Vài nét về Phật giáo Việt Nam với nghề nông trồng lúa nước

Thảo luận trong 'Lịch sử - Nhân văn' bắt đầu bởi Trầm Tích, 22/5/07.

  1. Trầm Tích Thành viên tích cực

    Nền văn hóa Việt Nam có những nét đặc trưng khá rõ, một trong những nét đặc trưng đó là mối quan hệ giữa văn hóa dân gian với nghề nông trồng lúa nước, đặc tính này đã góp phần tạo nên tính cộng đồng, làng xã bền chặt từ xa xưa, ở đó con ngưòi sống với nhau thân thiện, cưu mang nhau trong từng thôn làng họ mạc...

    Trong tín ngưỡng dân gian của nền văn hóa trồng lúa nước bằng kỹ thuật cày cuốc, tổ tiên ta đã phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, phải thờ cúng các lực lượng tự nhiên liên quan đến kinh tế của mình, mà biếu hiện của việc “trông trời” là thờ cúng các hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp và suy tụng các nữ thần giúp cho việc sinh sản của cả con người, con vật và mùa màng. Trên cơ sở tín ngưỡng ấy, vào khoảng đầu công nguyên, nhân dân ta đã tiếp thu Phật Giáo từ Ấn Độ. Người dân lao động trong thời kỳ bị phương Bắc đô hộ, đời sống khổ cực, chịu nhiều tầng áp bức, bị khinh miệt nên họ tiếp nhận Phật giáo như tiếp nhận một đối tượng để cảm thông, an ủi, để gởi gắm những khát vọng trong cuộc sống. Bởi vậy, ngay từ đầu, tổ tiên ta thờ Phật theo lối dân gian, ít quan tâm đến những triết lý cao siêu, mang tính nhập thế hơn là yếm thế. Mặc khác họ thường nghĩ đến những quyền lợi cụ thể, họ cần ở các lực lượng thiêng liêng sự hổ trợ cho mọi ước vọng vừa chung vừa có thể rất riêng tư. Do chỉ tiếp nhận những yếu tố Ấn Độ ít nhiều mang tính dân gian nên ngay từ đầu, các yếu tố Ấn Độ đã nhanh chóng nhập vào và hòa tan trong những truyền thống văn hóa dân gian của người Việt.

    Trên khắp châu thổ sông Hồng, ở những trung tâm nông nhiệp lúa nước thuộc Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Tây... rất phổ biến hệ thống chùa tứ Pháp (pháp Vân, pháp Vũ, pháp Lôi, pháp Điện). Gắn với truyền thuyết Man Nuơng - Khâu Đà La, đó là sự khái quát của hai nền văn hóa Việt - Ấn, tạo nên cuộc hôn phối giữa mẹ Việt - Man Nương chân chất, đã từng có công chống hạn cho nhân dân, với cha Ấn - Khâu Đà La siêu phàm, đưa đến đứa con lai “Đá Sáng Thạch Quang“, gắn với cây Thiên Dung Phụ, đẩy mẹ lên thành Phật Mẫu và các con là các nữ thần - pháp vân( mây), pháp vũ (mưa), pháp lôi (sấm sét), pháp điện (chớp) để giúp cho dân Việt khắc phục những thiên tai triêìn miên, từng ảnh hưởng trực tiếp đến nghề nông trồng lúa nước trong suốt thời gian lịch sử.

    Hầu hết các chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ, ngoài thờ Phật còn là sự hổnø dung đa tín ngưỡng của người Việt, đó là tín ngưỡng thờ Mẫu bắt nguồn từ tàn dư mẫu quyền trong xã hội Việt cổ và tín ngưỡng thờ các thần tự nhiên. Do vậy, ở đây tín ngưỡng cầu mưa, cầu nước vào các mùa hạn hán hàng năm có thể coi là một trong những tín ngưỡng điển hình của họ. Những dịp tế lễ, cầu mưa, cầu nước hàng năm được cả cư dân người Việt tổ chức không phải ở đâu khác mà ngay trong những ngôi chùa điển hình như chùa Bối Kê (Hà Tây), hay chùa Dâu ( Bắc Ninh) thờ cúng đức Phật Pháp Vân và hội chùa hàng năm bắt đầu được tổ chức từ tối mồng tám tháng tư (âm lịch), sau lễ giang bánh khoảng một giờ đêm là lễ rước Phật Pháp Vân ra bãi cây vông để cầu mưa,... Những ngày tế lễ, cầu mưa, cầu nước thường được diễn ra đúng vào những ngày lễ trọng của Phật giáo. Tại đây Phật đài đã trở thành nơi thực hiện hai chức năng song hành : cầu Phật và cầu phúc thần nông nghiệp của cư dân nông nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, trong các chùa chiền của cư dân nông nghiệp thường theo mô típ tiền thờ Phật, hậu thờ Thần như chùa Keo (Thái Bình), tiền thờ Phật, hậu thờ Không Lộ thiền sư - một nhân vật siêu phàm được suy tôn là bậc Thánh bởi ông đã có công thu tập và tạo dựng một vùng dân cư nông nghiệp rộng lớn.

    Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc hơn nghìn năm, dưới ách thống trị tàn bạo của phong kiến Hán, nhân dân ta đã tìm thấy ở Phật giáo những khát vọng về mưa thuận gió hòa để nông nghiệp được mùa, về sự sống sinh sôi,... về lòng từ bi bác ái vô lượng để thương yêu đùm bọc nhau. Và trong hoàn cảnh mất nước, việc học rất hạn chế thì chùa chính là trường học của nhân dân, các sư tăng là đại diện cho tri thức. Thời độc lập, bước sang thế kỷ X, các sư tăng đã tham gia nắm chính quyền nhưng họ vần sống gần dân, đấy phải chăng cũng là một trong biểu hiện của đặc trưng văn hóa lúa nước - cởi mở, hòa đồng... Trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077), Phật Pháp Vân đã được rước lên Thái Nguyên, theo quân ta đi chiến đấu gìanh được thắng lợi vẻ vang. Đời Lý Nhân Tông (1072-1137) vua hai lần rước Phật Pháp Vân về kinh đô, một lần ở chùa Báo Thiên, một lần ở chùa Khâu Sơn để vua đích thân làm lễ cầu mưa thuận gió hòa. Năm Bính Thìn (1136) trong nước đại hạn, Phật Pháp Vân lại được rước về Thăng Long để hoàng thái hậu đích thân cầu đảo, sau đó trời đổ mưa ba ngày đêm liền. Thời Trần, lúc đất nước gặp phải cảnh binh đao hay những khi ca khúc khải hoàn, chính quyền trung ương vẫn luôn giữ một câu là ”nới sức dân” - một nguyên lý giữ nước của vua tôi nhà Trần, phải chăng điều ấy cũng có căn nguyên từ mối quan hệ vốn lâu đời giữa tư tưởng Phật giáo với văn hóa lúa nước. Ở đây những khát vọng lớn về một cuộc sống bình yên, sinh sôi, nảy nở... được người dân gởi gắm vào những thế lực quyền uy nhất, được ký thác vào trong niềm tin tôn giáo.

    Trong lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, hầu hết các chùa đều có trang trí hình Rồng. Đấy là tư duy liên tưởng của quần chúng - một đại diện cho nguồn nước rất gần với văn hóa nông nghiệp cày cuốc. Thời Lý đã có những tác phẩm điêu khắc đạt tới vẻ đẹp cổ điển, trở thành những tác phẩm mẩu mực, ở đây phần lớn do nhà vua cho xây dựng ở các trung tâm Phật giáo, và dần dần đã trở thành biểu tượng cho quyền uy của giai cấp thống trị. Đến thời Trần, nhất là sau ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi, giai cấp thống trị nhà Trần thấy rõ vai trò và sức mạnh của quần chúng, đã trả lại cho dân gian niềm cảm xúc về sức mạnh siêu nhiên, về những ước vọng của đời sống nông nghiệp, về cái đẹp của hình tượng Rồng... Con Rồng vào cuối thời Trần đã được về với cội nguồn nguyên thủy của mình, về với dân gian, với công xã nông thôn trồng lúa nước, Rồng được trang trí trong các chùa làng, cụ thể là trên các bệ đá hoa sen hình hộp, nó không bị gò bó trong một quy phạm chặt chẽ mang tính chất cung đình mà xuất hiện thoải mái trong nhiều tượng thếï và kiểu dáng khác nhau. Ở hầu hết các chùa nơi vùng quê nông nghiệp, những tượng Rồng với những kiểu dáng hết sức phong phú, mang đậm nét dân gian, cũng là một khía cạnh thể hiện khát vọng một nguồn nước dồi dào, hứa hẹn những ngày mùa sung mãn, những nỗi niềm, hy vọng về cuộc sống nông nghiệp sinh sôi, nảy nở.

    Phật giáo từng là quốc giáo trong nhiều thế kỷ của xã hội Việt Nam - một xã hội trong suốt quá trình phát triển lâu dài đã từng lấy nghề nông làm gốc, “nhất sĩ nhì nông”, một xã hội mà việc được hay mất mùa trong nông nghiệp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hưng vong của quốc gia, ảnh hưởng đến hàng triệu triệu sinh mạng của thần dân trong nước. Và ngay trong thời hiện đại, những thành tựu trong kinh tế nông nghiệp cũng đã trở thàmh nấc vinh quang của tổ quốc. Bên cạnh đó tâm lý của cư dân nông nghiệp thường hướng nội, trọng tĩnh, hay tìm về những nơi thiêng liêng nhất để gởi gắm tâm hồn, ký thác những khát vọng, những điều mơ ước thầm kín, lớn lao, về một ngày mùa sung mãn nhất, Phật giáo lại là nơi đáng tin cậy trong tâm thức để cư dân nước Việt gởi gắm niềm tin lớn lao ấy.

Chia sẻ trang này