[Topic tổng hợp] Con người Quảng Trị

Thảo luận trong 'Người Quảng Trị' bắt đầu bởi lethithuhoa, 9/6/10.

  1. quangtrihlqt Thành viên

    Trạng nguyên Trần Cảnh Phát - Gio Linh

    Trần Cảnh Phát (sinh năm Nhâm Tý 1852) người làng Xuân Mỵ, tổng Xuân Hòa, huyện Minh Linh, Quảng Trị, nay là làng Xuân Mỵ, xã Trung Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
    Thuở nhỏ ông đã nổi tiếng tinh thông văn học, trong khoa thi Hương năm Bính Tý, ông đỗ Giải Nguyên trường Thừa Thiên. Đến khoa thi Hội Đinh Sửu, ông đổ Đệ Tam Giáp Đồng Tiến Sĩ Xuất thân.
    Khi ra làm quan ông từng được giử chức Hàn Lâm Viện Thị Giảng, Khởi Cư Chú của điện Kinh diên, năm 1886 được sung chức Phân khảo trường thi Hương Hà Nam, bị mất trên đường trở lại kinh thành, được phong chức Thị Độc học sĩ.
    nguồn :http://vi.wikipedia.org/
  2. quangtrihlqt Thành viên

    Đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường - Triệu Phong

    Nguyễn Văn Tường (chữ Hán: 阮文祥; 1824-1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn
    Tên họ và thi cử
    Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
    Với các tài liệu Đại Nam thực lục chính biênQuốc triều hương khoa lục, người đời sau nhận thấy:
    1. Trần Tiễn Thành và Quốc sử quán ghi chép: Vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), tại trường thi Thừa Thiên, có một sĩ tử người Quảng Trị, đã thi đỗ tú tài, nhưng bị phát hiện tên trùng với quốc tính. Dưới triều Minh Mạng đã có sắc dụ, ai mang họ Nguyễn mà tên kép có lót chữ Phước (Phúc), thì phải đổi chữ lót ấy. Nhưng sĩ tử họ Nguyễn, tên Phước Tường này lại không chịu đổi. Do đó, người tú tài tân khoa phải bị gạch tên trong danh sách trúng tuyển và đồng thời bị tội đồ (đày nơi gần) một năm.
    2. Về kì thi hương vào năm Tự Đức thứ 3 (1850), sự cố chữ "Phúc" lại được Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép như sau: "Nguyễn Văn Tường, người xã An Cư, huyện Đăng Xương [Triệu Phong - chua thêm], tỉnh Quảng Trị. Nguyên tên là Nguyễn Phước Tường; vì tên trùng với quốc tính, không chịu đổi, nên bị đi đày; hết hạn lại được phục hàm cử nhân".
    Như vậy, có thể lần thứ hai này, Nguyễn Văn Tường chỉ bị "nhắc lại" án cũ, hồi ông mới 18 tuổi (1842).
    Hành trạng chính trị
    1850–1868

    Sau khi đậu cử nhân (1850), dự thi hội, đạt đủ phân số điểm để được bổ nhiệm, ông vào huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, nhận chức huấn đạo (phụ trách việc dạy và học).
    1853, huyện Thành Hóa, thuộc tỉnh Quảng Trị được thành lập. Ông được bổ làm tri huyện ở đó cho đến 9 năm sau. Thành Hóa là một nơi xung yếu, "hậu lộ của kinh đô", chỉ những người được tin cậy mới được giao trọng trách, nhất là trong thời điểm Pháp đã tấn công Đà Nẵng, Gia Định, kích động nội phản ở Bắc Kỳ, sứ bộ Phan Thanh Giản kí kết Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Tại đây, ông đã xây dựng được một căn cứ địa tốt cho Huế. Ông lại chứng tỏ là một người rất có tâm và tài trong việc đoàn kết người Thượng với người Kinh.
    Năm 1862, ông vào kinh đô Huế giữ chức biện lí Bộ Binh, rồi vào Quảng Nam làm án sát.
    Năm 1864, vì cần có vị quan giỏi để điều hành "điểm nóng" mâu thuẫn lương - giáo, ông được chuyển đổi làm phủ doãn kinh đô (tỉnh Thừa Thiên và đạo Quảng Trị). Năm 1866, vì cuộc khởi nghĩa "Chày vôi" nổ ra trong phạm vi quản lí, ông bị cách chức.
    Từ 1866 đến 1868, Nguyễn Văn Tường trở lại huyện Thành Hóa, với chức trách bang biện (tham mưu), tiếp tục xây dựng căn cứ địa Thành Hóa (Tân Sở về sau). Trong hai năm này, ông lại được cấp ấn quan phòng với quyền được trực tiếp tâu lên vua những việc thực thi cụ thể cùng những kiến nghị rộng lớn.
    Cũng trong năm Đinh Mão 1867, mặc dù đang ở huyện Thành Hóa, ông vẫn được triều đình và vua Tự Đức điều động vào sứ bộ để vô Gia Định đàm phán với Pháp. Đặc biệt, năm sau, khi sứ bộ dự định đi Paris, ông có viết một bản tấu nổi tiếng, thể hiện tư tưởng "phòng thủ chủ chiến" (thủ để chiến), đồng thời phê phán "ảo tưởng hòa nghị" (tháng 3 âm lịch, Mậu Thìn 1868).
    Thương thuyết với nhà Thanh (1868–1873)

    Từ tháng 7 âm lịch, cũng năm Mậu Thìn (1868) ấy, Nguyễn Văn Tường với chức tán tương quân thứ, đứng vào hàng ngũ các quan tướng chỉ huy 3 đạo quân hùng hậu nhất của triều Nguyễn, tiến ra Bắc tiễu phỉ (nội phản, nhất là tàn quân Thái bình thiên quốc toan xưng hùng xưng bá ở biên giới Đại Nam, mặc dù triều đình đã hết sức phủ dụ). Suốt 5 năm trời, ông là một quan văn cầm gươm từng trải trận mạc trên vùng núi phía Bắc, đồng thời là một nhà ngoại giao trong nhiệm vụ thương thuyết, phối hợp tiễu phỉ với quân binh nhà Thanh. Đây cũng là thời đoạn các quân thứ Đại Nam thu phục được Lưu Vĩnh Phúc (chủ tướng quân Cờ Đen) để tiêu diệt quân Cờ Vàng, Cờ Trắng và để chống Pháp.
    Hòa ước Giáp Tuất (1874)

    Việc tiễu phỉ ở phía Bắc không thể dứt điểm được, Pháp lại dùng thủ đoạn "buôn bán" vũ khí cho bọn phỉ để nuôi dưỡng chúng, nhằm làm tiêu hao sinh lực quân Đại Nam và ý chí của triều đình. Vì vậy, 1873, ông được điều động vào phái bộ, do Lê Tuấn làm chánh sứ, vô Gia Định thương lượng với thực dân Pháp. Cuộc đàm phán kéo dài, bởi triều đình và sứ bộ Đại Nam không chịu nhân nhượng Pháp, mặc dù tại Gia Định lúc ấy, không chỉ có Pháp mà còn có các đại diện của nhiều nước thực dân châu Âu và cố đạo Thiên Chúa giáo (PhápTây Ban Nha). Tướng Pháp Dupré cử Francis Garnier ra quấy nhiễu Bắc Kỳ để làm sức ép. Thành Hà Nội cùng các thành tỉnh lân cận bị thất thủ. Nguyễn Tri Phương tử tiết. Tuy quân của Lưu Vĩnh Phúc chém được Francis Garnier, nhưng tình thế buộc triều đình phải nhân nhượng. Nguyễn Văn Tường ra Bắc Kỳ thu hồi xong bốn tỉnh, lại phải vào Gia Định để cùng Lê Tuấn, Nguyễn Tăng Doãn tiếp tục bàn định các điều khoản, cuối cùng phải đành chấp nhận Hòa ước Giáp Tuất (1874) và một thương ước khác.
    Trọng thần tại triều đình (1874–1883)

    Năm 1874, ông giữ chức Thượng thư Bộ Hình kiêm Thương bạc đại thần tại kinh đô Huế. Không lâu sau ông được bổ sung vào Viện cơ mật. Từ thời điểm này, Nguyễn Văn Tường là một trọng thần tại triều. Chức vụ ông giữ lâu nhất là Thượng thư Bộ Hộ, quản lí Thương bạc viện (cơ quan ngoại giao và ngoại thương). Ông còn là người có công cải cách thuế ruộng đất, để thống nhất Đàng TrongĐàng Ngoài về chiều sâu, thiên về tầng lớp nông dân nghèo.
    Phụ chính đại thần (1883–1885)

    Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, trong tình hình Bắc Kỳ đang bị thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Mặc dù Henri Rivière cũng bị giết chết trong một trận đánh do Hoàng Tá Viêm làm tổng chỉ huy, Lưu Vĩnh Phúc trực tiếp cầm quân, các tỉnh Bắc Kỳ vẫn chưa thu hồi được, kinh đô Huế lại đứng trước nguy cơ bị tấn công. Và thật sự Thuận An, cửa ngõ của kinh đô, đã bị thất thủ, không lâu sau ngày vua Tự Đức mất. Do đó, cùng với Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường lần lượt lập rồi phế bỏ 2 vua Dục Đức, Hiệp Hòa (với lý do: một thân Pháp, "tả đạo"; một cấu kết với Pháp qua De Champeaux), nhằm mục đích đưa lên ngai vàng một vị vua yêu nước, quyết chiến với thực dân Pháp.
    Bấy giờ, quân Thanh đã sang đất Bắc Kỳ để phối hợp đánh Pháp, theo những lần thương nghị giữa Nguyễn Văn Tường, đại diện triều đình Đại Nam, và Đường Đình Canh, đại diện triều đình Đại Thanh (Trung Hoa), từ năm 1881. Nhưng trong thực tế, quân binh nhà Thanh lại mưu mô quy phục Lưu Vĩnh Phúc nhằm mục đích cùng Pháp chia đôi Bắc Kỳ ("Bắc Kỳ mỏ" và "Bắc Kỳ gạo"), lấy sông Hồng làm ranh giới.
    Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết thực hiện kế sách quân sự "tọa sơn quan song hổ đấu", thúc đẩy chiến tranh giữa Pháp và Hoa nổ ra, còn triều đình Huế đứng vào thế trung lập.
    Nhưng triều đình nhà Thanh lại kí Hòa ước Thiên Tân với Pháp, cô lập hoàn toàn triều đình Huế. Triều đình Huế bị bắt buộc phải kí Hòa ước Giáp Thân (còn gọi là Hòa ước Patenôtre, 1884). Trong tình thế ấy, hai vị phụ chính đại thần vẫn cố gắng tiếp tục thúc đẩy chiến tranh Pháp - Hoa tiếp diễn, nhằm làm suy yếu lực lượng cả Pháp lẫn Hoa và tranh thủ thời gian để xây dựng cơ sở cho phong trào Cần Vương. Một loạt sơn phòng được củng cố, xây dựng, gồm cả "hậu lộ kinh đô", Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị). Đích thân Nguyễn Văn Tường chỉ đạo xây dựng "kinh đô kháng chiến" hoặc "kinh đô tị địa" này.
    Vua Kiến Phúc lại không may mắc bệnh, băng hà. Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép khá kĩ lưỡng như sau:
    “Vua không khỏe, tháng tư trước, ngọc thể vi hoà, đình thần đã xin vua tĩnh dưỡng, và chia nhau đi cầu đảo các linh từ; sau đó đã khỏe, nhưng chưa được bình phục như cũ; đến ngày mồng 7 tháng này, ngày kỷ mão, mới ngự điện Văn Minh, chịu lễ chầu mừng, ban thưởng lụa hoa cho các bầy tôi có sai bậc, rồi sau lại không được khỏe. Thái y tiến thuốc, không thấy công hiệu. Ngày mồng 10, nhâm ngọ, bệnh kịch; giờ ngọ hôm ấy vua mất ở chính điện Kiền Thành. Hoàng thái phi bèn vời bọn Tôn nhân phủ Miên Định, phụ chính phủ thân đại thần Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật, truyền bảo hoàng đế di chúc rằng: Hoàng đế đức mỏng, có em là Ưng Lịch có học có hạnh, hoàng đế như có mất đi, truyền bảo tôn nhân phụ chính nên lấy Ưng Lịch vào nối ngôi lớn, để phụng tôn miếu; lại đại lễ tiên hoàng đế chưa xong, và lấy của dùng chưa sẵn, vậy hợp thành tang lễ châm chước làm được 4, 5 phần mà thôi, chớ cầu thể lệ.
    Bấy giờ, Miên Định công và phụ chính thân đại thần truyền lệnh cho biết. Tôn nhân phủ, văn võ đình thần bèn hợp từ tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu; hoàng thái hậu rước công tử Ưng Lịch (là con thứ 5 Kiên Thái vương Hồng Hợi, biện phụng vương ấy), vào nhà tang xưng là tự quân, phàm việc tâu xin tuân hành; chọn ngày lành làm lễ tấn tôn (đó là vua Hàm Nghi) ...[1]

