Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy. Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó. Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó. Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau: I / Tục ngữ: A. Về thời tiết và sản xuất Cò ăn ruộng sâu thì nắng Cò ăn ruộng cạn thì mưa Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ Đập đất nhỏ, luống đánh to Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào Đói thì ăn môn ăn khoai Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng Trăng rằm đã to lại tròn Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi Xứ Cùa đất đỏ ba dan Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu B. Về đời sống xã hội Liệu cơm mà gắp mắm ra Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô Khun ba năm không ai biết Dại một giờ bạn hay Đi buôn bữa lỗ bữa lời Ra câu giữa vời bữa có bữa không Ai ơi chớ lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm Khoai lang cổ bở cổ trân Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi Bỏ công múc nước đường xa Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi Sui gia là bà con tiên Ăn ở không hiền là bà con quỷ II / Câu đố: Hai người ở hai buồng Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung Đêm về sập cửa thả chông Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài (Hai con mắt) Gặp nhau đây bất luận đêm ngày Lật ra xem thử lỗ này ở đâu Đâm vô thì rút ra mau Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng Rút ra máu chảy tràn lan Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa (Đạp gai) Họ hàng chỉ sống trên non Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày Không may lửa dậy khói bay Thảm thương ấu tử sống rày thác mai (Tổ ong bị đốt) Cây xanh mà lá cũng xanh Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng Một mai lửa đỏ thành than Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi (Cây thuốc lá) III/ Vè: Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục . A. Vè Ba Lòng: Thanh trời rạng thấy núi xây Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương Trà Trì, Văn Vận hai phường Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa Tháng năm bắp đã tới mùa Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang Bao nhiêu thao vải, lụa hàng Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên Đò thì mắm nục, mắm nêm Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường Đò thì gạo, nếp, trứng, đường Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu Đò thì ghè, đục, ang, âu Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi Buôn chi thì nỏ có lời Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao Buôn chi than, vải lụa thao Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao B. Vè thằng nhác Lẳng lặng mà nghe Kể vè thằng nhác Gia đình khổ cực Vợ yếu con thơ Chồng ai được nhờ Chẳng nên trò trống Nửa ngày thức dậy Lục đục soong nồi Vắt áo đi chơi La cà hàng xóm Vợ nhờ cày ruộng Tao bị đau chân Vợ nhờ quét sân Đau lưng vẹo cổ Vợ nhờ bửa củi Cái búa nó hư Vợ bảo đi bừa Sợ rằng trâu húc Vợ nhờ đi gặt Tao gánh đau vai Thở ngắn than dài Tội tình chị vợ Ấy thế mà! Nồi cơm vừa dở Chưa kịp ai mời Cúi cổ cúi tai Một hồi chén sạch Là cái thằng nhác Ăn dữ không làm Hỡi xóm hỡi làng Nghe vè thằng nhác C. Vè con gái Nghe vẻ nghe ve Nghe vè con gái Tay chân mềm mại Khác thể bông ba Chờ mẹ đi ra Cắp tiền thu dấu Muốn ăn khoai nấu Muốn ăn khoai nướng Muốn ăn xôi chè Ăn rồi ngồi xếp bè he Cái lưng bơ bừng cái thúng Ăn chùng ăn vụng Cho sướng cái thân Việc nỏ muốn mần Dôông thì muốn lấy Áo năm bảy cấy Mược vào đi chợ Béng ướt dụy tôm Hai tay bóoc lá Lộ mồm hả ra IV/ Đồng dao Bập bong bong tay mô khôông tay mô có Bập bò bọ tay mô có tay mô khôông Chị lấy dôông em ở quá Chị ăn cá em mút xương Chị đường em mật Chị vật em coi Chị voi em ngựa Chị bựa em bèn Chị kèn em trống Chị trống em mái Chị méo em tròn Hai hòn về chị Rầm rà rầm rì Xây lúa Đồng Nai Cơm gạo phần ngài Tấm cám phần tui Lờ đệng cháy nhà Bà già chạy chựa Cháy nửa bồ thóc Lóc cóc chạy về Ông Đề hỏi răng Cu Nhăng cắn nhện Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng giò – Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo V/ Câu đối Văn vận tuột quần Văn vận vận Bích La đau bụng Bích La la Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ Bích giang không nón, Bích giang giang Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao VI/ Ca dao Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở A. Quan hệ gia đình Biết răng chừ cá gáy hóa rồng Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa Chị em như chuối nhiều tàu Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời Cây kia ăn quả ai trồng Sông kia uống nước hỏi giòng từ đâu Cơ đồ gầy dựng bấy lâu Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài Mộ phần gìn giữ hôm mai Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi Còn cha gót đỏ như son Một mai cha chết, gót con đen sì Mẹ già ham việc tiếc công Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi Mãn rồi cai đội hồi hương Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng Ra đi bố mẹ ở nhà Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng B. Quan hệ xã hội Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương Bạn về không có chi đưa Môn khoai đang dại, mít dừa đang non Cây cao bóng mát chẳng ngồi Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim Cây khô xuống nước cũng khô Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo