Văn học dân gian Quảng Trị

Thảo luận trong 'QUẢNG TRỊ THÂN YÊU' bắt đầu bởi Chiếc Nhẫn Cỏ, 2/5/12.

  1. Chiếc Nhẫn Cỏ Thành viên

    Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy.
    06starfruit.jpg
    Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
    Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.
    Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:

    I / Tục ngữ:
    A. Về thời tiết và sản xuất
    Cò ăn ruộng sâu thì nắng
    Cò ăn ruộng cạn thì mưa

    Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn
    Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ

    Đập đất nhỏ, luống đánh to
    Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào

    Đói thì ăn môn ăn khoai
    Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng

    Trăng rằm đã to lại tròn
    Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi

    Xứ Cùa đất đỏ ba dan
    Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu

    B. Về đời sống xã hội

    Liệu cơm mà gắp mắm ra
    Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô

    Khun ba năm không ai biết
    Dại một giờ bạn hay

    Đi buôn bữa lỗ bữa lời
    Ra câu giữa vời bữa có bữa không

    Ai ơi chớ lấy học trò
    Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

    Khoai lang cổ bở cổ trân
    Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi

    Bỏ công múc nước đường xa
    Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi

    Sui gia là bà con tiên
    Ăn ở không hiền là bà con quỷ

    II / Câu đố:
    Hai người ở hai buồng
    Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung
    Đêm về sập cửa thả chông
    Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài
    (Hai con mắt)

    Gặp nhau đây bất luận đêm ngày
    Lật ra xem thử lỗ này ở đâu
    Đâm vô thì rút ra mau
    Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng
    Rút ra máu chảy tràn lan
    Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa
    (Đạp gai)

    Họ hàng chỉ sống trên non
    Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày
    Không may lửa dậy khói bay
    Thảm thương ấu tử sống rày thác mai
    (Tổ ong bị đốt)


    Cây xanh mà lá cũng xanh
    Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng
    Một mai lửa đỏ thành than
    Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi
    (Cây thuốc lá)

    III/ Vè:
    Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục .

    A. Vè Ba Lòng:

    Thanh trời rạng thấy núi xây
    Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương
    Trà Trì, Văn Vận hai phường
    Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa
    Tháng năm bắp đã tới mùa
    Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang
    Bao nhiêu thao vải, lụa hàng
    Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên
    Đò thì mắm nục, mắm nêm
    Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường
    Đò thì gạo, nếp, trứng, đường
    Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
    Đò thì ghè, đục, ang, âu
    Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
    Buôn chi thì nỏ có lời
    Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao
    Buôn chi than, vải lụa thao
    Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
    Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi
    Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao

    B. Vè thằng nhác

    Lẳng lặng mà nghe
    Kể vè thằng nhác
    Gia đình khổ cực
    Vợ yếu con thơ
    Chồng ai được nhờ
    Chẳng nên trò trống
    Nửa ngày thức dậy
    Lục đục soong nồi
    Vắt áo đi chơi
    La cà hàng xóm
    Vợ nhờ cày ruộng
    Tao bị đau chân
    Vợ nhờ quét sân
    Đau lưng vẹo cổ
    Vợ nhờ bửa củi
    Cái búa nó hư
    Vợ bảo đi bừa
    Sợ rằng trâu húc
    Vợ nhờ đi gặt
    Tao gánh đau vai
    Thở ngắn than dài
    Tội tình chị vợ
    Ấy thế mà!
    Nồi cơm vừa dở
    Chưa kịp ai mời
    Cúi cổ cúi tai
    Một hồi chén sạch
    Là cái thằng nhác
    Ăn dữ không làm
    Hỡi xóm hỡi làng
    Nghe vè thằng nhác

    C. Vè con gái

    Nghe vẻ nghe ve
    Nghe vè con gái
    Tay chân mềm mại
    Khác thể bông ba
    Chờ mẹ đi ra
    Cắp tiền thu dấu
    Muốn ăn khoai nấu
    Muốn ăn khoai nướng
    Muốn ăn xôi chè
    Ăn rồi ngồi xếp bè he
    Cái lưng bơ bừng cái thúng
    Ăn chùng ăn vụng
    Cho sướng cái thân
    Việc nỏ muốn mần
    Dôông thì muốn lấy
    Áo năm bảy cấy
    Mược vào đi chợ
    Béng ướt dụy tôm
    Hai tay bóoc lá
    Lộ mồm hả ra

    IV/ Đồng dao

    Bập bong bong tay mô khôông tay mô có
    Bập bò bọ tay mô có tay mô khôông
    Chị lấy dôông em ở quá
    Chị ăn cá em mút xương
    Chị đường em mật
    Chị vật em coi
    Chị voi em ngựa
    Chị bựa em bèn
    Chị kèn em trống
    Chị trống em mái
    Chị méo em tròn
    Hai hòn về chị
    Rầm rà rầm rì
    Xây lúa Đồng Nai
    Cơm gạo phần ngài
    Tấm cám phần tui
    Lờ đệng cháy nhà
    Bà già chạy chựa
    Cháy nửa bồ thóc
    Lóc cóc chạy về
    Ông Đề hỏi răng
    Cu Nhăng cắn nhện

    Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng giò – Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo

    V/ Câu đối
    Văn vận tuột quần Văn vận vận
    Bích La đau bụng Bích La la

    Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ
    Bích giang không nón, Bích giang giang

    Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp
    Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao

    VI/ Ca dao
    Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở
    A. Quan hệ gia đình

    Biết răng chừ cá gáy hóa rồng
    Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa

    Chị em như chuối nhiều tàu
    Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời
    Cây kia ăn quả ai trồng
    Sông kia uống nước hỏi giòng từ đâu
    Cơ đồ gầy dựng bấy lâu
    Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài
    Mộ phần gìn giữ hôm mai
    Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường

    Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương
    Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi

    Còn cha gót đỏ như son
    Một mai cha chết, gót con đen sì

    Mẹ già ham việc tiếc công
    Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi
    Mãn rồi cai đội hồi hương
    Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng

    Ra đi bố mẹ ở nhà
    Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng

    B. Quan hệ xã hội

    Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ
    Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh
    Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình
    Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương

    Bạn về không có chi đưa
    Môn khoai đang dại, mít dừa đang non

    Cây cao bóng mát chẳng ngồi
    Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim

    Cây khô xuống nước cũng khô
    Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo

    Con quan lấy đứa mần than
    Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo

    C . Quan hệ lứa đôi

    Trăng lên tới đó rồi tề
    Nói chi thì nói, em về kẻo khuya

    [h=1]Bướm vàng đậu đọt cau tơ[/h]Kiếm cái nơi mô nương tựa
    Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài

    Chàng ơi phụ thiếp làm chi
    Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng

    Đi mô cho thiếp đi cùng
    Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo

    Cam chua, quýt ngọt… bồng the
    Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành

    Xa anh có bấy nhiêu ngày
    Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm

    Hai ta mót củi một cồn
    Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa

    Em đương vút nếp hong xôi
    Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm

    Ai hay nông nổi mần ri
    Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời

    Anh đã có vợ thời thôi
    Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều

    Anh về đừng có ngó lui
    Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương

    Anh đưa em lên đến ngã tư sòng
    Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ

    Được nên chồng nên vợ thì hay
    Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê

    VI. Hò:
    Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:

    A. Hò ru:
    Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:

    Khi con thức Mẹ cho con bú
    Khi con lú Mẹ lại ru hời
    Nuôi con cực lm con ơi
    Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng
    Để lấp biển vá trời như ai !

    Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử
    Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu
    Mai đây bóng xế trăng lu
    Con ve kêu mùa hạ
    Biết mấy thu đợi chờ

    Em nghe anh đau đầu chưa khá
    Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông
    Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng
    Đổ mồ hôi ra em chặm
    Lại ngọn gió lồng em che

    Ru hời ru hỡi là ru
    Bên cạn thời chống bên su thời chèo

    Xây thành đp lũy trên non
    Cm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày
    Một mai lửa dậy khói bay
    Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai

    Ơn cha ba năm báo bổ
    Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang

    Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn
    Lấy chi trả nghĩa sinh thành
    Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ

    B. Hò đối đáp:
    Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.

    1) Hò ân tình
    Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:
    Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu
    Vô đây phân giải đôi điều cho vui

    Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:
    Chào lê chào lựu chào đào
    Ai xa chào trước ai gần chào sau
    Chào bên nam mất lòng bên nữ
    Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên
    Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào

    Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ
    Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen
    Ra đây ta hò hát cho quen
    Rạng ngày ai về nhà nấy…
    Khá thể ngọn đèn hai tim

    Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:
    Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao
    Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời

    Nam: Con mắt em sắc hơn dao
    Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời

    Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít
    Trầu cả chợ răng gọi trầu không
    Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi
    Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ
    Cây không đi học răng kêu cây thông
    Anh đã đối đặng em theo chồng về mau

    Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi
    [h=2]Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè[/h]
    Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi
    Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu

    Nữ: Em như bông sen trong hồ
    Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em

    Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo
    Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên

    Nữ: Em đây như con rồng vàng
    Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời

    Nam: Anh đây có phép thần thông
    Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi

    Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng
    Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh

    Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn
    Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi

    Kiến bò cột sắt sao mòn
    Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây
    Kiến bò cột sắt thành đàn
    Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây

    Thương thay các cậu chự bò
    Cái lưng môốc thếc thếc
    Bộ giò đen thùi thui
    Em về dở sách ra dò
    Cha em lúc trước cũng chự bò như anh

    Trai không vợ như chợ không đình
    Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu

    Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc
    Chợ không đình tại thợ mộc suy vi
    Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng

    2) Hò đâm bắt:

    Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:
    Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi:

    Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra
    Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài
    Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:
    Anh ra ba em cũng ra
    Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi

    Một hôm khác tại Gia Đẳng:
    Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi
    Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè
    Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng

    Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:
    Liệu bề đát được thì đan
    Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười

    Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:
    Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài
    Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô

    Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:
    Ra đường lại gặp anh Ba
    Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!

    Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:
    Anh ở trung nớ mới ra bựa qua
    Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò
    Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!!

    Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:
    Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo
    Đóng bức đố xéo đã ra chi tài
    Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra

    Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:
    Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng
    Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan
    Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn

    Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:
    Em mua cho anh cái dù tám cóng
    Dưới có mốc đồng
    Răng anh không đội
    Để đầu không rứa hè

    Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:
    Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng
    Em đem về cho cha em đội cho nội em che
    Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi

    Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:

    Tiếng đồn em lấy chồng già
    Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng
    Tre già còn dẻo hơn măng
    Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ

    Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.

    Viết bởi: Lê Văn Trạch
  2. pe_kem14 Thành viên

  3. Chiếc Nhẫn Cỏ Thành viên

    Up lên đầu nào...................:)

Chia sẻ trang này