    Ngày 12 tháng 6 âm lịch, năm Quý Mùi (1884), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cùng Tôn nhân phủ, đình thần lập vua Hàm Nghi lên ngôi.
    Hai vị phụ chính cùng các thành viên nhóm chủ chiến (Trần Xuân Soạn, Trương Văn Để...) đã có một vị minh quân để tiếp tục đương đầu với Pháp cũng như với bộ phận khá lớn giáo dân Thiên Chúa giáo được cho là bị các cố đạo phỉnh gạt, cầm súng, đào hào, tiếp tế lương thực cho Pháp.
    Chính phủ Pháp quyết thực hiện xâm lược toàn bộ Đại Nam. De Courcy được cử sang với mục đích hoàn tất việc chiếm trọn Bắc Kỳ và bắt đầu tấn công chiếm cứ kinh đô Huế. Câu nói của De Courcy, hầu như ai cũng biết, "cần phải giải quyết việc này ở Huế"; và ông ta đã vạch kế hoạch bắt sống hoặc tiêu diệt nhóm chủ chiến triều đình Huế, đứng đầu là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.
    [sửa] Cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ (05-7-1885)

    Chi tiết:Trận Kinh thành Huế 1885
    Ngày 23 tháng 5 âm lịch, Ất Dậu (khuya ngày 4 tháng 7, bước sang ngày 5 tháng 7 năm 1885), tuy thi hành kế sách "không biết gì", nhưng thực sự ông cùng Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc tấn công một cách bất ngờ vào Sứ quán Pháp bên kia sông Hương và doanh trại Pháp tại Mang Cá (Huế), nhưng thất bại. Thực chất đó chỉ là đòn đánh trước để giành thế thượng phong, mặc dù biết rằng De Courcy cố dùng kế khích tướng, ép buộc quân Đại Nam phải tấn công trước (Đại Nam tấn công trước thì không nước nào trách được việc Pháp vi phạm các hòa ước).
    Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi và Tam cung (thái hoàng thái hậu Từ Dũ, Trung phi Vũ thị, Học phi Nguyễn thị) ra khỏi kinh thành; trong khi đó, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn vẫn cố kìm giữ sự tấn công của Pháp. Trần Xuân Soạn là vị tướng can trường, ông có nhiệm vụ rút quân cuối cùng.
    Theo dự kiến mà nhóm chủ chiến đã vạch ra trong trường hợp kinh đô thất thủ (phương án 2), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lúc ấy liền quyết định đưa vua ra thành Quảng Trị, rồi sẽ đưa lên Tân Sở (tại huyện Thành Hóa, tức là Cam Lộ) để tránh đạn quân xâm lược Pháp, đồng thời phát Dụ Cần vương.
    Trong lúc đó, một mặt được lệnh của bà Từ Dũ và vua Hàm Nghi, mặt khác là thực hiện phương án 2, ngăn cản Pháp truy kích xa giá, thực thi kế sách "kẻ ở người đi" (đàm và đánh), nên ông đã quay lại điều đình với Pháp[2]. Nguyễn Văn Tường đã nhờ giám mục Caspar (có tên tiếng Việt là Lộc) của giáo đường Kim Long đưa sang Sứ quán để gặp tướng De Courcy (qua môi giới Caspar cũng là cách mà vào năm 1883, khi Thuận An thất thủ, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp đã thực hiện trong việc "cầu hòa"). Sau khi De Courcy buộc Nguyễn Văn Tường ban bố một vài lệnh lạc "hòa hảo giữa hai nước Việt - Pháp", ông ta lại ra thời hạn cho Nguyễn Văn Tường: trong vòng hai tháng phải tìm cách để đưa vua Hàm Nghi và Tam cung về.
    Nguyễn Văn Tường phái Phạm Hữu Dụng cầm sớ ra Quảng Trị, tâu xin rước vua về, nhưng Tôn Thất Thuyết cản sớ không cho vua biết. Tôn Thất Thuyết dặn Phạm Hữu Dụng: Nguyễn Văn Tường cố gắng thương thuyết với Pháp 2 điều là Pháp không được tiếp tục bức hiếp và phía ta cũng nên "đoàn kết" với Pháp. Nếu được như thế, mới có thể rước vua Hàm Nghi về lại kinh đô.
    Nguyễn Văn Tường lại viết sớ vấn an Tam cung, và đệ trình về việc Tam cung tạm về Khiêm lăng (lăng Tự Đức) trong khi chờ vụ việc được giải quyết.
    Về việc Tôn Thất Thuyết cản Phạm Hữu Dụng trực tiếp dâng sớ lên vua Hàm Nghi và cũng không cho vua biết: Đây có thể là một khía cạnh mâu thuẫn trong sách lược mà hai vị phụ chính đã bàn với nhau, và chắc hẳn đúng hơn là do tình huống mới nảy sinh, nên đó chỉ là một "động tác giả", để thực hiện thủ thuật "hai mặt", nhằm đối phó với Pháp. Nhưng ngay sau đó, bằng sự liên lạc mật, họ lại nhất trí vẫn duy trì kế sách "kẻ ở người đi". Từ Tân Sở, Dụ Cần vương chính thức và duy nhất được ban bố, cùng thời điểm vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết gửi về Huế một bản sắc dụ cho Nguyễn Văn Tường. Mật dụ của vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) từ Tân Sở gửi về Nguyễn Văn Tường, cùng một ngày phát Dụ Cần vương, 2 tháng 6 năm Ất Dậu (13 tháng 6 năm 1885):
    “... Tôn Thất Thuyết còn giữ giá vua còn đóng ở Phòng Quảng Trị, đã kèm vua ra Lệnh dụ Thiên hạ cần vương, lại sẽ dụ bảo Nguyễn Văn Tường và yên ủi những người họ mạc ở trong kinh, đều một đạo, do đường dịch lộ chuyển chạy về kinh. (Khi ấy tự Phòng đến kinh ống trạm còn chuyển đệ được). Đó đều là việc từ mồng 7 tháng này trở về trước. Ngày mồng 2 dụ Văn Tường, lược nói:
    Y [De Courcy] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến Triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lý thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp, phàm những khoản gì bách thiết, chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho hai nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này ta mệnh cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư, nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.
    Nếu không như thế thì các miếu xã lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ cho khanh. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời, rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là Triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh được thua vậy.
    Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía Bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa tài lược không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh nên nghĩ cho kỹ nhé, có muốn nên tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét cũng chẳng hại gì.[3]

    Sau đó ít hôm, vào ngày 7 tháng 5 năm Ất Dậu (18 tháng 7 năm 1885), vua Hàm Nghi (và Tôn Thất Thuyết) lại từ Tân Sở gửi một mật dụ về Huế cho hoàng tộc:
    “Ngày mồng 7, dụ các người trong họ, đại lược nói: Dụ Thọ Xuân vương, phụ chính Hoài Đức công và các bọn hoàng phiên, công chúa nghĩ coi: Nước Nam ta nhiều lần bị kẻ khác bức hiếp nhiều khoản, phàm có tai mắt khí huyết không ai là không uất ức buồn rầu, chẳng riêng người trong họ ta mà thôi. Trẫm vâng di mệnh của tiên quân, và các vương công phụ thần cùng suy tôn lên quyền giữ việc nước. Phàm có trăm điều đều duy kiến nghị, phải ấy thì theo. Trẫm tuổi trẻ, kiến thức chưa rộng, dám đâu chuyên trái việc gì, cho nên hễ khi tiếp được thư của nước Đại Pháp gửi đến khoản gì, nếu quá lăng nhục và yêu sách quá đáng, nhân tình không thể chịu được, mật nghe vương công và các phụ chính khuyên bảo, không đâu là không cưỡng tự đau đớn nín náu, chịu theo êm việc, vì muốn bảo toàn xã tắc, để họ mạc lâu dài hưởng tôn quý giàu sang vậy. Không ngờ sứ Pháp ngang ngược ngày thêm, không còn được chút quốc thể, cúi xuống đất, ngửa lên trời, xiết bao hổ thẹn, vạn bất đắc dĩ mà phải làm ra việc này; quay nhìn nơi lăng miếu và các bậc ý thân, thực không biết bao nhiêu là tưởng nhớ, chả biết trong tôn tộc từng có tin đến sự lo xuôi nghĩ ngược của ta không? Nay đã có phụ chính huân thần là Nguyễn khanh [Nguyễn Văn Tường] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn; huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định. Vương công đều là cốt nhục chí thân, đều nên thương ta khổ tâm, thể tất ta vô cùng. Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất. Nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời, thế là lành lắm, tốt lắm. Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay, càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ. Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường. Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng.[4]

    Trong hai tháng đó, Nguyễn Văn Tường hoàn toàn bị Pháp quản thúc ngay tại Sở Thương bạc, do một trung đội lính viễn chinh thuộc Pháp canh giữ, sĩ quan Schmitz chỉ huy. Tất cả mọi sắc dụ kí tên thái hoàng thái hậu Từ Dũ đều do Miên Định (chú ruột vua Tự Đức, hiện giữ chức nhiếp chính giám quốc) bàn bạc, thông qua và Nguyễn Nhược Thị Bích (tác giả Hạnh Thục ca) chấp bút.
    Tuy ở trong thế bị quản thúc nghiêm ngặt, Nguyễn Văn Tường vẫn đấu tranh hết sức gay gắt với nhóm người "đón gió xoay buồm", trực diện là với Nguyễn Hữu Độ (người đã có ý theo Pháp từ 1873 -- theo ghi chép đã xuất bản của Jean Dupuis và theo Đại Nam thực lục chính biên), trong việc phong chức hàm cho ông ta với quyền hạn "phó vương" tại Bắc Kỳ, thành lập Nha Kinh lược tại đấy, mà thực chất là mất hẳn Bắc Kỳ vào tay Pháp và các cố đạo như Puginier.
    Trong khi đó, phong trào "Cần vương, bình Tây, sát tả đạo" đã bùng nổ ra khắp cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh tả kì (phía trái cửa ngõ vào kinh đô, tức là phía Nam). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính Nguyễn Văn Tường đã lãnh nhiệm vụ chỉ đạo tổng quát ở miền đất ấy, trong khi Tôn Thất Thuyết phụ trách các tỉnh hữu kì (phía Bắc) (xem cáo thị khi giặc Pháp bắt Nguyễn Văn Tường bên dưới).
    Lưu đày và cái chết nơi biệt xứ (1885–1886)