Con quan lấy đứa mần than Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo C . Quan hệ lứa đôi Trăng lên tới đó rồi tề Nói chi thì nói, em về kẻo khuya [h=1]Bướm vàng đậu đọt cau tơ[/h]Kiếm cái nơi mô nương tựa Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài Chàng ơi phụ thiếp làm chi Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng Đi mô cho thiếp đi cùng Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo Cam chua, quýt ngọt… bồng the Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành Xa anh có bấy nhiêu ngày Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm Hai ta mót củi một cồn Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa Em đương vút nếp hong xôi Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm Ai hay nông nổi mần ri Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời Anh đã có vợ thời thôi Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều Anh về đừng có ngó lui Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương Anh đưa em lên đến ngã tư sòng Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ Được nên chồng nên vợ thì hay Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê VI. Hò: Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu: A. Hò ru: Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi: Khi con thức Mẹ cho con bú Khi con lú Mẹ lại ru hời Nuôi con cực lắm con ơi Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng Để lấp biển vá trời như ai ! Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu Mai đây bóng xế trăng lu Con ve kêu mùa hạ Biết mấy thu đợi chờ Em nghe anh đau đầu chưa khá Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng Đổ mồ hôi ra em chặm Lại ngọn gió lồng em che Ru hời ru hỡi là ru Bên cạn thời chống bên su thời chèo Xây thành đắp lũy trên non Cắm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày Một mai lửa dậy khói bay Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai Ơn cha ba năm báo bổ Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn Lấy chi trả nghĩa sinh thành Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ B. Hò đối đáp: Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt. 1) Hò ân tình Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân: Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu Vô đây phân giải đôi điều cho vui Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào: Chào lê chào lựu chào đào Ai xa chào trước ai gần chào sau Chào bên nam mất lòng bên nữ Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen Ra đây ta hò hát cho quen Rạng ngày ai về nhà nấy… Khá thể ngọn đèn hai tim Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục: Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời Nam: Con mắt em sắc hơn dao Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít Trầu cả chợ răng gọi trầu không Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ Cây không đi học răng kêu cây thông Anh đã đối đặng em theo chồng về mau Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi [h=2]Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè[/h] Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu Nữ: Em như bông sen trong hồ Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên Nữ: Em đây như con rồng vàng Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời Nam: Anh đây có phép thần thông Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi Kiến bò cột sắt sao mòn Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây Kiến bò cột sắt thành đàn Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây Thương thay các cậu chự bò Cái lưng môốc thếc thếc Bộ giò đen thùi thui Em về dở sách ra dò Cha em lúc trước cũng chự bò như anh Trai không vợ như chợ không đình Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc Chợ không đình tại thợ mộc suy vi Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng 2) Hò đâm bắt: Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. Chờ khi trăng lặn… Nguyệt Nga…) bởi thế trong phần lược kê dưới đây nếu có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm: Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi: Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn: Anh ra ba em cũng ra Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi Một hôm khác tại Gia Đẳng: Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra: Liệu bề đát được thì đan Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục: Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối: Ra đường lại gặp anh Ba Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!! Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt: Anh ở trung nớ mới ra bựa qua Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!! Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân: Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo Đóng bức đố xéo đã ra chi tài Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng: Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương: Em mua cho anh cái dù tám cóng Dưới có mốc đồng Răng anh không đội Để đầu không rứa hè Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công: Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng Em đem về cho cha em đội cho nội em che Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh: Tiếng đồn em lấy chồng già Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng Tre già còn dẻo hơn măng Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương. Viết bởi: Lê Văn Trạch