Ông Cao huy Diệu đậu Tiến sĩ, điều đáng tiếc là các nhà viết sử sau này như Phạm Văn Sơn lại dựa theo ngày lễ hội ở Đồng Nhân mà cho rằng hai Bà hy sinh vào ngày 06 tháng 2 Âm Lịch, sử gia Trần Trọng Kim cũng lầm lẫn khi viết rằng Hát Môn và Đồng Nhân cùng cử hành tế lễ hai Bà vào ngày 06 tháng 2 Âm lịch (Việt Nam Sử Lược, quyển 1 trang 40). Kính xin Qúi vị sử gia và học giả quan tâm về vấn đề này để chúng ta và muôn đời sau có một ngày chính xác, đúng với lịch sử để tôn vinh hai vị Nữ Anh Hùng dân tộc. Trở lại với dòng sông Hát ở huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây cũng như sông Tô-Lịch ở Hà nội vào năm 1953-1954 khúc sông này ở gần ô Cầu Dền bị lấp chỉ còn là một cái mương rộng khoảng 02 thước trẻ con chơi đùa có thể nhảy qua hai bờ sông dễ dàng, sông Tô Lịch ngày nay chỉ còn là một dấu tích mờ nhạt, không còn ai nhận ra dòng sông Tô Lịch nữa, nếu không đọc sách tìm hiểu về khu Thăng Long xưa. Tài liệu cổ kính nhất tôi đang lưu giữ là Lĩnh Nam Chích Quái viết vào thời nhà Lý hoặc nhà Trần có nhắc đến sông Hát trong truyện Trinh Linh Nhị Trưng Phu Nhân : “Người trong châu thương tiếc lập đền thờ ở cửa Hát Giang mà phụng sự, nhân dân gặp phải tai nạn, hạn hán đến cầu đảo tất hiển linh”. Địa Dư Chí của Cụ Nguyễn Trãi soạn năm 1438 viết : “Hát giang ở huyện Phúc Lộc (nay là Phúc Thọ), tương truyền sông Hát phát nguyên từ Giang Hán trên sông có cây chiên đàn cao hơn 10 trượng lâu năm cây già rễ xuyên thông với sông Giang Hán, cá anh vũ đi theo đáy về phía Nam, các triều Vua bắt cống cá ấy để cúng tế”. Theo các nhà điạ chất, khoảng mấy ngàn năm trước nước biển còn lên đến Việt Trì, sau nhờ phù sa của ba sông Lô giang, Đà giang và Hồng Hà bồi đắp thành vùng châu thổ rộng lớn cuả miền Bắc như hiện nay. Vào thời hai Bà Trưng nước thủy triều còn lên tới trung châu, tang hải biến đổi, nhất là lượng nước của hạ lưu sông Hồng vào mùa thác lũ từ sông Lô, sông Đà đổ vào, mực nước dâng lên rất nhanh và chảy xiết do đó sự thay đổi lòng sông bên lở, bên bồi luôn luôn xẩy ra nên nay ta thấy thị trấn Bạch Hạc ở bên bắc sông Hồng nơi mà sông Hát xưa phát nguyên thì cũng không có gì lạ. Đến thời Nguyễn Trãi dòng sông Hát ở huyện Phúc-Lộc kể trên có thể chỉ còn là con sông nhỏ tiêu nước cho huyện Thạch Thất, Bất Bạt bây giờ. Tang-Thương Ngẫu-Lục của Phạm Đình Hổ sưu tầm những sự tích xưa trong truyện sông Độc chép : “ Sông Độc ở xứ Sơn Nam phát nguyên từ sông Hát là chi lưu của sông Phú Lương (sông Nhị Hà) chảy đến làng Độc Tín ở huyện Kim Bảng hợp với sông Lương mà thành ra sông Độc”. Sông Độc tác giả nói đến ở đây nhận nước từ sông Hồng (Phú Lương hay Nhĩ Hà) qua cửa sông Hát chảy giữa gianh giới Hà Đông và Sơn Tây về xứ Sơn Nam (Hà Nam, Nam Định bây giờ). Lịch sử còn ghi sau khi nghiã quân Lam Sơn đại thắng quân Minh ở trận Tụy Động, xác quân tàu làm nghẹt dòng sông Đáy (khúc Chương Mỹ-Hà Đông), Bình Định Vương Lê Lợi bèn sai Tướng Trần Nguyên Hãn đem 100 chiến thuyền từ sông Đáy qua cửa sông Hát ra sông Nhĩ Hà xuống đóng ở Đông Bộ Đầu bao vây Đông Đô tên gọi của thành Thăng Long lúc bấy giờ. Nhưng rồi dòng sông Hát qua nhiều biến đổi cũng chịu chung số phận với thượng nguồn sông Đáy, vì dân số mỗi ngày một gia tăng, nông nghiệp phát triển, hệ thống đê điều được đắp mới nhiều hơn. Việc đắp đê thời Nhà Trần còn sơ khai ở quanh thành Thăng Long đến thời Hậu Lê được đắp dọc theo bờ sông Hồng qua Đan Phượng (Thượng Phùng, Hạ Phùng quê nhà thơ Quang Dũng) chặn sông Đáy, con đê này kéo dài lên qua Thị Xã Sơn Tây đến chân núi Ba-Vì (huyện Bất Bạt quê hương của Thi sĩ Tản Đà) chặn dòng sông Hát ở Kim Lũ, Triệu Xuyên vì vậy sông Hát chỉ còn một chiều dài khoảng 5, 6 cây số từ làng Xuân Vân qua Cựu Lục, Cựu Bài,Phú Châu về Hát Môn đổ ra sông Hồng, sông Hát và sông Đáy dần dần biến thành ruộng rẫy, phần hạ lưu sông Hát chảy qua đền thờ hai Bà dần dần bị thu hẹp thành con ngòi nên ít người biết tới, vì thế người thì nói sông Hát là một khúc sông Nhĩ Hà (sử gia Phạm Văn Sơn), người thì nói sông Hát là sông Đáy (Hà văn Tấn chú thích Điạ Dư Chí của Nguyễn Trãi). Khi người Pháp đô hộ Việt Nam thấy lưu vực sông Hồng quá hẹp vì bị dê hai bên bờ vây bọc về mùa lũ hay làm vỡ đê gây thiệt hại mùa màng và sinh mạng, họ đem kỹ thuật tây phương làm một đập bằng bê tông cốt sắt có 05 cửa lớn ở Đan Phượng để đóng mở khi cần thiết, đồng thời cho đào vét lòng sông Đáy cũ từ Hát Môn đến Ngã Ba Thá. Đến mùa mưa lũ nước sông Hồng dâng cao họ cho mở các cánh cửa đập Đan-Phượng giải tỏa bớt lượng nước sông Hồng chảy xuôi về Ba Thá, khúc sông Đáy mới đào vét này còn gọi là sông Đào.