    Hết hạn hai tháng, đúng vào ngày 27 tháng 7 Ất dậu (5 tháng 9 năm 1885), Pháp ra lệnh bắt Nguyễn Văn Tường. De Courcy chỉ thị De Champeaux công khai cáo thị khắp nước. Quốc sử quán ghi nhận như sau:
    “Đô thống Đại Pháp là Cô-ra-xy [De Courcy] bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh Lại bộ thượng thư, kiêm sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công, là Nguyễn Văn Tường xuống tàu thủy chạy đi Gia Định. Cứ theo lời cáo thị của khâm sứ Tham-bô [De Champeaux] nói: Văn Tường từng đã chống cự nước ấy [nước Pháp] thực đã nhiều năm. Từ khi cùng Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chỉn [vốn] lại đổng suất quan quân nổi dậy công kích quan binh nước ấy; và Văn Tường do đô thống ấy xin [chính phủ Pháp] cho hai tháng [nhằm để] lo liệu việc nước cùng Bắc Kỳ cùng được lặng yên vô sự; [kì thực] đến ngày 27 tháng ấy hết hạn, mà các tỉnh tả kỳ về phía Nam, có nhiều nơi nổi quân chém giết dân giáo. Đến đây đô thống ấy định án, ưng [nên; phải] kết tội lưu.
    Hôm ấy chở đem Văn Tường đến cửa biển Thuận An; buổi chiều Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình đi tàu thủy Pháp cũng về đến cửa biển ấy.
    (Thuyền Pháp chở Văn Tường đến Gia Định, sau chở gồm cả Phạm Thận Duật, Lê Đính [Tôn Thất Đính] đem về nước ấy [thuộc địa Tahiti]; Thận Duật trong khi đi đường bị ốm chết ở trong tầu, buông xác xuống biển) ...[5]

    Không những người Pháp ở Gia Định đổ một loại hóa chất gây cháy bỏng vào miệng Nguyễn Văn Tường, khi tra tấn (để khỏi la hét, gào rú), De Courcy còn đánh điện tín cho Caffort, chúa đảo Côn Đảo: "Tầm quan trọng của những tù nhân chính trị này đòi hỏi họ phải được giám sát nghiêm ngặt với bất cứ giá nào"; trong đó, Nguyễn Văn Tường là "kẻ thù nguy hiểm nhất" đối với Pháp[6].
    Khi ông và hai người bạn tù của ông đã bị giam giữ tại Côn Đảo, chính phủ Pháp lại chuẩn bị lưu đày họ tận Tahiti; bấy giờ, triều Đồng Khánh, dưới sự chỉ đạo của De Courcy, đã "xử án vắng mặt" nhóm chủ chiến triều đình Huế, với nội dung chính là hành trạng của họ từ ngày 5 tháng 7 đến 5 tháng 9 năm 1885. Bản án chung thẩm ấy được xét xử, công bố vào tháng 8 âm lịch Ất Dậu (tháng 9 năm 1885):
    “Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo.[7]
    Lúc khoảng 4 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 7 năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất. Sau một vài tháng quàn giữ, di thể ông được Tôn Thất Đính đưa về Đại Nam.
    Trước tác

    Một số văn bản tài liệu

    Lúc sinh thời, ông nổi tiếng là người sắc sảo, cả quyết và mưu trí. Trong khi làm quan, ông đã dâng lên vua nhiều tấu sớ. Hầu hết các tài liệu này đã được vua Tự Đức đích thân phê duyệt, và được các quan lưu giữ tại các nha môn, bộ, viện và tại Quốc sử quán. Số di cảo này đã được Nhóm Tư liệu Hán - Nôm lịch sử cận đại Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh và nhóm giảng viên Đại học Sư phạm Huế sưu tầm, dịch thuật.
    • Nam Kỳ tấu nghị (chưa xuất bản toàn bộ, chỉ mới ấn hành từng phần)
    • Bắc Kỳ tấu nghị (chưa xuất bản, chỉ mới ấn hành từng phần)
    • Thương bạc viện phúc (chưa xuất bản, chỉ mới ấn hành từng phần)
    • Văn thư thương thuyết Nhà Thanh viện binh tiễu phỉ.
    Sáng tác thơ ca

    Nguyễn Văn Tường còn có một tâm hồn thơ ca và những bài thơ giàu cảm xúc, đầy trách nhiệm trước vận nước. Nhưng đa số thơ được Nguyễn Văn Tường sáng tác, hiện còn lại, chủ yếu là trong 5 năm tiễu phỉ ở núi rừng phía Bắc và một vài tỉnh gần kề với Lạng Sơn:
    • Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) - Thơ - Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng, gồm các sáng tác văn vần (khoảng 5 cặp câu đối và trên 60 bài thơ chữ Hán) người đời sau sưu tầm được, tạm đặt tên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường thi tập hoặc Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường thi tập[8]
    Thông tin thêm

    Vào ngày 3 tháng 6 năm 2007, Hội Khoa học Lịch sử của tỉnh Thừa Thiên-Huế đã đã đưa ra đề nghị "Tặng bia cho các nhân vật lịch sử" để ghi nhận công lao của các nhân vật lịch sử tại Việt Nam, trong số đó có Nguyễn Văn Tường.
    Theo thông tin từ trang web của tỉnh Quảng Trị:
    “Kết quả nghiên cứu về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường là một trong những thành tựu có ý nghĩa của giới sử học nước ta trong thời gian qua. Từ trong tăm tối của quá khứ bất minh, lịch sử Nguyễn Văn Tường đã được đưa ra ánh sáng, được khôi phục lại giá trị chân chính; giới sử học đã tẩy được vết nhơ trên tấm kính chân dung, hình ảnh Nguyễn Văn Tường từ đây được tỏa sáng và được hậu thế tôn vinh. Để ghi lại vắn tắt về một quá trình nghiên cứu lâu dài và khẳng định vai trò Nguyễn Văn Tường đối với lịch sử dân tộc, Hội KHLS Việt Nam - Hội KHLS tỉnh Thừa Thiên Huế kính tặng Bia Lịch sử Nguyễn Văn Tường cho quê hương và gia tộc
    nguồn: http://vi.wikipedia.org
  3. quangtrihlqt Thành viên

    Tiến sỹ Nguyễn Phiên-Gio Linh

    Nguyễn Phiên (1814-1849) là một tiến sĩ Nho học, quan lại triều Nguyễn Việt Nam.
    Ông người làng Xuân Mỵ, tổng Xuân Hòa, huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị, ngày nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
    Ông sinh ra trong một gia đình Nho giáo có tiếng. Thân phụ là Nguyễn Xuân Hạ, một học sinh Quốc Tử Giám. Anh trai ông là phó bảng Nguyễn Xuân Bảng.Bản mẫu:Quốc Triều Khoa Bảng Lục NXB Văn Học trang 31
    Nguyễn Phiên thi đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1840)[1], đổ tiến sĩ khoa Quí Mão (1843).
    Năm 1842, ông được bổ làm hành tẩu bộ Lễ, rồi khảo quan trường thi Hương Hà Nội (1842). Sau khi đỗ tiến sĩ, ông được bổ làm biên tu ở Hàn lâm viện, sung Nội các, rồi thăng làm chủ sự bộ Công, trước tác Hàn lâm viện, sung làm khảo quan kỳ thi Hội Đinh Mùi(1847). Ông còn được thăng làm tri phủ Kiến An, tỉnh Định Tường.[2]
    Nguyễn Phiên mất ngày 3 tháng 8 năm Kỷ Dậu (1849).
    nguồn: http://vi.wikipedia.org
  4. quangtrihlqt Thành viên

    Ca sỹ Duy Khánh-QT

    [IMG]
    Duy Khánh (1936 - 2003), tên thật Nguyễn Văn Diệp, còn có nghệ danh Tăng Hồng, Hoàng Thanh, là một nam ca sĩ người Việt. Ông nổi danh từ thập niên 1960, với những bài hát mang âm hưởng dân ca và "dân ca mới" của Phạm Duy, nhạc quê hương. Ông được xem như là một trong bốn giọng nam nổi tiếng nhất của nhạc vàng thời kỳ đầu ("tứ trụ nhạc vàng"), ba người còn lại là: Nhật Trường, Hùng Cường, Chế Linh . Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ tài năng với hơn 30 ca khúc, nổi tiếng phải kể đến Thương về miền Trung, Lối về đất mẹ, Ai ra xứ Huế, Xin anh giữ trọn tình quê ...
    Tiểu sử
    • Năm 1964 ông thành hôn với Âu Phùng, một phụ nữ gốc Hoa, sinh ra 2 người con. Về sau hai người đã ly dị.
    • Đến 1988, ông được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, tại đây ông tiếp tục ca hát và sáng tác.
    Sự nghiệp
    Năm 1952, Duy Khánh đọat giải nhất cuộc thi tuyển lựa ca sĩ của đài Pháp Á tại Huế với bài hát Trăng thanh bình. Sau đó ông chuyển vào Sài Gòn để theo đuổi nghề ca hát.
    Vào Sài Gòn, ông bắt đầu ghi âm đĩa nhựa và đi diễn khắp nơi, dần nổi tiếng với tên Hoàng Thanh. Ông trở thành một trong ba giọng nam được yêu thích nhất, cùng với Duy Trác, Anh Ngọc. Thời kỳ này tên tuổi của ông gắn liền với những bài có âm hưởng dân ca và "dân ca mới" của Phạm Duy: Vợ chồng quê, Ngày trở về, Nhớ người thương binh, Tình nghèo, Quê nghèo, Về miền trung... rồi đổi nghệ danh là Duy Khánh. Chữ "Duy" trong Phạm Duy, còn "Khánh" là tên một người bạn thân của ông.
    Năm 1965, ông cùng với nữ danh ca Thái Thanh thu thanh bản trường ca Con đường cái quan của Phạm Duy. Sau đó cùng hai người hát trường ca Mẹ Việt Nam. Cho đến nay, hai bản trường ca này vẫn gắn liền với giọng hát Thái Thanh, Duy Khánh.
    Ông bắt đầu viết nhạc từ năm 1959, nhạc ông thường nói về tình yêu quê hương, mang hơi dân ca xứ Huế và được đón nhận nồng nhiệt, ngay từ hai sáng tác đầu tay: Ai ra xứ huế, Thương về miền trung.
    Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông bị cấm hát một thời gian dài, sau đó thành lập đoàn nhạc Quê Hương, quy tụ các nhạc sĩ Châu Kỳ, Nhật Ngân, các ca sĩ Ngọc Minh, Nhã Phương, Bảo Yến... Sau khi sang Mỹ vào năm 1988, ông hát độc quyền cho trung tâm Làng Văn, sau đó tách ra, thành lập trung tâm Trường Sơn tiếp tục ca hát và dạy nhạc cho đến cuối đời.
    Nhận xét
    "Trong giọng ca Duy Khánh, nghe âm hưởng tiếng trống cổ thành, tiếng thông reo trên đồi Vọng Cảnh"

    Phạm Duy
    Sáng tác
    • Ai ra xứ Huế
    • Bao giờ em quên
    • Biết trả lời sao
    • Đêm bơ vơ
    • Đêm tiền đồn
    • Đêm trao kỷ niệm
    • Đi giữa lòng đất mẹ
    • Giấc mơ địa đàng
    • Thương về miền Trung
    • Xin anh giữ trọn tình quê
    • Lối về đất mẹ
    • Huế đẹp Huế thơ
    • Tình ca quê hương
    • Trường cũ tình xưa
    • Sao Danh Bo Que Huong (1979)
    Băng nhạc, CD
    • Trường Sơn 1: Hát giữa quê hương (1969)
    • Trường Sơn 2: Quê hương và tuổi trẻ (1970 hay 1971)
    • Trường Sơn 3: Người tình và quê hương (1971)
    • Trường Sơn 4: (1971)
    • Trường Sơn 5: Tình trong khói lửa
    • Trường Sơn 6: Quê hương và tuổi loạn (1972)
    • Trường Sơn 7: Quê hương, mùa trăng, mùa thu (1972)
    • Trường Sơn 8:
    • Trường Sơn Nhạc tuyển
    • Tiếng hát DUY KHÁNH 1
    • Tiếng hát DUY KHÁNH 2
    • Trường Sơn Duy Khánh 1 : Quê hương ta (1990)
    • Trường Sơn Duy Khánh 2 : Tình đời, Tình bạn, Tình yêu (1990)
    • Trường Sơn Duy Khánh 3 : Lính và đời lính (1990)
    • Trường Sơn Duy Khánh 4 : Xa nguồn yêu thương
    • Trường Sơn Duy Khánh 5 : Sớm muộn tôi cũng về (1991)
    • Trường Sơn Duy Khánh 6 : Không chủ đề 1 (1991)
    • Trường Sơn Duy Khánh 7 : Mẹ trong lòng người đi (1991)
    • Trường Sơn Duy Khánh 8 : Vườn dâu xanh (1991)
    • Trường Sơn Duy Khánh 9 : Những chiều không có em (1991)
    • Trường Sơn Duy Khánh 10 : Những mảnh tình quê (1992)
    • Trường Sơn Duy Khánh 11 : Lời đầu năm cho con (1992)
    Nguồn: http://vi.wikipedia.org
    lethithuhoa thích bài này.
  5. quangtrihlqt Thành viên

    Nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ- Triệu Phong

    Hoàng Thi Thơ (sinh 1 tháng 7 năm 1929 - mất 23 tháng 9 năm 2001) là một nhạc sĩ Việt Nam. Ông nổi tiếng tại miền Nam trước 1975 với những bài hát ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt.
    Sau năm 1975, tại Việt Nam, ông cùng với nhạc sĩ Phạm Duy là 2 người bị cấm về nhân thân, đến đầu năm 2009, một số bài hát của ông mới được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép phổ biến trở lại
    Tiểu sử
    Hoàng Thi Thơ sinh ngày 1 tháng 7 năm 1929 (Mậu Thìn) tại làng Bích Khê, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông hoạt động nghệ thuật từ năm 1945, khi còn học trung học tại Huế rồi Hà Tĩnh.
    Sau khi học xong Tú tài, tháng 10 năm 1950, ông vào đại học tại trường Dự bị đại học Liên khu 3 và 4 tại Thanh Hóa, theo khoa Văn-Triết. Sau Cách mạng tháng Tám, Hoàng Thi Thơ gia nhập Đoàn Văn nghệ Quảng Trị như một diễn viên ca kịch nhạc do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ban làm trưởng đoàn. Đến tháng 8 năm 1946, ông trở lại Huế để tiếp tục những năm cuối trung học.
    Tháng 12 năm 1946, Hoàng Thi Thơ khi đang tham gia tuyên truyền cùng nhạc sĩ Trần Hoàn ở Huế thì kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sau khi Huế thất thủ, ông trở ra Vinh theo đề nghị của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Tháng 5 năm đó, ông bắt đầu làm báo, viết văn, trở thành phóng viên và biên tập viên cho tờ nhật báo Cứu quốc của Việt Minh. Tháng 9 năm 1948, ông trở lại Huế, tiếp tục hoàn thành trung học ở Trường Khải Định (về sau dời ra Hà Tĩnh và đổi tên thành Trường Huỳnh Thúc Kháng)
    Năm 1951, ông vào Sài Gòn dạy tiếng Anh và theo nghề viết nhạc, hoạt động văn nghệ. Năm 1957, ông bắt đầu tổ chức những kỳ Đại nhạc hội tại rạp Thống Nhất Sài Gòn; 4 năm sau ông thành lập Đoàn Văn nghệ Việt Nam và lưu diễn qua nhiều nước Á Châu
    Từ 1967 ông là giám đốc tổ chức những chương trình ca vũ nhạc kịch, đặc biệt tại nhà hàng Maxim's, Sài Gòn. Ông cũng từng lưu diễn tại nhiều thành phố trên thế giới: Vạn Tượng, Hồng Kông, Ðài Bắc, Tokyo, Bangkok, Singapore, Sénégal, Paris, London... và nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
    Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ là người duy nhất đã được Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa và Tổng cục Chiến tranh Chính trị nhiều lần cử thành lập và dẫn các đoàn văn nghệ Việt Nam đến Châu Âu trình diễn...
    Sau 1975, ông sang Hoa Kỳ. Ông có về Việt Nam 2 lần kể từ năm 1993.
    Sáng ngày chủ nhật 23 tháng 9 năm 2001 tại nhà riêng ở Glendale, Hoàng Thi Thơ đã qua đời một cách thanh bình, trong khi chờ vợ ông ta đang làm một món cá mà ông thích.
    Mộ của ông nằm ở nhà quàn Heritage Memorial Services, 17712 Beach Boulevard, Huntington Beach, Hoa Kỳ
    Gia đình
    Thời kỳ đi kháng chiến, nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã có quan hệ tình cảm với Trương Tân Nhân, một người bạn học cùng trường[]. Về sau khi ông bỏ kháng chiến về thành; bà Tân Nhân lúc đó đã có thai, sau hiệp định Genève, bà ở lại miền Bắc và tiếp tục sự nghiệp ca hát. Người con trai của hai người, mang tên Lê Khánh Hoài (lấy theo họ người chồng sau của bà), hiện đang hoạt động trong lĩnh vực kịch nghệ và điện ảnh tại Thành phố Hồ Chí Minh
    Tháng 9 năm 1957, ông lập gia đình với ca sĩ Thúy Nga và có 4 người con: 3 trai, gái. Trong đó, người con trưởng là Hoàng Thi Thi, vừa là nhạc sĩ vừa là kỹ sư. Ngoài ra ông còn một dưỡng tử là Hoàng Thi Thao, người cháu gọi ông bằng chú và cũng là người theo sát chân ông trong nhiều năm hoạt động văn nghệ
    Âm nhạc
    Ông có trên 500 ca khúc từ tình ca đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch.
    Nhiều bài hát của Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã quen thuộc với người Việt Nam từ những năm 1950 cho đến sau năm 1975, nhất là những bản nhạc có tính chất dân gian, mộc mạc có âm hưởng quê hương đã đi vào lòng dân mà lại lãng mạn như "Rước tình về với quê hương", "Rong chơi cuối trời quên lãng", "Đường xưa lối cũ", "Tà áo cưới", "Trăng rụng xuống cầu", "Gạo trắng trăng thanh", "Đám cưới trên đường quê", "Duyên quê", "Tình ta với mình" ...
    Hoàng Thi Thơ cũng có những bản nhạc kể lại những mối tình đau khổ của những người con gái: "Chuyện tình cô lái đò Bến Hạ", "Chuyện tình La Lan", "Chuyện tình người trinh nữ tên Thi"...
    Trong thời gian cộng tác với nhà hàng Maxim's (Sài Gòn), ông đã thực hiện những tiết mục ca nhạc kịch dã sử và sáng tác những ca khúc hào hùng như "Quang Trung đại phá quân Thanh" hoặc "Trưng Vương đại phá quân Đông Hán".
    Nghiên cứu nghệ thuật múa

    Hoàng Thi Thơ cũng nổi tiếng trong việc nghiên cứu các điệu múa. Ông được cho là người tiên phong xây dựng những điệu vũ vừa hiện đại vừa đậm chất dân tộc[7]. Ông cùng với vũ sư Trinh Toàn và vũ sư Lưu Hồng đã có nhiều công trình hợp tác nghiên cứu và sáng tạo các điệu múa dân tộc: Vũ múa trống, Vũ lên đồng, Vũ múa nón, Múa xòe, Múa Koho
    Nhạc kịch - điện ảnh
    Hoàng Thi Thơ đạo diễn sáng tác vở nhạc kịch đầu tiên năm 1963, mang tên "Từ Thức lạc lối bích đào", năm 1964, vở nhạc kịch thứ nhì "Dương Quí Phi", năm 1966 vở "Cô gái điên", năm 1968 vở "Ả Đào say".
    Năm 1965, Hoàng Thi Thơ trở thành đạo diễn điện ảnh với cuốn phim đầu tiên là "Cô Gái Điên" quay thành phim từ nhạc kịch cùng tên của ông, do Trung tâm Điện ảnh Quốc gia sản xuất.
    Năm 1969, ông đạo diễn cho phim "Người cô đơn" do chính ông sản xuất. Sau khi ra đến hải ngoại, Hoàng Thi Thơ vẫn tiếp tục làm đạo diễn cho một số phim video như "Chuyện Tình Buồn," "Tiếng Hát Trong Trăng," "Người Đẹp Bạch Hoa Thôn" và "Chiêu Quân Cống Hồ
    Danh mục nhạc phẩm
    Đây là danh mục một phần trong số những tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ:
    • Ai buồn hơn ai
    • Ô kìa đời bỗng dưng vui
    • Ôi chưa kịp nói với nhau một lời
    • Bao giờ trở lại
    • Bài thơ cuối cùng
    • Bóng hồng Việt Nam
    • Biết đâu tìm
    • Các anh về
    • Cái trâm em cài
    • Chiều cố đô
    • Chuyện tình cô lái đò bến Hạ
    • Chuyện tình La Lan

    • Chuyện tình người trinh nữ tên Thi
    • Con tim và nước mắt
    • Diễm tình
    • Duyên quê
    • Đại phá quân Thanh
    • Đám cưới trên đường quê
    • Đêm buồn
    • Đời sầu của ve
    • Điệu buồn dang dở
    • Đưa em qua cánh đồng vàng
    • Đưa em xuống thuyền
    • Đường xưa lối cũ

    • Em như làn mây
    • Gạo trắng trăng thanh
    • Gặp nhau
    • Niềm đau của cát
    • Phút ban đầu
    • Phố chiều
    • Rồi một ngày
    • Rong chơi cuối trời quên lãng
    • Rước tình về với quê hương
    • Tà áo cưới
    • Tàu về quê hương
    • Tâm tình gửi Huế

    • Tình ca trên lúa
    • Tình sầu biên giới
    • Tình ta với mình
    • Tình đêm liên hoan
    • Tôi nhớ tên anh
    • Túp lều lý tưởng
    • Tạ tình
    • Thị trấn đìu hiu
    • Trăng rụng xuống cầu
    • Việt Nam ơi ngày vui đã tới
    • Xây nhà bên suối
    • Xe hoa một chiếc
    nguồn: http://vi.wikipedia.org
  6. nuhondautien08062000 Thành viên

    Thượng thư Lê Trinh- Triệu Phong

    Lê Trinhthượng thư bộ lễ và bộ công của triều vua nhà Nguyễn.
    Ông còn có tên là Lê Đăng Lĩnh, Lê Đăng Trinh, sinh năm 1850 tại làng Bích La Đông, Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị. Ông thuộc dòng dõi họ Lê Cảnh (gốc ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, di cư vào Bích La Đông dưới thời Lê sơ). Ông là con trưởng của ông Lê Cảnh Chính, Binh Bộ viên ngoại lang, Trung phụng đại phu, Đô sát viện hữu phó đô ngự sử, hàm nhị phẩm dưới triều Minh Mạng và bà Lê Bá Thị Huấn.
    Năm 20 tuổi ông thi hương khoa năm Canh Ngọ, Tự Đức năm thứ 23 (1870) đỗ giải nguyên. Khi lên năm 25 tuổi, ông thi hội khoa năm Ất Hợi, Tự Đức năm thứ 28 (1875) đỗ phó bảng. Từ đó, ông đã ra làm quan, trải qua 6 triều vua từ Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái đến Duy Tân.
    nguồn: http://vi.wikipedia.org
  7. nuhondautien08062000 Thành viên

    Phủ doãn phủ Thừa Thiên Nguyễn Xuân Bảng

    Nguyễn Xuân Bảng (Nhâm Thân, 1812 - 1849) là một phó bảng thời nhà NguyễnViệt Nam. Ông quê ở làng Xuân Mỵ, tổng Xuân Hòa, huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị, ngày nay thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
    Nguyễn Xuân Bảng sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho giáo. Thân phụ ông nguyên là học sinh Quốc Tử Giám. Em trai ông là đệ tam giáp đồng tiến sĩ Nguyễn Phiên đỗ phó bảng khoa Mậu Tuất (1838}[1].
    Nguyễn Xuân Bảng từng giữ các chức vụ: kiểm thảo Hàn lâm viện, tư vụ Tôn nhân phủ, chủ sự các phủ, Cai Viện Thị Độc ty Cẩn Tín, sung làm khảo quan kỳ thi hội năm (1844), viên ngoại lang, lang trung bộ lại, án sát sứ các tỉnh Khánh Hòa, Sơn Tây, Hà Nội, khâm điễm các Đạo, phủ doãn phủ Thừa Thiên, hàm chánh tam phẩm.[2].
    Ông mất ngày 14 tháng 9 năm Kỷ dậu (1849) Bản mẫu: Phổ Hệ Nguyễn Xuân Tộc NXB Tổng Hợp TP HCM trang 76-->
    Nguồn: http://vi.wikipedia.org
  8. nuhondautien08062000 Thành viên

    Ca sĩ Như Quỳnh -Triệu Phong

    Như Quỳnh (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1970 ) tên thật Lê Lâm Quỳnh Như, là một ca sĩ người Mỹ gốc Việt, cô rất nổi tiếng tại Việt Nam với CD Chuyện hoa sim và Người tình mùa đông , hiện đang định cư tại thành phố Hungtinton Beach ở Nam California, Mỹ.
    Tiểu sử
    Như Quỳnh sinh tại Đông Hà, Quảng Trị. Tên khai sinh là Lê Lâm Quỳnh Như quê ở Thôn Ái Tử - Xã Triệu Ái -Huyện Triệu Phong - Quảng Trị. Cô có 2 người em trai là Lê Lâm Tường Duy, mới tốt nghiệp kỹ sư điện toán vào khoảng giữa năm 2000, và Lê Lâm Tường Khuê là một người rất đam mê về ngành thiết kế y phục, từng may nhiều kiểu áo dài cho Như Quỳnh mặc khi biểu diễn
    Sau khi vào Sài Gòn năm 1971, Như Quỳnh cư ngụ trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và theo học cấp 1 tại hai trường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Đinh Tiên Hoàng trước khi học tiếp cấp 2 ở trường Trần Văn Ơn và cấp 3 ở trường Trưng Vương[ Cô đạt giải Đặc Biệt (trên cả giải nhất, mà cho đến nay vẫn chưa có ca sĩ nào khác nhận được) Cuộc thi Tiếng hát Truyền hình TP.HCM năm 1991(Vào năm 2006, nữ ca sỹ Phương Trinh, lúc đó vừa tròn 18 tuổi có thể xem là người thứ 2 nhận giải này với giải Supper Star - giải đặc biệt, trên cả giải nhất. Phương Trinh sau đó vừa trở thành ca sỹ vừa là diễn viên).
    Tháng 4 năm 1993, cô cùng gia đình định cư tại Mỹ theo diện HO. Ban đầu cả gia đình Như Quỳnh cư ngụ tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania là nơi cha cô đang sống hiện nay với người em trai của cô là Tường Duy sau khi đi đến sự đổ vỡ với mẹ cô.Hai mẹ con cô và một người em khác là Tường Khuê đến cư ngụ tại thành phố Hungtinton Beach ở Nam California. Hiện nay cha cô cùng về sống với cô tại Santana (California).
    Năm 1994, người điều hành Trung tâm Asia là Trúc Hồ và Thy Vân mời cô sang California thử giọng. Sau lần thử giọng đó, Như Quỳnh được mời ký giao kèo và ngay sau đó đã thu hình nhạc phẩm đầu tiên là Chuyện hoa sim trong chương trình Tác giả và tác phẩm.
    Hai năm sau, cô chuyển sang cộng tác cho trung tâm Thúy Nga cùng một lúc với việc điều hành trung tâm nhạc NQ Records với Huy Anh - một người từng được cô coi như thân thiết - và hiện nay là Như Quỳnh Entertainment. Dù tình hình được coi như trì trệ đối với các trung tâm nhạc , nhưng những CD của Như Quỳnh vẫn là một trong những CD bán chạy nhất.
    Về cuộc sống riêng tư, Như Quỳnh đã kết hôn với kỹ sư Không gian Nguyễn Thắng hiện đang công tác trong cơ quan chính phủ Hoa Kỳ và họ có một con gái tên là Melody Đông Nghi vào năm 2007
    CD

    Solo album:
    • Chuyện hoa sim (Asia Ent.)
    • Khúc ca Đồng Tháp (Thúy Nga)
    • Tơ tằm (Thúy Nga)
    • Anh tiền tuyến em hậu phương (Thúy Nga)
    • Nếu đời không có anh (NQ Ent.)
    • Tình ơi... có hay (Thúy Nga)
    • Lý bông mai (Thúy Nga)
    • Em vẫn hoài yêu anh (NQ Records)
    • Người thương kẻ nhớ (NQ Ent.)
    • Chuyện tình hoa trắng (Asia Ent.)
    • Rừng lá thay chưa (Asia Ent.)
    • Yêu tiếng hát ngày xưa (Thúy Nga)
    • The best of Như Quỳnh 1 (Thúy Nga)
    • The best of Nhu Quynh 2 (Thúy Nga)
    • Tình Yêu Vỗ Cánh (Thúy Nga)
    • Một Đời Tìm Nhau (NQ Records)
    • Mưa Buồn (Asia Ent.)
    Duet CDs
    • Anh tiền tuyến em hậu phương - with Trường Vũ (Thúy Nga)
    • Không giờ rồi (Thúy Nga)
    • Khi Con Tim Biết Yêu - with Thiệu Kỳ Anh (Thúy Nga)
    • Gọi Đò - with Tường Nguyên (NQ Ent.)
    • Xin Ðừng Trách Ða Ða - with Trường Vũ (Thúy Nga)
    • Ðiều Chưa Dám Nói - with Tường Nguyên (NQ Ent.)
    • Tim Vỡ - with Don Hồ (Thúy Nga)
    • Bọt Biển - with Thế Sơn (Thúy Nga)
    • Nói Với Người Tình - with Tường Nguyên (NQ Records
    nguồn: http://vi.wikipedia.org
    Nguyễn Văn VỹVNZET thích bài này.
  9. katy Thành viên

    bà này chơi nhạc phản chiến.bị cấm biểu diễn ở VN.như ông Duy Khánh vậy đó
  10. mr Mai Cần thuê một <3 thế chấp cả cuộc đời

    Bác Duy Khánh còn đỡ, còn tự hào là người Quảng Trị, còn chị ni không có chút chi gọi là QT cả :d Hình như chỉ sinh ra ở ĐHà thôi, không sống ở quê miềng...
    Nguyễn Văn Vỹ thích bài này.
  11. Dungsmile Thành viên

    Rứa mà bữa chừ hơi tự hào NQ là người Quảng Trị, mà nhưng giọng NQ hay thật.
  12. nuhondautien08062000 Thành viên

    Trần Hữu Dực- nguyên phó thủ tướng ,nguyên viện trưởng viên cảnh nhân dân tối cao-Triệu Phong

    [IMG] [IMG]
    Trần Hữu Dực (1910-1993)


    Trần Hữu Dực (1910-1993) nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; nguyên Đại biểu Quốc hội; nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
    Quá trình hoạt động
    Trần Hữu Dực sinh ngày 15 tháng 1 năm 1910 tại làng Dương Lệ Đông, tổng Gia An, nay là xã Triệu Thuận, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
    Trước 1945
    Tham gia hoạt động vào phong trào của những người cộng sản từ năm 15 tuổi, tháng 11 năm 1926 thành lập "Ái hữu dân đoàn" và trở thành đảng viên cộng sản của nhóm cộng sản đầu tiên ở Quảng Trị.
    Tháng 11 năm 1930, Tỉnh ủy Đảng Cộng sản Việt Nam Quảng Trị chính thức được thành lập, ông được cử giữ chức Bí thư. Từ năm 1940, ông được phân công tham gia công việc của xứ ủy, phụ trách 11 tỉnh Nam Trung kỳ.
    Trong thời gian hoạt động, ông bị Pháp bắt 3 lần, và bị chính quyền Nam triều kết án tổng số 29 năm tù giam, và 22 năm quản thúc tại các nhà lao Quảng Trị, Lao Bảo, Ban Mê Thuột (2 lần).
    Năm 1945, ông được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa và sau đó trở thành vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh đầu tiên của Quảng Trị sau cuộc khởi nghĩa tháng 8.
    Sau năm 1945

    Sau tháng 8 năm 1945, ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Cánh mạng lâm thời Trung Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Trung Bộ. Năm 1947 ông được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II cùng với Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, Lê Văn Lương . Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông được Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước Việt Nam giao nhiều trọng trách:
    Ông mất ngày 21 tháng 8 năm 1993, thọ 83 tuổi. An táng tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
    Câu nói nổi tiếng:

    Của cải như không khí. Cảnh vật như thần tiên. Con người như thánh hiền Mới xây dựng được lý tưởng Cộng sản (Xem hồi ký “Bước qua đầu thù” của Trần Hữu Dực). Các tài liệu đã viết:

    • Đẩy mạnh phong trào nhân dân khai hoang/báo cáo của đồng-chí Trần Hữu Dực trình bày tại Hội nghị nhân dân khai hoang do Ban bí thư trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng chính phủ triệu tập, tháng Giêng 1963.
    • Một số vấn đề nông nghiệp xã hội chủ nghia ở miền Bắc nước ta hiện nay / Trần Hữu Dực - Hà Nội: Sự thật, 1960
    • Bước qua đầu thù: hồi ký/Trần Hữu Dực - Hà nội: Chính trị Quốc gia, [1999].
    • Những năm tuổi trẻ: hồi ký / Trần Hữu Dực: In lần thứ 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 2004.346 p. ; 19 cm.
    Tặng thưởng

    nguồn : http://vi.wikipedia.org
  13. nuhondautien08062000 Thành viên

    tiêu đề viết sai rùi ! nhờ bạn chủ box sửa giùm
  14. nuhondautien08062000 Thành viên

    Trần Trọng Tân -nguyên trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương-Cam Lộ

    Trần Trọng Tân (sinh năm 1926) tại xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nguyên là Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương của Việt Nam, Phó bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

    Tiểu sử
    Trần Trọng Tân sinh năm 1926 tại xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông tham gia cách mạng từ lúc còn là học sinh. Vào Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Bí thư tỉnh ủy Quảng Trị (1950), Ủy viên Ban Tuyên huấn Trung ương Cục Miền Nam (1961-1967), Ủy viên Ban lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia (1980-1986). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và VII đã bầu ông vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phân công làm trưởng Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương. Từ năm 1991 đến 1996, ông là Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh.

    Trong kháng chiến chống Mỹ, có thời kỳ Trần Trọng Tân hoạt động bí mật tại nội thành Sài Gòn, bị địch bắt đày ra Côn Đảo giam nhiều năm cho đến 1975.

    Vinh danh
    Ông Trần Trọng Tân được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt nam trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất, cùng nhiều huân chương và tặng thưởng khác.

    nguồn : http://vi.wikipedia.org
    mr Mai thích bài này.
  15. nuhondautien08062000 Thành viên

    Giáo sư ,tiến sĩ,sử gia ,thiền sư Lê Mạnh Thát-
    -----------------------------------------------------------------

    Giáo sư, tiến sĩ, sử gia, thiền sư Lê Mạnh Thát hay Thượng tọa Thích Trí Siêu sinh ngày 15 tháng 4 năm 1944 tại Quảng Trị. Ông là người được biết nhiều bởi những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử Việt Nam. Một số các phát hiện mới của ông về lịch sử Việt nam gây chấn động giới nghiên cứu sử. Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam chính thức công nhận ông là "Người viết sách về văn học và lịch sử Phật giáo nhiều nhất Việt Nam
    +tiểu sử:
    Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng ông vẫn để tóc. Năm 1959, ông vào Huế trọ ở chùa Báo Quốc và theo học tại Quốc học Huế. Tại chùa Báo Quốc có mở xưởng làm xì dầu. Ông được phân công phụ trách xem quá trình thuỷ phân có dư xút hoặc axít, hàm lượng đạm có từ bã đậu phụng. Năm 17 tuổi ông được đặc cách thi tú tài.

    Năm 20 tuổi ông đậu cử nhân ngành triết học tại Viện Đại học Đà Lạt.

    Từ 1965-1974 ông theo học tại Viện Đại học Winconsin, Madison, Hoa Kỳ, ông lấy bằng tiến sĩ y khoa, triết học, nhân chủng học.

    Năm 1974-1975, ông là giáo sư Viện Đại học Vạn Hạnh - Sài Gòn, giảng dạy các môn tiếng Sanskrit, lịch sử triết học Ấn Độ, lịch sử Phật giáo Việt Nam

    Từ 1975-1984, ông giảng dạy tại Viện nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh - thành phố Hồ Chí Minh

    Năm 1984, ông bị chính quyền Việt Nam bắt giam vào năm 1984, bị tuyên án tử hình, sau đó án được giảm xuống tù chung thân, vì tội "tán thành, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành động phản cách mạng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa" (Ông là một trong những người lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thời kỳ đó).

    Ông được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998, sau 14 năm giam cầm.

    Từ 1998-đến nay: ông là giáo sư, Phó Viện trưởng - Viện Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh.

    Ông thông thạo hơn 15 thứ tiếng

    Các lý thuyết mới về lịch sử Việt Nam
    Phát hiện mới của ông gây chấn động giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam:.
    1.Ông tuyên bố đã phát hiện ra Lục độ tập kinh, một tập kinh quan trọng trong Đại tạng kinh của Phật giáo thế giới đã lưu truyền 2000 năm, tập kinh đó là của Việt Nam, tập kinh được dịch ra chữ Hán từ một bản tiếng Việt chứ không phải từ bản tiếng Phạn.
    2.Cho rằng truyền thuyết trăm trứng có khởi nguồn từ Lục độ tập kinh, trước kia chỉ biết có truyền thuyết trăm trứng là hồn thiêng dân tộc, nhưng khởi nguồn thì không biết từ đâu.
    3.Ông khẳng định truyền thuyết An Dương Vương đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 rồi lập nên một triều đại (dưới ngòi bút của Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư) là không có thật, nó chẳng qua chỉ là một phiên bản của câu chuyện Mahàbhàrata từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam thời Hùng Vương mà thôi.
    4.Ông cho rằng không có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương ("vì làm gì có An Dương Vương mà đánh!") và nhà Thục cũng không bao giờ bị Triệu Đà chiếm. Có nghĩa là, cho đến năm 43 (sau công nguyên), trước khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Hai Bà Trưng thất bại, Văn Lang vẫn là một nước độc lập. Đó là triều đại Hùng Vương được xây dựng trên một nền văn hiến với điển chương riêng của nó, có luật pháp, có chữ viết, có lịch số, có âm nhạc, có văn học... Nhà nước và văn hiến đó hoàn toàn không do người Trung Quốc đến "khai hóa" mà có. Nhà nước Hùng Vương có đủ bản lĩnh, sức mạnh để tiếp thu tinh hoa và để tự vệ trước âm mưu nô dịch của ngoại bang, đóng góp vào nền văn minh chung của nhân loại mà Lục Độ tập kinh là một trong những dẫn chứng sống động . Ông dẫn chứng, sau khi Mã Viện "chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, đưa đầu về Lạc Dương", Hậu Hán thơ viết: "Viện (Mã Viện) điều tấu Việt luật cùng Hán luật, sai hơn 10 việc, bèn cùng người Việt nói rõ để ước thúc". Ông lập luận rằng, như vậy rõ ràng nước Việt đã có luật pháp, bộ luật đó một chính quyền Hai Bà Trưng ngắn ngủi không làm nổi, nó phải là sản phẩm của một nhà nước độc lập tồn tại từ lâu đời.
    Các đề nghị sửa lại lịch sử của ông:.
    1.Dứt khoát loại bỏ truyền thuyết An Dương Vương và nước Nam Việt của Triệu Đà ra khỏi lịch sử nước ta. Lý do, Trước đây ta viện dẫn từ 4 tài liệu cổ sử Trung Quốc, đó là Giao châu ngoại vực ký, Quảng Châu ký, Nam Việt chí và Nhật Nam truyện, trong đó 3 tài liệu không rõ nguồn gốc. Trong khi đó, căn cứ vào những tài liệu lịch sử chính thống xưa nhất của Trung Quốc là Sử ký của Tư Mã Thiên và Tiền Hán thư, hoàn toàn không thấy có chuyện Triệu Đà đánh An Dương Vương hay tương tự, mà các tài liệu đó còn có những thông báo xác định rõ ràng là cho đến hết thời Triệu Đà cùng cháu chắt ông ta làm vua Nam Việt bên đất Trung Quốc, nước ta vẫn đang có vua và đang là một nước độc lập. Vậy, nước ta chưa bao giờ thuộc Nam Việt của Triệu Đà bên Trung Quốc.
    2.Nước ta từ thời Hùng Vương vẫn là một nước độc lập kéo dài cho đến năm 43, nghĩa là giai đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất không tồn tại ].
    Lý giải của ông về các sai sót trong việc chép sử trước đây:
    Ông cho rằng trước đây đã dùng những sử liệu không đáng tin cậy để viết sử rồi cứ đinh ninh như vậy cho tới nay. Từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do "những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng". Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng "những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thơ như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát..., dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn". Tuy nhiên, theo ông, "nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần" so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn trên đây, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, "nó cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm"

    Nhận xét:
    Ông Nguyễn Khoa Điềm nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: "Tôi không phải là người nghiên cứu lịch sử, tuy nhiên tôi đã đọc bộ Lịch sử Phật Giáo Việt Nam và Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của thiền sư Lê Mạnh Thát. Với cảm nhận của bản thân, tôi cho rằng những giả thiết mà thiền sư đặt ra là rất đáng trân trọng. Trước hết phải ghi nhận là thiền sư đã có một tinh thần dân tộc, luôn mong muốn làm sáng tỏ lịch sử nước nhà. Thiền sư đã cất công tìm tòi, dò sâu vào lịch sử, đọc những tài liệu, những công trình khoa học từ nhiều nguồn, nhiều quốc gia, nhất là trong các tạng kinh Phật. Đây là một cơ duyên mà không phải ai cũng có được. Trong bối cảnh mà nhiều nguồn tài liệu khác đã bị tiêu hủy, thì việc phát hiện những vấn đề lịch sử tiềm tàng trong kinh Phật là điều rất quý"..."Đây là một vấn đề lịch sử cần trao đổi cởi mở, rộng rãi để nhân dân được nghe, được biết. Qua đó, biết đâu chúng ta sẽ có thêm được nhiều nguồn thông tin mới khác nữa từ trong nhân dân" ].

    Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, tất cả những cái đó phải được xem xét cụ thể trên nhiều phương diện như độ tin cậy của sử liệu, phương pháp phân tích của tác giả và phải đặt trong tổng thể với các nguồn tư liệu khác. Các bộ kinh Phật đương nhiên là hết sức quý, nhưng nó cần được giải thích sự khác biệt với các nguồn tư liệu khác cũng có giá trị riêng của nó, kể cả truyền thuyết và dã sử. Không phải cứ nói đến “chính sử” của triều Lê (Đại Việt Sử ký toàn thư) do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền. Đương nhiên, cũng không chỉ dựa vào một bộ kinh dù vô cùng quý giá trong kho tàng Phật giáo mà phủ định, đơn giản những nguồn sử liệu khác.
    Các tác phẩm tiêu biểu
    Công trình nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam gồm 26 tác phẩm với 18.322 trang, 5 bài nghiên cứu chuyên ngành gồm 140 trang, 4 tác phẩm về các đề tài Phật học 1.436 trang

    Lịch sử Phật Giáo Việt Nam - 3 tập. NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006.
    Tổng tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam - 3 tập. NXB Tổng hợp TP.HCM phát hành năm 2006.
    Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta.
    Toàn tập Minh Châu Hương Hải.
    Toàn tập Trần Thái Tông.
    Toàn tập Trần Nhân Tông.
    Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài.
    Nghiên cứu về Mâu Tử - 2 tập.
    Chân Đạo Chánh Thống.
    Lịch sử Âm Nhạc Phật Giáo Việt Nam.
    Tự điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam - 2 tập.
    The Philosophy of Vasubandhu.
    Ngữ pháp tiếng Phạn
    Xem thêm
    Ông phát hiện ra một số sai sót của Lê Quý Đôn khi ghi chép về văn thơ:

    Bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc [1].
    Bài khác cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng phát hiện tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống. (ông còn phát hiện số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư) [1].
    Lê Mạnh Thát chứng minh rằng trong số 40 bài thơ thiền được cho là của các thiền sư Việt Nam thời Lý-Trần sáng tác mà Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến văn tiểu lục, trên thực tế có tới 32 bài là tác phẩm của người Trung Quốc, sau đó được 1 số người Việt Nam "gia công" lại và gán cho các tác giả Việt Nam.
    Sử gia Hà Văn Tấn đồng ý với phần lớn những phát hiện này của Lê Mạnh Thát. [cần dẫn nguồn]Trong 1 tiểu luận viết cho Tạp chí Văn học vào năm 1992, sử gia Hà Văn Tấn dẫn lại một số ý kiến của Lê Mạnh Thát (khi này đang ở tù) cũng như nhấn mạnh rằng, ông (Hà Văn Tấn) đã lần theo những chỉ dẫn, chú thích của Lê Mạnh Thát để kiểm tra lại nguồn tài liệu lập luận của thiền sư, và ông (Hà Văn Tấn) hoàn toàn đồng ý với những khám phá này.
    nguồn : http://vi.wikipedia.org
  16. nuhondautien08062000 Thành viên

    Nhạc sĩ Trần Quang Lộc
    --------------------------------------------------------

    Nhạc sĩ Trần Quang Lộc sinh năm 1945, tại Quảng Trị, theo học âm nhạc tại Trường Quốc gia âm nhạc Huế năm ông 20 tuổi . Bắt đầu sáng tác cuối thập niên 60. Tuyển tập đầu tiên của ông có tựa: "Hát trong dòng sông xưa", xuất bản năm 1970. Trần Quang Lộc viết và phổ nhạc những bài hát mang sắc thái tình người, tình quê hương, như bản "Về Đây nghe em", "Em còn nhớ Huế không", "Có phải mùa thu Hà Nội", "Chợt Nghe Em Hát", "Định Mệnh" . ...

    Bản nhạc nổi tiếng nhất của Trần Quang Lộc là bài : "Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội ? ", phổ từ thơ Tô Như Châu. Bài bát được đón nhận nồng nhiệt từ các ca sĩ cũng như thính giả, vì lời nghe lãng mạn, mơ màng của mùa thu, lồng trong một khung cảnh cổ kính của Thăng Long xưa với lịch sử của " hồn Trưng Vương sông Hát "...

    Tháng tám mùa thu, lá khởi vàng chưa nhỉ Từ độ người đi thương nhớ âm thầm ... Có phải em là mùa thu Hà Nội Ngày sang thu anh lót lá em nằm Bên trời xa sương tóc bay

    Ngày nay rất có nhiều bài thơ được các nhạc sĩ chọn phổ nhạc, vì thơ đã mang sẵn âm điệu trầm bổng, lại được viết từ cảm xúc dạt dào của thi sĩ nên lời nghe thiết tha với những hình ảnh thật mênh mông, lãng mạn, tình tứ, mang nhiều hình ảnh nên thơ. Phú Quang cũng phổ nhạc một bài ca ngợi mùa thu nổi tiếng. Nhờ Vũ Hoàng mà người lớn được trở về với ngày xưa học qua bài "Phượng Hồng", (thơ Đỗ Trung Quân) và ai cũng yêu "chùm khế quê hương" cũng thơ Đỗ Trung Quân với dòng nhạc Giáp Văn Thạch.

    Bài "Về Đây nghe Em" là bài thơ của A Khuê, lời nghe mộc mạc, gần gũi với bất cứ một ai đã từng sinh ra và lớn lên tại Việt Nam...

    Về đây nghe em, về đây nghe em Về đây mặc áo the, đi guốc mộc Kể chuyện tình bằng lời ca dao Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu

    Ca dao, guốc mộc, nồi ngô khoai thì còn gì Việt Nam hơn. Ai lớn lên mà không nghe câu ru ầu ơ của những bà mẹ giữa trưa hè, rồi tiếng guốc của những nàng áo trắng trên vỉa hè, và củ khoai sáng là món quà hàng ngày trước khi đến trường. Vì thế bài hát đã đươc rất nhiều ca sĩ trong và ngoài nước đón nhận. Qua tiếng hát của Duy Quang, ấm và ngọt, bài hát nghe như một lời mời gọi, của người anh lớn kêu gọi em về thăm nhà, hay của người Việt trong nước mời mọc người Hải ngoại về thăm quê hương? Không rõ ý tác giả như thế nào....Sự thật thì ai cũng thừa biết người Việt nào trong nước cũng có người thân, bạn bè ở ngoại quốc, hay ở phương xa. Như thế bài hát diễn tả tâm trạng phần đông người Việt, sau chiến tranh mãi mãi nhớ nhung, tìm kiếm nhau! Giả như nước không có chiến tranh, con người lớn lên cũng thích đi đó, đi đây học hỏi, vì "Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn" , rồi trong một buổi chiều nào đó, "một buổi chiều nghe rất lạ" , lại chạnh nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Thế nên lời hát nghe thân quen, nồng nàn và thiết tha quá ...

    Về đây nghe em, về đây nghe em Về đây thả ước mơ đi hát dạo Để đời đời làm giọt sương mai Để chào đời bằng lòng mới lớn Để hận thù người người lắng xuống Và tìm nhau như tìm xót xa Trong lúc lệ đã đầy vơi

    Người về đứng dựa bên cầu, nhìn dòng sông lặng lờ trôi, nhìn hàng tre xanh, trông thấy đàn em bé đùa giỡn, và cụ già móm mém nhai trầu, thì tự nhiên thấy "lệ đầy, lệ vơi" và "hận thù người người lắng xuống" ... Qua quá trình lịch sử nước ta thì quả xót xa thật, chiến tranh bao nhiêu năm làm anh em một nhà, như gần, như xa ...

    Bài thơ kêu gọi lòng yêu thương. Với giai điệu êm đềm, nghe như có một thoảng Trịnh Công Sơn, một tý Đỗ Trung Quân ...

    Như đã nói trên, nhiều ca sĩ đã hát bài "Về Đây Nghe Em", trong cũng như ngoài nước. Và tùy mỗi thế đứng bên này hay bên kia Đại Dương, mà bài hát được đổi lại một tý. Có ít nhất hai phiên bản khác nhau của đoạn kế tiếp:

    Lời 1: Này người ơi vươn cao vươn cao Đem ánh sáng hân hoan trên trời Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương Nụ cười tươi trên môi em thơ Là tiếng hát hân hoan cho đời Về đây cho nhau nụ cười thương

    Lời 2: Này hồn ơi lên cao lên cao Đem ánh sáng hân hoan trên trời Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương Này thịt xương ta chưa mang theo Khi ngã xuống miên man tủi hờn Và về đây nghe nhau thở dài trong đêm

    Từ đoạn này mà câu cuối cũng khác luôn, thích hợp với đoạn trên:

    Và nhặt hoa xin tạ chút ơn Hạnh phúc khi đã gặp nhau

    Lời 2: Rồi ngặt hoa xin tạ chút ơn Hoang phế khi đã gặp nhau

    Tuấn Ngọc đã dựa vào lời 2 mà anh đã được nghe một ca sĩ Việt Nam nào hát. Lời 2 nghe tang thương và không "hạnh phúc" , yên tịnh, đầy tình thương như lời 1. "Về đây cho nhau nụ cười" đối nghịch hẳn với "về đây nghe nhau thở dài trong đêm ...". Hai lời đi hai hướng khác nhau, một huớng về tương lai, còn lời kia là một xót xa, ngậm ngùi của quá khứ. Từ nỗi ngậm ngùi đó mới đi đến "hoang phế" khi đã gặp nhau" . Để trả lời câu hỏi của một thắc mắc, thì câu cuối là tùy vào câu trên, cho nên mới thoạt nghe thấy sao anh Tuấn Ngọc lại hát "trật đường rầy" như vậy!

    Tác phẩm
    Về Đây nghe em
    Em còn nhớ Huế không
    Có phải mùa thu Hà Nội
    Chợt Nghe Em Hát
    Định Mệnh

    nguồn: http://vi.wikipedia.org
    daccong86mr Mai thích bài này.
  17. nuhondautien08062000 Thành viên

    Nguyên phó chủ tịch hội đòng bộ trưởng Trần Quỳnh-Triệu Phong
    --------------------------------------------


    Trần Quỳnh (1920 - 2005); nguyên Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IV, V.

    Tiểu sử
    Trần Quỳnh (tức Ngọc), sinh ngày 1 tháng 1 năm 1920 tại xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.

    Năm 1936, tham gia Mặt trận Dân chủ, là Ủy viên Chấp hành Thanh niên Dân chủ Huế.
    Năm 1940, bị Pháp bắt tù ở Sài Gòn và Côn Đảo; đầu năm 1945, ra tù và tiếp tục hoạt động cho Việt Minh.
    Tháng 8 năm 1945 đến năm 1946, tham gia cướp chính quyền ở huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; Chủ nhiệm Việt Minh huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, giữ chức Tỉnh ủy viên.
    Tháng 10 năm 1945, gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Năm 1946 - 1949, làm Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận, Ủy viên Phân ban Cực Nam Trung Bộ, Phụ trách các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa, Lâm Đồng.
    Năm 1949 - 1954, Khu ủy viên Liên khu 5, Quân khu ủy viên; sau đó là Thường vụ Liên khu ủy, Trưởng ban Tuyên huấn.
    Năm 1954 - 1956, Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử đi học lý luận ở Trung Quốc.
    Năm 1956 - 1960, Phó Giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Năm 1960 - 1964, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Năm 1965 - 1976, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước; tham gia và là thành viên tổ giúp Lê Duẩn viết Báo cáo chính trị tại Đại hội IV và Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Năm 1977, giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
    Được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII; và Quốc hội được bầu giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội khóa V.
    Tháng 12 năm 1980, giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ [1]
    Tháng 7 năm 1981 đến tháng 2 năm 1989, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ).
    Tháng 3 năm 1982, tại Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
    Tháng 2 năm 1989, nghỉ hưu tại số nhà 7, ngõ 17/27, phố Phùng Chí Kiên, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
    Ngày 7 tháng 10 năm 2005, mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội; hưởng thọ 85 tuổi. Thi hài an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
    Tôn vinh:
    Huân chương Sao vàng (truy tặng 2007);
    Huân chương Hồ Chí Minh;
    Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng;
    Nhiều huân chương, huy chương cao quý khác
    nguồn: http://vi.wikipedia.org
  18. nuhondautien08062000 Thành viên

    Quan tri phủ Trần Xuân Hòa
    --------------------------------------------------------
    Trần Xuân Hòa (?-1862), là một thủ lĩnh nghĩa quân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ
    Xuất thân
    Ông là con Bố Chánh sứ Vĩnh Long Trần Tuyên(?-1842), người Quảng Trị, sinh năm nào không rõ.Ông đỗ Cử nhân năm Tân Sửu (1841), nhưng do bị bệnh phong, nên chỉ làm quan tri phủ (có lẽ là Kiến An hoặc Kiến Tường) một thời gian ngắn. Vì là con quan, lại từng làm tri phủ, nên dân gian còn gọi là Phủ Cậu.

    Ứng nghĩa chống Pháp
    Khi Pháp đánh Nam Kỳ, ông do tàn tật nên phải nhờ người cõng ra ứng nghĩa. Nhà giàu, có thế lực, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa quân. Ban đầu, nghĩa quân của Trần Xuân Hòa được phân công giữ đồn Thuộc Nhiêu (nay thuộc giồng Thuộc Nhiêu, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang). Với sự hỗ trợ của nhân dân trong vùng, cùng với nghĩa quân, ông đã cho xây dựng dựa trên nền của một đồn quân cũ có sẵn lũy tre dày bao bọc, xây đắp một đồn mới làm căn cứ chính, gọi là Tân thành Mỹ Quý (nay thuộc ấp Quý Thành, xã Nhị Quý, huyện Cai Lậy, Tiền Giang). Thành Mỹ Quý dài khoảng 130m, ngang 50 – 60m, cách thành 500m là lũy tre dày đặc, kế đến là hệ thống hào sâu 3m, rộng 4 - 5m, dưới hào có cắm chông tre. Tường thành dày 3 – 4m, cao hơn 3m. Bốn góc thành có bốn pháo đài, trên đó có bốn khẩu thần công hướng ra bốn phía.

    Từ căn cứ này, ông đã chỉ huy nghĩa quân, tập kích đồn Cai Lậy do đại úy thủy quân lục chiến Chasseriaux chỉ huy, vào 2 ngày 29 tháng 8 năm 1861 và ngày 15 tháng 9 năm 1861, làm quân Pháp chống đỡ vất vả. Do thành tích này, ông được triều đình phong chức Binh bị quan thứ Vĩnh Tường, sau thưởng thụ hàm Thị độc học sĩ.

    Để đàn áp nghĩa quân, đại tá hải quân Desvaux – chánh tham biện Mỹ Tho – đã sử dụng nhiều tàu chiến, trong đó có pháo hạm Norsagaray, theo đường sông Rạch Gầm tấn công đồn Thuộc Nhiêu rồi đổ bộ vào Tân thành Mỹ Quý vào ngày 25 tháng 9 năm 1861[2]. Đồng thời, một cánh quân do Trần Bá Lộc chỉ huy từ Cái Bè đánh xuống, ép nghĩa quân vào giữa vòng vây. Cuối cùng Tân thành bị vỡ. Nghĩa quân rút về Cái Bè, củng cố lực lượng, tiếp tục kháng chiến.

    Sau đó nghĩa quân của Trần Xuân Hòa liên tiếp tập kích quân Pháp ở khắp nơi: Cái Thia, Cai Lậy, Cái Bè, Rạch Gầm, Trung Lương, Tân Lý… Bên cạnh đó, quân Phủ Cậu còn phối hợp với nghĩa quân của Trương Định, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân, Âu Dương Lân… Do liên kết phối hợp của các cánh nghĩa quân, nên các chỉ huy quân Pháp vô cùng lo sợ. trong các thủ lĩnh nghĩa quân, Phủ Cậu là người có học thức, nên được người Pháp nhận định "ông điều binh ra trận rất tài tình và rất lạ”.

    Để triệt hạ cánh quân nguy hiểm này, ngày 6 tháng 1 năm 1862, đại tá hải quân Rieuner mang quân đánh căn cứ Mỹ Trang, Bang Lềnh (thuộc Cai Lậy). Trần Xuân Hòa chỉ huy nghĩa quân chống trả mãnh liệt nhưng cuối cùng bị quân Pháp bắt được bắt và giải về Mỹ Tho. Trên đường đi, ông đã cắn lưỡi tự tử để giữ tròn khí tiết.

    Di sản
    Trong một số tài liệu ít ỏi còn sót lại về Phủ Cậu thì mô tả ông là người “có quyền thế, hùng tâm, tuy mắc phải bệnh phong, ba phần thân thể đều bất toại, song vẫn lo việc nước thật đáng khen, điều binh ra trận rất tài tình và rất lạ”. Sau khi ông tuẫn tiết, các chỉ huy Pháp nhận định “Tưởng rằng tình hình viên quan bị phong như vậy làm cho bọn Annam theo ta vững lòng; song xem ra nếu có xử bằng cách khác cũng vậy thôi, cũng không làm phe nghịch nao núng. Phủ Cậu không thiếu những người hậu kế và (họ) lại càng đánh phá dữ dội hơn”.

    Cha ông là Bố chánh Vĩnh Long Trần Tuyên chết vì loạn dân năm Thiệu Trị nguyên niên. Sách Quốc triều Chính biết toát yếu - Quyển V chép lời Tự Đức nói về cha con ông "Cha con Trần Tuyên đều có danh thơm tiết nghĩa, rực rỡ sử biên, thực là khó đặng lắm thay". Vua Tự Đức cũng ban khen ông là “người có tiết nghĩa, làm vẻ vang sử sách, khó kiếm được ai như thế”. Sau khi ông tuẫn tiết, triều đình phong thưởng hàm Quang Lộc tự khanh và sai quan đạo Quảng Trị lập đền thờ[3].

    Phủ Cậu là người có học thức, hiếu nghĩa. Nhà đơn chiếc, đi kháng chiến ông phải đem theo mẹ già. Trong trận thành Mỹ Quý thất thủ, ông may mắn thoát được nhưng không kịp đem theo mẹ già. Để trả thù trận tập kích Cai Lậy, Desvaux đã tàn sát những người trong thành, có cả mẹ của ông.

    Leopold Pallu đã mô tả về ông như sau:

    “ Le Phou-cop ou Phou-cao est fameux. Il était préfet d'un cercle qui touche l'Arroyo Commercial. Ce fut le principal meneur du quadrilatère occupé militairement par nos armes, et ses bandes osèrent quelquefois paraître sur les flancs de My-thô. Elles furent traquées et dispersées à Mi-cui. Son nom signifie le mandarin-tigre. Il lui a été donné par ses administrés à cause de sa férocité.


    Tạm dịch như sau:

    “ Tên Phủ Cọp, còn gọi là Phủ Cậu, rất nổi tiếng. Trước đây hắn là tỉnh trưởng một vùng lãnh thổ hình tròn giáp ranh với kinh Thương mại. Hắn là tên trùm trong vùng tứ giác do quân ta chiếm giữ, có khi những toán quân của hắn dám tiến sát vào gần ngay Mỹ Tho. Nhưng chúng đều bị ta rượt đuổi và phải phân tán ở Mỹ Quý. Tên hắn có nghĩa là quan cọp. Thuộc hạ của hắn gán cho tên đó vì hắn rất hung dữ. [4]


    Có thể danh từ Phủ Cọp hay Quan Cọp có lẽ để chỉ việc ông hăng hái “từng sáu lần đốc suất các người mộ nghĩa phục giết được lính Tây Dương và mã tà”. Hoặc giả, do hình dáng bị phong (cùi) nên ông có hỗn danh như thế chăng?
    Nguồn: http://vi.wikipedia.org
  19. nuhondautien08062000 Thành viên

    Ca sĩ Tân Nhân -Gio linh
    ------------------------------------------------

    Tân Nhân (15 tháng 7 năm 1932 - 14 tháng 2 năm 2008) là một ca sĩ nhạc đỏ, nổi tiếng trong thập niên 1950-1970. Tên tuổi của Bà gắn liền với ca khúc Xa khơi của nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ và nhiều ca khúc trữ tình cách mạng khác.

    Tiểu sử và sự nghiệp
    Bà tên thật Trương Tân Nhân, sinh năm 1932 tại làng Mai Xá, xã Gio Mai, huyện Gio Linh, Quảng Trị, trong một gia đình trí thức. Cha bà là ông đốc Hy, mẹ là con gái trong một gia tộc họ Hoàng. Lớn lên bà học tại trường nữ sinh Đồng Khánh (Huế).

    Cách mạng tháng 8 thành công, bà thoát ly gia đình theo cách mạng khi mới 13 tuổi. Bà tham gia đội phản gián, làm nhiệm vụ đưa tin, rải truyền đơn. Năm 1949, bà tham gia vào Đoàn Văn công Quân đội mặt trận Bình Trị Thiên và Trung Lào. Năm 1954, bà là diễn viên đơn ca tại Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương. Năm 1963, bà theo học khoa Thanh nhạc Trường Âm nhạc Việt Nam và tốt nghiệp năm 1968. Từ năm 1969 đến năm 1972, bà tu nghiệp tại Nhạc viện Sofia, Bulgaria. Về nước năm 1973, bà làm việc tại Đài Phát thanh Giải phóng, rồi Đài Tiếng nói Việt Nam. Bà còn là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt nam khóa II. Bà còn tham gia công tác đào tạo diễn viên cho Lào, xây dựng dàn hợp xướng cho các đội hợp xướng thiếu nhi ở Thủ đô Hà Nội.

    Tân Nhân có một giọng nữ cao trữ tình, đậm chất miền Trung. Bà thành công với nhiều ca khúc dân ca và trữ tình cách mạng như Xa khơi (Nguyễn Tài Tuệ), Tát nước đêm trăng, Nắng Ba Đình, Tình quê, Ru con (dân ca Nam Bộ), Tình quê hương (Trọng Bằng), Anh về miền Bắc, Chim Pongkle (Nhật Lai), Lăm tơi, Bên nôi con mẹ hát (Lê Lôi), Câu hò bên bờ Hiền Lương (Hoàng Hiệp - thơ Đăng Giao), Nhớ... và một số ca khúc nước ngoài. Đặc biệt với Xa khơi, được thu âm vào thập niên 1960, bà được đánh giá là người thể hiện thành công nhất ca khúc này, và đây cũng là một ca khúc gắn liền với tên tuổi của bà, được công chúng yêu thích và đón nhận rộng rãi.

    Tân Nhân đã được trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất và danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (1988). Bà mất vào ngày 14 tháng 2 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 76 tuổi.

    Đời sống riêng
    Năm 1949, trong trận càn ở Phong Lai, bà đã mất liên lạc với cơ sở. Tưởng bà đã chết, trường Huỳnh Thúc Kháng (nơi bà đang theo học) đã tổ chức truy điệu bà. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ - người bạn học cùng quê - đã viết ca khúc Xuân chết trong lòng tôi để tưởng nhớ tới bà [2]:

    ... Xuân ơi xuân
    Chim xa đàn
    Xuân ơi xuân
    Ngờ đâu xuân chết trong lòng tôi
    Trong tiếng đàn...
    Về sau bà đã yêu Hoàng Thi Thơ. Sau này ông Hoàng Thi Thơ sang bên kia chiến tuyến, riêng bà lúc đó đang mang thai. Về sau, Tân Nhân ở lại đất Bắc nuôi dạy con là ông Lê Khánh Hoài (lấy họ theo người cha dượng tức người chồng thứ hai của bà là nhà báo Lê Khánh Căn nguyên phụ trách Phòng Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam (cơ sở 2, tại TPHCM) và nguyên Trưởng ban Bạn đọc Báo Nhân Dân.Hiện nay ông Lê Khánh Hoài đang làm phóng viên, hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh và kịch nghệ. Bà có 2 người con với người chồng thứ 2 là ông Lê Khánh Châu và bà Lê Khánh Như. Ông Lê Khánh Châu hiện là Giáo Sư, Tiến Sỹ Khoa Học của Đại Học Bochum - Công Hòa Liên Bang Đức. Sau này, ông Lê Khánh Châu lấy con gái nhà thơ Tố Hữu và hiện giờ đang sống ở Cộng Hòa Liên Bang Đức

    Nguồn: http://vi.wikipedia.org
  20. giangcoi_vl Thành viên

    Thế mà giờ em mới biết đó.
    Ui za hổ danh người Quảng Trị wa ha.X_X

Chia sẻ trang này